Saturday, October 11, 2025

Từ giải Nobel văn học 2025

Phan Anh Sơn: Bài bình luận của bác Đặng Thân về giải Nobel năm nay và các năm trước có nhiều điểm thú vị.

“BẬC THẦY CỦA KHẢI HUYỀN HUNGARY”

Đó là tên gọi mà bậc kỳ kiệt Susan Sontag đặt cho chàng: “The Hungarian master of apocalypse” (“bậc thầy về thảm họa/ hậu tận thế của Hungary”). Giờ khắc tên chàng được xướng lên ở Stockholm không ai biết chàng đang ở đâu? Trieste (Ý), Berlin (Đức) hay Szentlászló (Hung)? Chỉ biết rằng chàng đang hội tụ đầy đủ những tiêu chí hạng nhất trên đời của một người đàn ông: “Tam Ánh” (tóc ánh bạc, ví ánh kim, chim ánh thép). Phụ nữ nào muốn chung hưởng vinh quang thì tìm chàng đi. Bởi tuy chàng có hai vợ nhưng đã bỏ luôn cả rồi. Có thế mới không bị quấy rầy khi ngồi viết những thứ nhảm nhí, nhả nhím, bí hiểm, biếm hỉ trong nhân luân hay thiên đạo. Ai vừa nói chàng già quá đấy? Dù chàng sinh năm Thìn đẹp rất (1952) nhưng bè lũ Nobel là không có tuổi. Bởi Nobel vật lý 1957 Dương Chấn Ninh khi 82 rồi vẫn có em Vong Phi 28 tuổi đòi lấy; chênh 54 niên chớ mấy. Hiện (2025) họ vẫn sống cùng nhau, và Dương Chấn Ninh đã 103 tuổi (sinh năm 1922).

Những tộc người xuất phát từ Trung Á có chất bí hiểm, mà lại cực hữu dụng. Như người Đột Quyết gây giống cho người Duy Ngô Nhĩ; Tatar và Bashkir ở Nga và Siberia; Uzbekistan, Turkmen, Kazakhstan, Kyrgyz, và Azerbaijan; rồi Thổ Nhĩ Kỳ đã thành lập Đế chế Seljuk rồi Đế chế Ottoman, và sau đó là Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, là dòng hậu duệ mạnh mẽ nhất. Như người Hung Nô để lại các giống cơ bản Mông Cổ, Hán, Nhu Thiên, Thổ Dục Hồn và Hung. Chả thế, Hungary có mỗi 9,6 triệu dân (gần bằng TPHCM) mà ẵm 16 cái Nobel rồi. 

I - ÔI, NOBEL! 

Đã quá lâu rồi, gần 1/4 thế kỷ, Ủy ban Nobel mới trao được một cái Nobel văn học nên hồn. Giữa hai Nobel của hai người Hung, 2002 của Imre Kertész  “nhân chứng lạnh lùng của phi lý” (existential witness of totalitarianism) và 2025 của László Krasznahorkai “nhà tiên tri mộng loạn của tận thế” (visionary prophet of apocalypse) là cả đống các ông bà lãng xẹt. Cả một “vùng trũng Nobel” có một “cảm giác lãng nhách tập thể”:

 Giai đoạn 2003-14: Nobel đi tìm linh hồn (mà quên mất văn chương). Sau Kertész (2002), có một loạt gương mặt rất “có đạo đức nhưng hơi bị hết hồn”. Thực ra là Nobel mất hướng. Sau Kertész, Nobel rời bỏ ý niệm “thiên tài văn chương” để chạy theo “đạo đức toàn cầu”. Họ trao giải cho người đại diện cho một lập trường, không phải một giọng văn. Kết quả: 10 năm liền, Nobel như một giáo sư mệt mỏi đi phát bằng danh dự cho những ai “đã chịu khổ đúng hướng”: 

2003 – J.M. Coetzee: lạnh lùng, vô cảm kiểu phòng thí nghiệm đạo đức.

2004 – Elfriede Jelinek: cực đoan nữ quyền, trào ngược tinh thần.

2005 – Harold Pinter: kịch thuyết chính trị hóa, gần như chống văn học.

2006 – Orhan Pamuk: viết đẹp, nhưng chính trị nhiều hơn văn.

2007 – Doris Lessing: triết lý mỏi mệt của thời hậu thuộc địa.

2008 – Le Clézio: nhẹ như hơi sương; đọc xong tưởng là brochure du lịch.

2009 – Herta Müller: viết OK, nhưng nặng mùi “hồi ký chế độ”. 

2010 – Vargas Llosa: ngoại lệ duy nhất, có lửa và cấu trúc.

2011 – Tomas Tranströmer: thơ cực tinh tế, nhưng gần như tịch mịch.

2012 – Mạc Ngôn: chảy mỡ ngôn ngữ nhưng rối loạn giọng điệu.

2013 – Alice Munro: kể chuyện như dạy kỹ năng sống nhẹ nhàng.

2014 – Patrick Modiano: ký ức mờ nhòe, thơm mùi bụi.

 Giai đoạn 2015-24: Nobel bước vào thời “văn học đạo đức học”, đề cao “chứng nhân”, “bản sắc”, “ký ức”, “bị áp bức”, hơn là nghệ thuật ngôn ngữ. Từ Alexievich qua Ernaux tới Glück, văn học trở thành “công cụ nhận lỗi”, không còn trò chơi sáng tạo. Ngoại lệ hiếm hoi có Handke (ngang ngược), Ishiguro (lạnh trí), Fosse (trầm thiền).

2015 – Svetlana Alexievich: là… nhà báo, biên tập viên của “tiếng khóc tập thể”, một Nobel cho… người ghi âm nỗi đau.

2016 – Bob Dylan: là… ca-nhạc sỹ, he he văn học tạm nghỉ, Spottify lên ngôi. 

2017 – Kazuo Ishiguro: văn lạnh, nhưng nhẹ như sương mù London (văn chàng rất dễ dựng phim vì copy tất cả các loại phim ăn khách).

2018 – (hoãn, do bê bối tình dục ở Viện Hàn lâm): cả thế giới văn học xả hơi, ai cũng thốt lên: may quá!

2019 – Peter Handke & Olga Tokarczuk: gây tranh cãi (Handke ủng hộ Serbia, Tokarczuk là “kẻ phá hoại bản sắc Ba Lan”), Nobel cho một kẻ bị tẩy chay và một kẻ gây chia rẽ; thế là Viện Hàn lâm đã… điên trở lại. 

2020 – Louise Glück: thơ “tối giản”, trầm, lạnh như đá. 

2021 – Abdulrazak Gurnah: gốc Zanzibar hậu thuộc địa, một Nobel “hiện thực phải đạo” (politically correct) điển hình: nhân đạo, đúng hướng, nhưng nhạt nhòa. 

2022 – Annie Ernaux: viết như luận án, đọc như nhật ký; chân thật nhưng vô vị.

2023 – Jon Fosse: kịch & tiểu thuyết tối giản, nhịp thở thần học, chữ như tuyết lạnh. 

2024 – Han Kang: bi kịch được tiệt trùng; đẹp, sạch, buồn và… vô vị.

Đến khi Krasznahorkai xuất hiện, thì văn học Đông Âu bỗng trở lại bằng cơn loạn ngôn, không phải đạo đức; và người ta mới nhận ra: sau quá nhiều “ý nghĩa nhân đạo” (cũng như “chính trị phải đạo”), thế giới khát điên rồ. 

.

II - KRASZNAHORKAI

Tất nhiên Krasznahorkai kinh lắm. Những người Hung am hiểu về văn học đều ngưỡng mộ ổng, họ bất bình là sao mãi tận bây giờ, sau Kertész Imre 23 năm, ổng mới nhận được giải Nobel! Ông được đánh giá cao hơn Kertész vì không bỏ nước ra đi, tác phẩm mang tư tưởng gần với “đạo Trời” hơn là tư tưởng Do Thái của Kertész! 

Có bốn tác phẩm lớn tạo thành “trục tinh thần” của Krasznahorkai, thường được gọi là “Tứ khúc Khải huyền” (Apocalyptic Quartet):

1. Sátántangó (1985): sự sụp đổ của cộng đồng và niềm tin.

2. Az ellenállás melankóliája (The Melancholy of Resistance | Nỗi sầu của kháng cự, 1989): hỗn loạn chính trị, khát vọng cứu rỗi, và sự mê hoặc của quyền lực. 

3. Az utolsó farkas (The Last Wolf, Con sói cuối cùng, 2009): suy tưởng hiện sinh về tuyệt chủng và lương tri.

4. Seiobo járt odalent (Seiobo There Below, Seiobo dưới trần, 2008): chiêm nghiệm về cái đẹp thiêng liêng và thời gian bất tận.

Trong đó, Sátántangó vẫn được xem là tác phẩm biểu tượng nhất, vì nó khởi nguồn toàn bộ vũ trụ văn chương của Krasznahorkai, nơi con người, ngôn ngữ, và đức tin cùng rơi vào vòng xoáy tận thế. Đó là tác phẩm quan trọng và nổi tiếng nhất của László Krasznahorkai được giới phê bình quốc tế và chính ông coi là trục trung tâm trong toàn bộ sự nghiệp của mình. Đây là tiểu thuyết đầu tay nhưng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của ông, đặt nền cho toàn bộ phong cách: câu văn dài vô tận, cấu trúc vòng lặp, giọng văn tận thế, và sự phân rã của ý thức con người trong thế giới hậu ý nghĩa.

Tiểu thuyết của ông đậm chất thần thoại nhưng đời thường, dễ đọc. Chính ông phát biểu: “Cuộc sống của tôi chẳng có kế hoạch, tôi chẳng thích lên kế hoạch. Một ngày nào đó trong tuổi thơ, tôi đã sống theo cách mà tôi nghe thấy từ tiếng nói của những nhân vật chưa tồn tại và liên tục muốn bước vào cái thực tại mà con người chúng ta đang nhận thức. Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc viết ra những giọng nói này. Tôi không đi đâu đó với ý định viết sách, mà để không nghĩ đến việc viết sách. Nhưng một trong số hàng trăm hay hàng ngàn nhân vật chưa tồn tại ấy có thể chạm đến tôi ở bất cứ nơi nào bằng sự hiện diện của họ, bằng một chuyển động, bằng một cử chỉ. Trong khoảnh khắc họ chạm mặt tôi, tôi nghe thấy những lời nói của họ, câu chuyện của họ, số phận của họ… bằng một sức mạnh khủng khiếp, họ giận dữ chỉ ra rằng, họ có một chỗ đứng nơi đây.” Có thể nói, đây là tư tưởng bao trùm lên những sáng tác của ông. 

.

III - SÁTÁNTANGÓ

1. Ở VN & TRÊN TG:

Đã có hai cuốn của Krasznahorkai được dịch ra tiếng Việt. Đó là War & War (Chiến tranh & chiến tranh, 2017) và Sátántangó (Vũ điệu quỷ Satan, 2022). Có lẽ độc giả Việt chưa mấy để ý đến ông, do cách viết rất khó: giọng văn âm u, một câu kéo dài cả mấy trang… Nhưng, vấn đề lớn là dịch giả (nói chung & nói riêng). Nghe nói dịch giả tiếng Hung cuốn này chỉ quen viết báo cáo và giải trình. 

Ngay cái nhan đề Vũ điệu quỷ Satan là quá xa ý tác giả rồi (nghe như một tên phim “kịch xà phòng”). Sátántangó rất rõ ràng là từ ghép của “Satan” và “tango”. Sao lại coi thường Krasznahorkai khi ông đã dụng công dùng từ “tango”? “Satan” thì ai cũng hiểu là quỷ, nên dịch “quỷ Satan” là thừa. Đây là điệu tango của quỷ, nhưng cũng hàm ý về một điệu nhảy định mệnh. Nếu dịch thành “Điệu tango của quỷ” sẽ chính xác hơn về nhịp, không khí và ẩn dụ. Bởi tango là điệu nhảy có bước tiến, bước lùi, y hệt cấu trúc tiểu thuyết này (6 chương tiến, 6 chương lùi). Nó cũng là điệu nhảy hai người, đầy mê hoặc, quyến rũ và hủy diệt, biểu tượng của sự đồng lõa giữa người và quỷ, giữa kẻ bị dẫn dụ và kẻ thao túng. Vì vậy, nhan đề “Điệu tango của quỷ” vừa đúng về ngữ pháp, chuẩn xác và trang trọng, vừa chạm đúng vào trái tim biểu tượng của tác phẩm. Các cách dịch khác: “Điệu tango Satan” (vừa huyền bí, vừa trừu tượng), “Tango Quỷ” (ngắn, ám ảnh, hợp bìa sách hoặc phim). 

Phải nói ngay là cuốn sách đình đám này chưa chắc được mấy người mua đâu, nên các nhà văn dấn thân chớ vội nghĩ đến tiền. Sách ra năm 1985, thời nhộm nhoạm ấy đủ thứ lo, mấy cao thủ bỏ tiền mua sách. Cuốn sách chỉ trở nên đình đám khi được đạo diễn Béla Tarr dựng thành phim năm 1994. Phim dài tới bảy tiếng rưỡi, dễ mấy ai kiên nhẫn mà xem, ngoài các cán bộ như chị Ngô Phương Lan, chớ nhấp nhổm như anh Trần Lực thì lấy đâu ra kiên nhẫn mà ngồi xem cả ngày không ăn trưa! Nhưng!! 

Phim hay đến từng xăng ty mét vuông. Mở đầu là cảnh nông trang (XHCN) hoang nát và một đàn bò ngơ ngáo, đạo diễn cho kéo dài miên man, đến suốt… 6 phút, mà chỉ có cảnh động là hai anh bò lần lượt nhảy phóc lên đít hai chị bò, từng ấy đã đủ làm người xem… liệt kháng ngay từ đầu. Tiếp đó, khi có nhân vật người xuất hiện thì choán giữa khung hình là một chị ngồi zửa bướm trên cái chậu thau. Zất kỹ càng. Zưng chắc chắn khán giả đã bị thôi miên, để yên cho đạo diễn dắt vào tiểu thuyết trường thiên vĩ đại của Krasznahorkai. 

Sau cú phim quá hoành tráng ấy thiên hạ bắt đầu quan tâm tới Sátántangó. Ước chừng hai vạn bản tiếng Anh đã được bán ra, toàn cầu. Suy ra, bản gốc tiếng Hung chắc bán được hai-ba ngàn cuốn! Lãi lọ cồn. 

2. NỘI DUNG: 

Vào khoảng đầu những năm 80, đâu đó ở miền Đông Nam Hungary, vũ điệu độc đáo của Sátántangó diễn ra trên những tàn tích sống động của một khu trang trại nông nghiệp cũ. Irimiás đến thế giới khép kín và bất động này, cùng với Petrina, để làm lóa mắt những người dân địa phương sống ở nông thôn này, những người đang bám víu sinh tồn, với những hy vọng và ảo tưởng mới. Tiểu thuyết đầu tay này của ông trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học Hungary và thế giới hiện đại. Sátántangó, chứa tải những kiến thức xã hội học, như một câu chuyện ngụ ngôn muôn thuở về sự mong manh của đời người, về sự giải thoát và vướng víu, về ân sủng và lòng thương xót của Thượng đế, về những thảm họa sắp xảy ra. Văn phong cuốn hút, người đọc dễ “lên đồng”. 

Truyện được kể theo nhiều góc nhìn khác nhau, cấu trúc “tiến-lùi” giống vũ điệu tango. Sách có 12 phần: 6 phần tiến, rồi 6 phần hồi lại (gồm các tựa chương tiến rồi lùi). Dưới đây là diễn biến chính:

a) Khởi đầu – tiếng chuông: Truyện mở đầu khi Futaki (một cư dân trong trang trại) nghe thấy tiếng chuông vào một buổi sáng cuối thu, báo hiệu một điều bí ẩn sắp tới. Tiếng chuông này cũng xuất hiện ở cuối truyện, tạo tính vòng lặp. Đồng thời, người ta biết rằng Irimias, người đã được cho là chết, đang trở về trang trại cùng người cộng sự Petrina. 

b) Irimias & Petrina – sự phục sinh/ “cứu rỗi”: Khi Irimias và Petrina xuất hiện, những người dân trong trang trại đón nhận họ như những cứu tinh, tin rằng họ sẽ đem lại thay đổi, cứu vãn tình hình. Nhưng thực ra, Irimias là nhân viên tình báo trá hình (spy, nội gián) làm việc cho nhà nước, sử dụng dân làng như công cụ để mở rộng mạng lưới giám sát. Ông ta lôi kéo người dân rời bỏ trang trại cũ, đến một trang trại mới, rồi từ đó giải tán họ, phân tán họ để điều khiển và giám sát. 

c) Sự tan vỡ của ảo tưởng & số phận của nhân dân: Những người dân từng trao niềm tin cho Irimias dần nhận ra sự sai lệch, nhưng họ đã mất chỗ dựa. Có cái chết, có sự tan vỡ, ví dụ như cái chết của cô bé Esti, một nhân vật trẻ tuổi mang nhiều ẩn ý về niềm tin, hy vọng, và khát khao thoát khỏi thực tại. Trong khung truyện này, bác sĩ trong trang trại (người gần như quan sát hành động của cộng đồng) cố gắng ghi lại, can thiệp bằng cách ghi chép, nhưng cuối cùng nhận ra rằng việc “ghi lại”, hay viết, có thể là cách duy nhất để phản kháng lại sự tàn phá, dù thật nhỏ nhoi. 

d) Kết thúc vòng lặp: Kết thúc truyện quay trở lại tiếng chuông đầu truyện, vòng tuần hoàn thời gian, vòng vũ điệu giữa hy vọng và thất vọng, giữa đen tối và ánh sáng. Truyện không kết thúc bằng một giải pháp rõ ràng, mà để lại nhiều khoảng trống suy ngẫm, về ý nghĩa, về sức mạnh, về cái thiện và cái ác, và về số phận con người dưới áp lực quyền lực. 

3. CHỦ ĐỀ & Ý NGHĨA: 

a)  Sự luân hồi/ vòng quay tuyệt vọng: Cấu trúc tiến-lùi, vòng lặp tiếng chuông, sự khởi đầu và kết thúc đồng thời là điểm mở, tất cả gợi lên cảm giác rằng con người bị mắc kẹt trong chu kỳ căng thẳng, hy vọng và thất vọng. 

b) Niềm tin, cứu rỗi giả tạo, và quyền lực ngầm: Irimias tượng trưng cho kẻ cứu tinh giả, kẻ đứng giữa quyền lực nhà nước và người dân, biến niềm tin của dân thành công cụ thao túng. Những người dân trong sự tuyệt vọng dễ bị dẫn dắt bởi ảo tưởng cứu rỗi, và khi nhận ra thực tế nghiệt ngã, họ không còn chỗ dựa.

c) Thời gian, sự hủy hoại, và sự đổ nát: Mưa không ngớt, những ngôi nhà đổ nát, cảnh hoang tàn; tất cả làm nổi bật sự suy tàn của môi trường sống, nhưng cũng là hình ảnh cho sự mục ruỗng tinh thần của con người. 

d) Sự quan sát & viết như phản kháng: Bác sỹ (người kể chuyện) cố ghi chép, ghi lại cái hỗn loạn, cái đau như cách làm sống sót bản thân và phản kháng câm lặng trước quyền lực áp bức. 

e) Cái thiện và cái ác không rõ ràng: Truyện không vẽ ra “Satan” theo hình tượng rõ ràng, mà nhiều lúc quyền lực ác quỷ xuất hiện qua các mối quan hệ, thông qua niềm tin sai lệch, qua hệ thống thao túng. Có lúc Irimias giống nhân vật cứu rỗi, có lúc giống ác quỷ. Nhân vật “tốt” và “xấu” bị mờ đi; ranh giới giữa chúng trở nên mơ hồ. 

Sátántangó nổi bật bởi kết cấu vòng lặp như một bản tango, tiến sáu bước rồi lùi sáu bước, phản chiếu chu kỳ tuyệt vọng của con người. Văn phong đặc trưng với các câu dài miên man, tràn ý thức, mô tả thế giới hoang tàn bằng nhịp điệu mê loạn. Tác phẩm hòa trộn hiện thực tăm tối và huyền ảo triết học, nơi mưa, bùn, rượu, và sự mục ruỗng của một cộng đồng trở thành ẩn dụ cho sự sụp đổ tinh thần sau chủ nghĩa toàn trị. Nhân vật Irimias “cứu tinh giả” hiện thân cho quyền lực thao túng niềm tin, biến tôn giáo và lý tưởng thành bẫy. Giữa sự tan rã ấy, bác sỹ ghi chép như một hành vi phản kháng bằng ngôn từ. Tác phẩm tạo nên một vũ điệu giữa đức tin, ảo vọng và hư vô, nơi địa ngục mang hình dáng của đời sống thường nhật.

Đặng Thân

Tự học

Jim Rohn - bậc thầy tư duy triệu phú từng nói: “Việc tự học sẽ giúp bạn kiếm cả một gia tài.”

Nghe thì đơn giản, nhưng đó là một chân lý mà hàng triệu người vẫn đang bỏ qua, vì họ mãi đợi ai đó đến dạy mình cách thành công.

Người giàu không đợi ai chỉ đường mà họ tự vẽ đường cho mình đi: Elon Musk học chế tạo tên lửa bằng cách đọc sách và kiên trì thực hiện. Steve Jobs bỏ đại học, nhưng tự học thiết kế, mỹ học, công nghệ và tạo ra Apple. Ngay cả Warren Buffett, mỗi ngày vẫn dành 5 tiếng chỉ để đọc, học, nghiền ngẫm.

Tự học là quyền năng mà người nghèo thường xem nhẹ. Người thường hỏi: “Ai sẽ dạy tôi?”. Người thành công hỏi: “Tôi có thể học được gì hôm nay?”

Họ không viện cớ “bận rộn”, họ dành ít nhất 1 giờ mỗi ngày cho kiến thức. Họ hiểu rằng: kiến thức miễn phí đầy trên mạng chỉ thiếu người chịu khó học.

Muốn giàu hãy học như "kẻ khát nước giữa sa mạc":

- Không có t.iền đi học? Internet là trường đại học miễn phí lớn nhất hành tinh.

- Không có người hướng dẫn? Sách là người thầy kiên nhẫn nhất trong đời bạn.

- Không biết bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chính điều bạn đang sợ.

Giàu có không đến từ may mắn, nó đến từ hành trình bạn âm thầm tích luỹ kiến thức mỗi ngày. Vậy nên đừng hỏi: “Làm sao để giàu?”. Hãy hỏi: “Hôm nay tôi đã tự học gì để giàu hơn ngày hôm qua?”

Vì trong một thế giới mà kiến thức là tài sản thì tự học chính là con đường ngắn nhất để bạn tạo ra cả một gia tài!

(copy từ FB/Tạp chí Doanh Nhân)

Friday, October 10, 2025

Góc tranh luận và lý sự cùn của quân ta

Văn hóa tranh luận kiểu ta. Bài viết cách đây 6 năm. 

Thư giãn cuối tuần - Da mỏng, mặt dầy

Hồi nhỏ tiều phu ở gần trụ sở hai phái đoàn Canada và Ấn Độ trong Ủy ban Quốc tế giám sát hiệp định Genève. Phái đoàn Canada (chúng tôi gọi là Gia Nã Đại) đóng trong ngôi nhà quét vôi trắng, cửa sơn xanh ở số 2 Phạm Sứ Mạnh, phía trước có tấm biển vuông bằng đồng ghi „Délégation Canadienne“. Cạnh đó là khu nhà của phái đoàn Ấn Độ (12 Phan Chu Trinh), cũng có tấm biển ghi bằng các ký tự con giun. Chúng tôi thường đến đó để xin nắp chai bia về đập ra làm xèng chơi. 

Lính Ấn Độ quấn khăn Sik là hình ảnh mà tôi vẫn nhớ từ những năm 50 của thế kỷ trước.

Những ngườil ính Ấn Độ trông đen đúa dữ tợn nhưng rất vui vẻ. Họ hay để dành nắp bia và nắp chai nước ngọt cho tụi trẻ chúng tôi. Các chú lính Gia-Nã Đại thì rất đẹp trai, hay đội mũ nồi xanh hoặc đỏ, cũng vui vẻ, nhưng chẳng mấy khi cho chúng tôi nắp bia.

- Đẹp trai mà keo kiệt! Tôi than phiền. 

Thằng Bằng, con bác Hoàng Tuấn ở cùng nhà, phụ họa: Bọn Gia Nã Đại này vừa tư bản vừa điên. 

Người lớn dạy chúng tôi: Trong Ủy ban Quốc tế chỉ có Ba-Lan là tốt, vì là đồng chí. Gia-Nã-Đại là phe của đế quốc Mỹ, còn Ấn Độ là trung lập ba phải, adua với đế quốc (vì Ấn Độ chống Trung Quốc trong vụ khủng hoảng Tây-Tạng  Xich-Kim, còn ta thì bênh Trung Quốc).

Thế nên tôi hỏi Bằng: 

- Ừ, Gia Nã Đại tư bản, keo kiệt thì đúng rồi, nhưng sao cậu bảo nó điên?

- Xem biển nó ghi là Canadienne kia kìa (đọc là Ca Na điên).

Sau này lớn lên, hiểu biết thêm về Canada, tiều phu phục xứ này sát đất. Một quốc gia với hơn 30 triệu dân, ở sát nước Mỹ, kinh tế phát triển như Mỹ, nhưng lại vượt xa Mỹ về an sinh xã hội, khác xa Mỹ về lối sống, về văn hóa. Canada tuy nhỏ, nhưng luôn đóng góp tích cực vào sinh hoạt quốc tế. Trong cả hai cuộc đại chiến, dù không bị tấn công, quân đội Canada vẫn có mặt khắp mọi nơi để bảo vệ tự do. 

Chắc là các chú lính Canada ngày xưa ít uống bia nên không có nắp bia chứ không keo kiệt.

Lính Canada từng có mặt trong nhiều cuộc chiến, mặc dù đất nước họ không bao giờ bị đe dọa.

Hôm nay tình cờ tiều phu đọc được bài của Jesse Peterson, một người Canada sống ở Việt Nam nhiều năm.  Anh ta khuyên người Việt nên „học văn hóa tranh luận.

Jesse nhớ lại việc cậu em trai ăn chặn cái bánh kem của cậu.

„Bánh kem mẹ làm ngon lắm, nên tôi rất bực mình. Trước khi tôi kịp thốt nên lời nào, nó đã liền bịt miệng tôi bằng câu: "Lần trước anh cũng lén ăn kẹo của em còn gì?".

Thằng em láu lỉnh của tôi đã thành công khi chuyển trọng tâm cuộc tranh luận về việc "nó đang ăn bánh kem của tôi" thành " bởi vì tôi cũng đã lén ăn kẹo của nó".

Việc này cũng giống như khi tranh luận về không khí ô nhiễm ở Hà Nội. Nhiều người lái trọng tâm của cuộc tranh luận về cách giải quyết vấn đề ô nhiễm sang vấn đề: Hà Nội có phải là thành phố ô nhiễm nhất thế giới?....

…..Chẳng hạn, khi tranh luận về ô nhiễm ở Hài Nội, liệu nó có thực sự tệ nhất thế giới hay chỉ là hơi tệ thôi? Một số người Việt có cảm giác vấn đề ô nhiễm không tệ như họ nghe nói và cho rằng đây chắc hẳn là âm mưu nào đó nhằm bôi nhọ Việt Nam.

Tôi thấy người Việt thường phản ứng khi bị chỉ trích; "tu quoque" (tiếng latin), nghĩa là: "Bạn cũng thế" hoặc "ad hominem" (tiếng Latin), nghĩa là công kích cá nhân.

Ví dụ, một người nước ngoài mới đến Việt Nam, bức xúc khi thấy người ta vứt rác ra đường hoài. Anh ta viết trên mạng xã hội,

"Tại sao mọi người cứ vứt rác bữa bãi ra đường như thế? Các bạn không yêu môi trường gì cả."

Thế là nhiều người Việt đọc được thấy bị xúc phạm, tự ái. Thay vì giải quyết vấn đề rác, họ có thể trả lời theo một số cách sau:

"Thấy bẩn thì về nước của bạn mà sống!" 

"Người dân nước bạn cũng thế mà nói ai" 

“Ở đâu cũng có người này, người kia, có người xả rác, có người không nhé."

------

Tôi thấy Jess nhận định khá chính xác về văn hóa tranh luận của người Việt. 

Khi tôi viết về môi trường, nêu các lối sống tiêu thụ, lãng phí của người Việt thì có bác chửi là: Ông ở Đức, nơi đốt nhiều nguyên liệu, tiêu thụ nhiều thịt hơn Việt Nam thì sao không phê người Đức ? 

Khi ai phê phán Trump về việc gì, lập tức bị phản pháo lại bằng các tội lỗi của Obama chẳng hạn.

Để bảo vệ sai lầm của mình, người Việt hay vác tội lỗi của người khác ra bảo, thằng đó còn kinh hơn thế sao mày không chửi nó.

Đó không phải là tranh luận, mà là chạy tội. 

Đã thế, lại còn ăn thua nhau từng câu chữ. Trong vài bài viết của tôi, có những đôi gà chọi nhảy vào kịch chiến tay đôi với nhau một cách càng về sau càng vô nghĩa. Cuối cùng, tôi phải nhảy vào khuyên họ ”không nói không có nghĩa là thua”.

Jess Peterson có đưa ra khái niệm "thick-skin" (da dầy):

"Thick-skin là một bộ áo giáp để bảo vệ cảm xúc của bạn, tránh để những xúc tác bên ngoài kích động bạn, nhờ đó, bạn có thể nhìn một vấn đề với các kỹ năng tư duy phê phán….Chỉ cần phát triển văn hoá tranh luận và thảo luận một cách hiệu quả và bình tĩnh, tìm gốc rễ của vấn đề tranh luận, gạt bỏ cảm xúc sang một bên, chúng ta có thể cùng nhau phát triển. Ít nhất mình có thể nói chuyện cùng nhau.”

Thì ra tay Ca-Na-Điên này giữ được cái đầu lạnh nhờ có da dầy.

Người Việt chúng ta không điên thì da lại mỏng quá (nhưng mặt thì dầy).

https://www.facebook.com/jesse.../posts/10162305496350134

Nguyễn Xuân Thọ

Sunday, October 5, 2025

Tầng lớp tinh hoa và dân tộc

 Không có tinh hoa thì ngộ nhận của dân tộc do đám đông thúc đẩy sẽ lên ngôi và ngược lại.

Ngộ nhận dân tộc và tinh hoa

    1. Ngày nay chúng ta thường mặc định là  ý chí của đa số là chân lý, ý chí của một người thường dẫn tới độc tài.  Điều đó nói chung là đúng trong xã hội văn minh như Âu Mỹ, tuy không phải không có ngoại lệ. 

     2. Ở các xã hội kém văn minh (hiện tại hoặc đã từng có trong lịch sử), điều đó trở nên tranh cãi. Một dân tộc có thể ngộ nhận và đồng lòng tự nguyện chọn khả năng sai lầm. Người ta thường cố giữ chân lý đầu bằng cách giải thích bằng cách giải thích rằng dân tộc đó không có tự do lựa chọn và bị áp đặt bởi độc tài. Tuy nhiên ở đây có một ranh giới mờ như Ceasar nói "Không có sư tử nếu như không có đàn cừu". Độc tài không phải bao giờ cũng bắt đầu bằng vũ lực, mà bắt đầu bằng sự tôn vinh của đám đông, khi có một cá thể gãi đúng chỗ ngứa ngộ nhận của xã hội, rồi dẫn đến sự lên đồng tập thể. 

      3. Tôi không tin ở sự quyết định dựa trên đám đông sẽ dẫn tới chân lý. Đám đông là một phép lấy trung bình. Phép trung bình chỉ có thể là phương án sáng suốt nhất trong một số hoàn cảnh ngoại lệ đặc thù. Tôi cho rằng xã hội cần có những bộ óc lóe sáng, với tư duy bừng sáng soi đường, như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Copernicus, Bruno Giordano,... Hầu như luôn luôn họ đơn độc và thiểu số. Lão Tử viết xong Đạo Đức Kinh phải cưỡi lừa mà bỏ nhân thế mà đi. Stendhal viết Đỏ và Đen chỉ in được 300 cuốn, bán không hết. Hàn Phi viết Cô phẫn, xong thấy mình cô đơn cùng cực.  Lấy ý kiến đám đông những tư tưởng đi trước thời đại như vậy là một sự man rợ. Khổng Tử được tôn vinh vạn thế sư biểu, thiết kế ra các thiết chế cho hàng ngàn năm, khi sống cũng "chạy như chó nhà có tang".

     4.  Plato cũng đã từng theo đuổi ý tưởng xã hội phải được vận hành bởi các tinh hoa. Ở đâu đó chân lý nằm giữa dân chủ phổ thông đầu phiếu và dân chủ tinh hoa. Chính vì thế ở một nơi dân trí đủ văn minh cho việc bầu tổng thống trực tiếp như Mỹ, vẫn phải có hai viện, Hạ Viện theo nguyên tắc đầu phiếu phổ thông, có quyền đề xuất,  Thượng Viện theo nguyên tắc tinh hoa, có quyền phủ quyết.   

     5.  Một dân tộc có thể ngộ nhận vì nhiều nguyên do, nhưng nói chung là do thiếu một điều gì đó. Có thể thiếu tri thức, thiếu một căn tính hoặc thiếu một số thứ quan trọng khác. Việt Nam thời Tự Đức là trường hợp thiếu tri thức, lạc hậu với thế giới, nhưng không thể nói là thiếu căn tính. Căn tính của tộc Việt đã được hình thành trong một thời gian dài, thử thách qua nhiều cuộc chiến giữ nước, mất nước rồi cứu nước từ Trần, Lê, Tây Sơn,... Nước Đức thời Hitler đã là cái nôi của khoa học, triết học không thể nói là thiếu tri thức mà là thiếu căn tính. Chủ nghĩa dân tộc thái quá đều bắt nguồn từ mặc cảm thiếu căn tính. 

      6.  Khi cả một dân tộc ngộ nhận, sẽ là thời cơ của những người dân túy, hoặc những kẻ có máu độc tài biết nói giọng dân túy. Nói một cách khác dân tộc đó sẽ tôn vinh một kẻ đại diện cho sự ngộ nhận của mình, cho dù kẻ đó trong thâm tâm có chia sẽ ý thức ngộ nhận đó hay không. Tôi nghĩ Mao Trạch Đông, không phải không thấy được vấn đề của xã hội Trung Quốc như Lỗ Tấn đã chỉ ra, tất nhiên không thể sâu sắc bằng, nhưng ông ta được một bầy cừu tôn làm sư tử để phục vụ ý thức hệ và lý tưởng làm cừu của đám đông nông dân theo ông đến Tây An.  Độc tài có thể cũng là nhân vật rất cô đơn.

     7. Napoleon là một nhà độc tài trên cơ sở một tư tưởng cách mạng. Ông kiên quyết xuất khẩu tư tưởng chống trật tự phong kiến cũ ra toàn châu Âu. Tuy nhiên ông phải lên ngôi hoàng đế, trở thành một nhà độc tài, trái với lý tưởng ban đầu. Có thể nước Pháp lúc đó đã chán chường với sự bất ổn của cách mạng đem lại, cần một vị hoàng đế dù là miễn cưỡng. Cromwell có lẽ cũng gần như vậy, mặc dù ông không lên ngôi hoàng đế. Piotr Đại đế cũng đã phải trở thành độc tài, độc đoán với cả con trai, để cải cách nước Nga. Nếu không muốn độc tài các nhà độc tài này đã không thể ngồi đó, đơn giản vì xã hội đang cần sự độc tài. 

        8. Có những trường hợp may mắn hơn, nhà lãnh đạo không cần trở thành độc tài, nhưng cần sự quả cảm để quyết định sáng suốt nhưng đơn độc. Tổng thống Mỹ Kennedy cho rằng quả cảm, dám quyết định một mình là ưu điểm lớn nhất của nhà lãnh đạo. Tất nhiên, để quả cảm quyết định thành công, mà không phải trở thành độc tài, nhà lãnh đạo cần một môi trường văn minh và phù hợp. Nhưng thật không may, ngay cả tổng thống Kennedy và môi trường dân chủ tự do như Mỹ cũng dẫn tới kết thúc bi thảm của cá nhân ông. 

      9. Tôi thấy Chu Công, Jefferson thật là may mắn được sinh ra ở một thời kỳ có thể áp đặt những tư tưởng tinh hoa, thiểu số và đi trước thời đại để tạo là một thể chế lâu dài và rực rỡ. Trong khi đó Vương An Thạch, Calvin thất bại xót xa. Chẳng qua cũng chỉ là vì môi trường không phù hợp, đâu có phải vì do thiếu ủng hộ của đám đông. Cũng có thể nói đó cũng là kết quả của một sự ngộ nhận dân tộc. Có thể một môi trường tâm lý dân tộc bớt căng cứng sẽ ít có khả năng ngộ nhận hơn. Khi đó có thể chúng ta sẽ cần Bergsson, Molièrre hơn một Nietzche.

Nguyễn Ái Việt (DEBRECEN.vidi72)

27 Apr. 2022

Thursday, October 2, 2025

Buổi tọa đàm quan trọngvề tư duy lượng tử

 
VCCI building - Nơi gặp gỡ để khơi dòng chảy tư duy lượng tử trước cơ hội lịch sử

Phần đầu của buổi tọa đàm

Nội dung chính của buổi tọa đàm

Nguyễn Ái Việt diễn giải vấn đề bằng ngôn ngữ phổ cập/dễ hiểu nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu để tiếp cận và nắm bắt được tư duy lượng tử - một sự chuyển biến về nhận thức của đất nước trước vận hội mới