Monday, November 10, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (01)

Ngày Độc lập của Israel là 1 trong những ngày lễ lớn nhất của quốc gia này, trong khi với người Palestin và các quốc gia Ả Rập, thì đây là ngày tang thương.

Việc hòa giải 2 dân tộc là vấn đề ko đơn giản!

------------

Phần mở đầu

Mong ước của người Do Thái nhằm quay trở lại nơi mà họ coi là Tổ quốc theo đúng quyền lợi của họ đã được thể hiện lần đầu tiên trong thời gian chiếm đóng của người Babylon sau năm 597. Nó đã trở thành một đề tài chính của người Do Thái từ sau những cuộc chiến tranh Do Thái-La Mã, dẫn tới việc phá huỷ Jerusalem của người La Mã năm 70, và việc trục xuất người Do Thái sau đó. Cộng đồng người Do Thái và những người còn ở lại tiếp tục coi vùng đất đó là quê hương tinh thần và miền đất hứa của họ; không hề có bằng chứng về bất cứ một sự gián đoạn nào trong sự hiện hiện của người Do Thái tại vùng đất đó trong hơn ba nghìn năm qua. Trong nhiều thế hệ, chủ đề chính đa phần mang tính chất tôn giáo dựa trên lòng tin về việc người Do Thái sẽ quay trở lại Zion với sự xuất hiện của Messiah, tức là, chỉ sau khi có sự can thiệp của thần thánh; một số đã đề xuất hay cố gắng quay trở lại sớm hơn, nhưng họ chỉ là thiểu số.

Tuy nhiên, từ thời Holocaust, chủ nghĩa Do Thái đã lấn át trong những người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (Zionist). Hiện hay, tất cả những người theo phái Cải cách, Bảo thủ và Chính thống đều là người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái; và thậm chí những người Do Thái Haredi đã thay đổi từ chống Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (chống đối tích cực Chủ nghĩa phục quốc Do Thái) thành không theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (giữ thái độ trung lập với Chủ nghĩa phục quốc Do Thái.) Những phong trào không theo Phục quốc Do Thái hiện nay rất hiếm thấy.

Tới giữa thế kỷ 19, Lãnh thổ Israel từng là một phần của Đế chế Ottoman với đa số dân Hồi giáo và Ả rập theo Thiên chúa giáo sinh sống, cũng như người Do Thái, Hy Lạp, Druze, Bedouin và các dân tộc thiểu số khác.

Tới năm 1844, người Do Thái là nhóm người đông đảo nhất (và tới năm 1890 trở thành đa số tuyệt đối) ở một số thành phố, nhất là tại Jerusalem. Hơn nữa, ngoài những cộng đồng tôn giáo truyền thống Do Thái đó, được gọi là Old Yishuv, ở nửa sau thế kỷ 19 xuất hiện một hình thức nhập cư Do Thái mới, đa số là những người cánh tả theo chủ nghĩa xã hội với mục tiêu đòi lại đất đai bằng cách lao động trên đó.

Tuyên bố Balfour năm 1917 xác nhận rằng Chính phủ Anh Quốc "nhìn nhận với sự ưu tiên việc thành lập tại Palestin một nhà nước quê hương cho người Do Thái"..."nó được hiểu rõ ràng rằng không hành động nào có thể được thực hiện nếu nó có thể làm tổn hại cho các quyền dân sự và tôn giáo của các cộng đồng không phải Do Thái đang sinh sống ở Palestin". Tuyên bố này được một số nước ủng hộ, gồm cả Hoa Kỳ và ngày càng trở nên quan trọng hơn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất khi Liên đoàn quốc gia giao cho Anh Quốc quyền ủy trị Palestin.

Vào những năm 1920, việc nhập cư của những người Do thái diễn ra khá chậm chạp. Những biến động chính trị gây ra bởi sự khủng bố của Đức Quốc xã tại châu Âu đã làm gia tăng nhanh chóng làn sóng nhập cư vào những năm 1930, cho đến khi Anh Quốc ban hành lệnh phong tỏa vào năm 1939. Chứng kiến sự tàn sát người Do thái của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cộng đồng quốc tế đã nỗ lực giúp đỡ người Do thái thoát khỏi sự phong tỏa của Anh Quốc để định cư tại Jerusalem.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh Quốc đã bày tỏ ý định muốn rút chân ra khỏi Palestin vốn đang được đặt dưới sự ủy trị của mình. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đề xuất việc chia cắt Palestin ra là hai nhà nước, Ả Rập và Do Thái cùng với khu vực Jerusalem được đặt dưới sự kiểm soát của Liên hiệp quốc.

Cuộc di cư của người Do Thái tăng dần từ thập niên 1920; về căn bản cuộc di cư này tăng chủ yếu trong thập niên 1930, vì sự bất ổn chính trị tại châu Âu với cuộc diệt chủng người Do Thái của Phát xít Đức đang diễn ra ở thời điểm đó, tới khi những biện pháp hạn chế được Anh Quốc đưa ra năm 1939. Cùng với sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ hai và sự hầu như tuyệt chủng của người Do Thái tại châu Âu với nguyên nhân từ Phát xít Đức, sự ủng hộ quốc tế cho những người Do Thái đang tìm kiếm nơi định cư tại Palestin khiến các nỗ lực của Anh nhằm ngăn chặn làn sóng này không còn kết quả.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Anh đã thông báo ý định rút lui khỏi lãnh thổ ủy trị Palestin của mình. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đề xuất việc phân chia Palestin thành hai nhà nước, một nhà nước Ả rập và một nhà nước Do Thái, với Jerusalem sẽ thuộc quyền quản lý của Liên hiệp quốc. Đa số người Do Thái tại Palestin chấp nhận đề xuất này, trong khi đa số người Ả rập tại Palestin phản đối nó. Người Ả rập hoàn toàn bác bỏ ý tưởng về một nhà nước Do Thái tại Palestin (tuy nhiên, họ không bị một ràng buộc pháp lý nào với việc chấp nhận kế hoạch bởi các nghị quyết của Đại hội đồng không mang tính bắt buộc).

Bạo lực giữa cộng đồng Ả rập và Do thái nổ ra hầu như ngay lập tức sau đó. Tới cuối thời kỳ ủy trị của Anh, người Do Thái dự định tuyên bố thành lập một nhà nước riêng rẽ, một động thái mà người Ả rập quyết tâm ngăn chặn. Ngày 14 tháng 5 năm 1948, những lực lượng Anh cuối cùng rời khỏi Palestin, và người Do Thái, dưới sự chỉ đạo của David Ben Gurion, đã tuyên bố thành lập Nhà nước Israel, theo Kế hoạch phân chia.

(còn nữa)

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Israel 

Hình ảnh: Quốc kỳ Israel (Chọn từ net)

Được mất 1 đời

 Đừng kết hôn với ai đó chỉ vì "tiềm năng"

Trong "Một đời được mất", Vãn Tình có một lời khuyên rất thấm thía về hôn nhân: Đừng mong chờ con người sẽ vì tình yêu mà thay đổi tâm tính. Bạn kết hôn với ai thì hãy kết hôn với chính con người hiện tại của người đó, chứ không phải vì phiên bản mà bạn hy vọng họ sẽ trở thành. 

Thế nên khi thấy điều gì đó không ổn thì hãy sớm buông tay. Từ bỏ một cuộc tình tồi tệ, từ bỏ một người không xứng đáng thì chẳng có gì đáng tiếc, ngược lại, bạn phải thấy may mắn vì đã có cơ hội rời đi kịp thời, nhờ vậy sau này bạn mới gặp được người tốt hơn.

Có một sự thật phũ phàng: khi kết hôn, vì kiến thức và tầm nhìn của bản thân có hạn, bạn khó nhận biết đâu là người thực sự tốt. Nếu hai người đã tương đương nhau ở thời điểm cưới, thì điều bạn chưa làm được, anh ấy cũng khó mà làm được. Ký thác kỳ vọng lên “phiên bản chưa tồn tại” của anh ấy chẳng khác nào đặt cược cả đời vào một ảo tưởng.

Phụ nữ thông minh chưa chắc đã gặp được người đàn ông hoàn hảo, nhưng chắc chắn họ sẽ không làm khổ mình bằng cách chấp nhận cả đời ở bên một người khiến cuộc sống tồi tệ hơn. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc không được xây trên tiềm năng, mà trên thực tế: anh ấy là ai, đang sống thế nào, đối xử với bạn ra sao - ngay lúc này.

Hãy nhớ, tiềm năng thì ai cũng có. Vấn đề là, không phải ai cũng biến tiềm năng thành hiện thực. Và bạn không thể đánh đổi tuổi trẻ, cơ hội, hay cả hạnh phúc của mình để chờ một người… biết đâu sẽ thay đổi.

Những gì em không chịu được trong khi yêu nhau, thì khi kết hôn sẽ còn tăng lên mấy lần. Vậy nên đừng kết hôn vì "tiềm năng".

Bloom Văn học và Nghệ thuật

Sunday, November 9, 2025

Tuổi 70: Những khám phá được đúc kết từ "Super Agers"

Bác sĩ tim mạch U80 trẻ hơn 13 tuổi nhờ 5 thói quen

Ở tuổi 71, bác sĩ Eric Topol có "tuổi tim" trẻ hơn 13 tuổi, nhờ áp dụng những thói quen mà ông tin rằng có thể giúp mọi người kéo dài 10-20 năm sống khỏe mạnh.

Bác sĩ Eric Topol. Ảnh: Dan Tuffs

Tại nhà riêng ở California, bác sĩ Topol khoe một bức ảnh trên điện thoại. Đó là dữ liệu từ chiếc nhẫn Oura, một thiết bị theo dõi giấc ngủ và sức khỏe, cho thấy tuổi tim của ông trẻ hơn 13 tuổi so với tuổi thật 71. "Thật tuyệt khi thấy điều đó", ông nói. "Mọi công sức đều được đền đáp. Tôi không cố gắng để trở thành một vận động viên thể hình, chỉ muốn sống và già đi một cách khỏe mạnh".

Mỗi ngày, ông dành một giờ cho các bài tập kết hợp sức mạnh, tim mạch và vùng cơ lõi. Ông tập với tạ, deadlifts và nhảy dây – một kỹ năng mà ông cũng phải kiên trì luyện tập từ những lần vấp ngã đầu tiên. "Một nghiên cứu trong sách cho thấy chỉ một giờ tập luyện kháng lực mỗi tuần đã làm giảm 25% nguy cơ tử vong", bác sĩ chia sẻ.

Song song đó, chế độ ăn của ông tuân thủ nguyên tắc khoa học, gồm một thực đơn Địa Trung Hải chủ yếu dựa trên thực vật, với nhiều dầu ô liu, các loại hạt, rau quả, cá và đậu. Suốt 45 năm qua, ông không tiêu thụ thịt đỏ.

Bài học sâu sắc nhất Topol nhận ra lại đến từ thời điểm khó khăn của cả thế giới. "Mãi đến khi đại dịch xảy ra, tôi mới nhận ra các mối quan hệ xã hội quan trọng như thế nào", ông bày tỏ. Sự cô đơn và cách ly xã hội, theo nhiều bằng chứng thuyết phục, gây hại cho sức khỏe không kém gì các yếu tố thể chất.

Kể từ đó, ông đã nỗ lực một cách có ý thức để vun đắp các mối quan hệ. Topol không phản đối việc thưởng thức một ly rượu vang cùng người thân, bởi ông tin rằng lợi ích từ những khoảnh khắc giao tiếp xã hội vui vẻ có thể vượt qua nguy cơ nếu tiêu thụ ở mức độ chừng mực. "Những giây phút vui vẻ bên người thân rất quan trọng, tôi không nghĩ phải bỏ hẳn rượu bia thì mới sống khỏe khi về già", bác sĩ nói.

Cuối cùng, bí quyết của Topol không chỉ nằm trong phòng gym hay trên bàn ăn, mà còn ở ngoài trời. "Chúng ta dành quá ít thời gian để hòa mình với thiên nhiên", ông trăn trở. Lợi ích của việc này đã được chứng minh rộng rãi như giúp hạ huyết áp, ngủ ngon hơn, giảm nguy cơ bệnh tim mạch và cải thiện sức khỏe tinh thần.

"Thế nên, nếu bạn muốn 'một công ba việc' để chống lão hóa", vị bác sĩ đúc kết. "Hãy đi dạo cùng một người bạn giữa thiên nhiên. Bạn sẽ được tập thể dục, được giao lưu xã hội và còn được hưởng những lợi ích từ thiên nhiên".

Bình Minh (Theo The Telegraph)

Saturday, November 8, 2025

Meet Nghĩa @ Thảo Điền: Tọa đàm về nhiều đề tài lý thú

 

Món đùi cừu nướng là đặc sản của nhà hàng


Đặc sản cừu nướng và rượu ngon là cái nền tuyệt vời của buổi tọa đàm hôm nay

Vấn đề đặt ra rất nghiêm túc


Đầu đề của 6000 cái ấy

Thursday, November 6, 2025

Những lý do máy tính bị chậm và cách khắc phục

 Máy tính chạy chậm là vấn đề nhiều người gặp phải, nhưng hoàn toàn có thể khắc phục nếu biết đúng nguyên nhân và cách xử lý phù hợp.

Thiếu RAM

RAM là bộ nhớ tạm giúp máy xử lý các tác vụ khi đang hoạt động. Nếu máy chỉ có 2–4GB RAM, việc mở nhiều phần mềm hoặc trình duyệt với nhiều tab sẽ khiến máy chậm đi rõ rệt.

Cách khắc phục:

Nâng cấp RAM lên tối thiểu 8GB nếu có thể.

Đóng bớt phần mềm không cần thiết.


Ổ cứng HDD quá chậm hoặc đã xuống cấp

Ổ cứng HDD sử dụng cơ chế quay đĩa, tốc độ truy xuất dữ liệu chậm và dễ bị phân mảnh sau thời gian dài sử dụng, khiến máy tính mất nhiều thời gian để mở tệp tin hay khởi động.

Cách khắc phục:

Nâng cấp lên ổ SSD, tốc độ nhanh gấp nhiều lần HDD.

Nếu vẫn dùng HDD, nên chống phân mảnh định kỳ bằng công cụ tích hợp trong Windows.


Máy tính nhiễm virus hoặc phần mềm độc hại

Virus, phần mềm quảng cáo hoặc mã độc có thể chạy ngầm và chiếm tài nguyên hệ thống, làm chậm máy và gây lỗi bất thường.

Cách khắc phục:

Cài đặt phần mềm diệt virus uy tín.

Quét virus thường xuyên.

Tránh tải phần mềm hoặc nhấp vào link không rõ nguồn gốc.


Có quá nhiều phần mềm chạy nền

Một số phần mềm như Skype, Zalo, Zoom… tự động khởi động khi bật máy, gây tốn tài nguyên.

Cách khắc phục:

Vào Task Manager > Startup, tắt bớt các chương trình không cần thiết.

Gỡ các phần mềm không dùng đến trong Control Panel > Programs and Features.


Máy quá nóng khiến hiệu suất giảm

Nhiệt độ cao làm CPU tự động giảm xung nhịp để bảo vệ phần cứng, khiến máy chậm lại. Nguyên nhân có thể do bụi bẩn bám vào quạt tản nhiệt hoặc keo tản nhiệt khô.

Cách khắc phục:

Vệ sinh máy định kỳ (nhất là laptop sau 1–2 năm sử dụng).

Đặt máy nơi thoáng mát, tránh bịt lỗ thông gió.

Thay keo tản nhiệt nếu máy đã quá nóng.


Ổ đĩa hệ thống (thường là ổ C) bị đầy

Khi ổ C gần đầy, Windows không đủ không gian tạm để hoạt động, làm máy chạy chậm hoặc dễ bị treo.

Cách khắc phục:

Xóa file rác, dọn thùng rác.

Dùng công cụ Disk Cleanup hoặc phần mềm như CCleaner.

Di chuyển dữ liệu sang ổ khác hoặc lưu trữ lên cloud.


Hệ điều hành và phần mềm lỗi thời

Hệ điều hành và phần mềm cũ có thể chứa lỗi, không tương thích với máy, gây ra sự cố hoặc làm giảm hiệu suất.

Cách khắc phục:

Cập nhật Windows và phần mềm thường xuyên.

Bật tự động cập nhật trong Windows Update.


Driver thiết bị chưa được cập nhật

Driver cũ hoặc bị lỗi có thể gây xung đột phần mềm, làm máy hoạt động không ổn định.

Cách khắc phục:

Cập nhật driver từ trang chính thức của hãng (Intel, AMD, NVIDIA…).

Hoặc sử dụng phần mềm hỗ trợ như Driver Booster, Snappy Driver.


Phần cứng đã cũ, yếu hoặc xuống cấp

Nếu máy quá cũ (trên 5–7 năm), CPU hoặc card đồ họa có thể không đủ mạnh cho các phần mềm hiện đại.

Cách khắc phục:

Nâng cấp phần cứng như RAM, ổ SSD.

Với máy quá cũ, hãy cân nhắc thay máy mới phù hợp với nhu cầu.

THIỆN NHÂN (T/H) - Lao Động onl

Tuesday, November 4, 2025

Trong dòng chảy AI

 CẢNH BÁO VỀ SỰ TRÀN LAN AI VÀ NHỮNG CÁI BẪY 

Tôi vẫn nhớ như in cái ngày đầu những năm cuối 1990s, khi nghe thấy âm thanh “rè rè” đặc trưng của chiếc modem đang kết nối Internet. Âm thanh ấy với thế hệ chúng tôi là biểu tượng của hy vọng và nỗ lực. Để tìm được một mẩu thông tin, chúng tôi phải học cách gõ những dòng lệnh, phải kiên nhẫn chờ đợi, phải tự tay lật qua hàng chục trang “rác” để tìm được một “viên ngọc” tri thức. Quá trình đó tuy mệt, nhưng rèn cho chúng tôi lòng kiên nhẫn, óc phân định và thói quen tự học.

Tri thức khi được chắt lọc từ gian khó thì sẽ thấm sâu vào máu.

Một cuộc cách mạng còn lớn hơn đang đến

Gần ba mươi năm sau, chúng ta đang đứng trước một cuộc cách mạng còn vĩ đại hơn: Trí tuệ nhân tạo - AI.

Tại Việt Nam, AI đang dấy lên như một “cơn sốt tiện lợi”. Học sinh, sinh viên dùng ChatGPT để viết luận văn trong vài phút. Dân văn phòng dùng AI để viết báo cáo, lập kế hoạch. Giới sáng tạo dùng Midjourney để “vẽ” hàng trăm bức tranh trong một giờ. Ai cũng hào hứng khoe kết quả. Ai cũng thán phục vì mình “làm được nhiều đến thế”.

Nhưng trong dòng chảy cuồn cuộn đó, tôi lo.

Tôi lo không phải vì AI quá mạnh, mà vì chúng ta đang trở nên hời hợt đến yếu đuối. Chúng ta đang say mê với “thành phẩm”, mà quên mất “quá trình”.

Chúng ta đang học cách ra lệnh (prompting) mà không học cách đặt câu hỏi (questioning).

Chúng ta đang sử dụng AI như một cỗ máy bán câu trả lời, thay vì như một người bạn để đồng tư duy.

Trên cương vị là một người làm công nghệ, và hơn hết là một người đã từng sống trong bóng tối để suy ngẫm sâu sắc về tự do và ánh sáng, tôi buộc phải lên tiếng. Nếu không, có lẽ đến lúc ta nhận ra thì đã quá muộn.

Ba tác hại nghiêm trọng nhất của việc lạm dụng AI

1. Sự xói mòn tư duy phản biện

Điều nguy hiểm nhất của AI tạo sinh không nằm ở việc nó trả lời sai, mà là nó trả lời quá trơn tru, quá hay ngay cả khi sai.

AI ngày nay khiến chúng ta bỏ qua giai đoạn vật lộn với vấn đề – vốn là thứ quan trọng nhất để hình thành tư duy. Nó không chỉ đưa ta con cá, mà còn nấu chín cá sẵn cho ta.

Một nghiên cứu của College Board (Mỹ) cho thấy: 87% giáo viên lo ngại rằng sinh viên sẽ mất khả năng tư duy phản biện nếu phụ thuộc vào AI. Trường IMD (Thụy Sĩ) cũng cảnh báo rằng: AI có thể bào mòn khả năng suy luận logic, tính sáng tạo và sự độc đáo.

Khi ta quen với việc có ngay câu trả lời sau một cú click, ta sẽ mất dần khả năng phân tích độc lập. Và từ người giải quyết vấn đề, ta thành kẻ sao chép thụ động.

2. Giảm sút trí nhớ và khả năng học tập

AI không chỉ trả lời thay bạn. Nó nhớ thay bạn.

Một nghiên cứu của MIT phát hiện: 83% người dùng AI không thể nhớ nổi đoạn văn họ vừa tạo bằng ChatGPT. Cấu trúc não bị “lười biếng”, khả năng liên kết thần kinh giảm gần một nửa.

Hiện tượng này được gọi là “giảm nhẹ nhận thức” (cognitive offloading) khi não người “khoán trắng” nhiệm vụ tư duy cho máy. Tệ hơn, tác động này không biến mất ngay cả sau khi ngừng sử dụng AI.

3. Khuếch đại thiên kiến và tạo ra buồng giam tư duy

AI học từ dữ liệu con người. Mà dữ liệu con người thì rất nhiều thiên kiến, sai sót, thậm chí độc hại. AI không có lương tri để tự lọc. Nó sẽ học và khuếch đại tất cả.

Tại Việt Nam, nếu phần lớn người dân dùng chung một vài mô hình AI phổ biến (đa phần được huấn luyện bằng dữ liệu tiếng Anh, mang thiên kiến phương Tây), chúng ta có nguy cơ bị nhốt trong một buồng giam tư duy khổng lồ. Những gì AI trả lời chỉ củng cố thêm định kiến sẵn có, khiến ta không còn khả năng mở rộng thế giới quan.

Chúng ta tưởng rằng mình đang tiếp cận tri thức nhân loại nhưng thực ra chỉ đang nhìn thế giới qua lăng kính mờ ảo của vài tập dữ liệu ngôn ngữ thống trị.

Tỉnh táo trước khi quá muộn

Tôi không chống AI. Ngược lại, tôi đang phát triển một dự án tích hợp AI với trí tuệ tự nhiên (DI - những Quy luật của vũ trụ), gọi là Ai+Di để AI trở thành công cụ khơi gợi chứ không thay thế ta suy nghĩ.

Nhưng trong lúc chờ các giải pháp như vậy chín muồi, tôi mong mỗi người Việt hãy:

 • Sử dụng AI điều độ: đừng để nó làm thay bạn. Hãy để nó gợi ý để bạn làm tốt hơn.

 • Rèn luyện phản biện: đừng tin ngay, hãy kiểm tra.

 • Tự hỏi lại: bạn đang dùng AI để tiết kiệm thời gian, hay để đánh đổi năng lực tư duy?

Một dân tộc có thể nghèo tài nguyên, thiếu vốn, thiếu công nghệ… nhưng nếu còn giữ được tinh thần độc lập tư duy, thì vẫn có thể đi lên. Nhưng một khi buông bỏ trí tuệ và phụ thuộc vào “cái dễ”, thì sẽ bị dẫn dắt và tụt hậu, không thể cứu vãn.

Đừng để sự tiến bộ về công cụ trở thành sự thoái lui về trí tuệ.

Đừng để sự tiện lợi công nghệ che khuất đi ánh sáng trong tâm trí mỗi con người.

Hãy sử dụng AI như một ngọn đèn, không phải như một cái buồng giam.

(copy từ FB-Trần Huỳnh Duy Thức)

Monday, November 3, 2025

TỈNH THỨC

DẤU HIỆU BẠN ĐANG TỈNH THỨC 

Nếu bạn có những dấu hiệu này, chúc mừng bạn sắp bước qua cánh cửa Cải Mệnh !! 

1. Bạn không còn thích tranh cãi

Bạn không phản ứng mạnh mẽ như trước đây, cũng không cần tức giận, la hét để bảo vệ cái tôi. Không còn thích hơn thua với người Bạn dần bình tĩnh hơn, thích sự nhẹ nhàng, an yên. 

2. Bạn tập trung vào chính mình 

Thay vì cố gắng thay đổi ai đó ... Bạn hiểu mỗi người đều có nghiệp, có tần số, những bài học và số mệnh riêng, nên tôn trọng hành trình mỗi người. Càng cố ép chỉ càng làm mệt mỏi cả hai. 

3. Bạn nhận ra mọi mối quan hệ đều do duyên khởi diệt. 

Mỗi người đến với mình đều có những bài học. Nên không cần cố tìm, cũng chẳng buồn khi ai đó rời đi. Ai thuộc về ta, họ sẽ tự ở lại. 

4. Bạn không còn muốn giải thích quá nhiều với người không muốn hiểu. 

Bạn tĩnh lặng hơn. Bạn cũng thấy mình sâu sắc hơn, ngộ ra nhiều bài học hơn. Không cãi lý với người đang tức giận. Cũng không cần hơn thua với ai. 

5. Bạn sống bình an hơn 

Những chuyện làm cho bạn hoảng loạn, lo sợ, hay nổi nóng trước đây... biến mất. Tâm bạn bình an hơn, đón nhận mọi điều nhẹ nhàng bình an hơn. Thấy biết ơn, không còn thấy thiếu thốn, sợ hãi. Không còn bị cảm xúc chi phối. 

6. Bạn không so sánh mình với người khác. 

Cây tùng không cần ganh tị với hoa sen - vì mỗi người có một mùa nở khác nhau. Không nói xấu người khác - kể cả trong suy nghĩ. Điều đó phản ánh chính bạn nhiều hơn là họ. 

7. Bạn nhận ra khi tỉnh thức, không phải là tha thứ cho người khác, mà là cho chính mình. 

Vì họ chịu trách nhiệm với toàn bộ mọi sự đến với mình, với cảm xúc của mình. Khi này họ không còn đóng vai nạn nhận nữa. Tha thứ là đang giải thoát cho chính mình chứ không phải là cho người khác. 

8. Chăm sóc sức khỏe. 

Yêu bản thân đúng cách. Vì ta sẽ không làm được gì nếu cả thân và tâm đều mệt mỏi. Giữ chỗ yên tĩnh trong tim. Để khi mỏi mệt, vẫn còn nơi để quay về. 

FB-Đắc Nhân Tâm

Sunday, November 2, 2025

Thế giới: Trận chiến sống còn

[BÀI PHÁT TRÊN CHƯƠNG TRÌNH PODCAST CỦA GS MERESHEIMER VỀ ẢO TƯỞNG HÒA BÌNH KINH TẾ CỦA MỸ, SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ THÁCH THỨC CHIẾN LƯỢC CỦA HOA KỲ]

Bài dưới đây là chương trình podcast phát trên kênh YouTube của Giáo sư John J. Mearsheimer vào ngày 30 tháng 10 năm 2025. Mearsheimer là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Chicago, được xem là một trong những học giả hàng đầu thế giới về chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế và là tác giả của các công trình kinh điển như The Tragedy of Great Power Politics và Why Leaders Lie. Trong số phát sóng này, Giáo sư Mearsheimer bàn sâu về ảo tưởng “hòa bình kinh tế” – niềm tin rằng: thương mại và toàn cầu hóa sẽ bảo đảm hòa bình giữa các cường quốc – và lý giải vì sao chính ảo tưởng này đã dẫn Hoa Kỳ đến đối đầu chiến lược với Trung Quốc.

ẢO TƯỞNG HÒA BÌNH KINH TẾ CỦA HOA KỲ 

Trong nhiều thập kỷ, Hoa Kỳ tin rằng: sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau với Trung Quốc sẽ đem lại hòa bình dài lâu. Học thuyết này từng hấp dẫn về mặt trí tuệ và được các nhà lãnh đạo phương Tây ca ngợi như nền tảng cho trật tự thế giới tự do hậu Chiến tranh Lạnh. Giới tinh hoa Mỹ tin rằng: thị trường có thể thuần hóa địa chính trị, thương mại sẽ biến đối thủ thành đối tác, và lợi nhuận sẽ chiến thắng quyền lực. Nhưng mọi ảo tưởng đều có giá. Ngày nay, “hóa đơn” ấy xuất hiện dưới hình thức các mức thuế quan khổng lồ, thậm chí được đề xuất ở mức 200% đối với hàng hóa Trung Quốc, như một biểu hiện của tuyệt vọng chiến lược.

Trên thực tế, hệ thống quốc tế luôn là môi trường vô chính phủ, nơi các quốc gia phải cạnh tranh để bảo đảm an ninh và ảnh hưởng. Không một thỏa thuận thương mại nào có thể thay đổi logic quyền lực đó. Washington từng tin rằng: Trung Quốc sẽ hòa nhập hòa bình vào trật tự do Mỹ dẫn dắt, dần dân chủ hóa và tuân thủ quy tắc phương Tây. Niềm tin này sai lầm ở mọi bước. Kể từ thập niên 1990, dòng vốn Mỹ đổ vào Trung Quốc vì lao động rẻ và quy mô lớn, xây dựng nền tảng sản xuất khổng lồ cho Bắc Kinh trong khi làm suy yếu ngành công nghiệp Mỹ. Lợi nhuận thay thế chiến lược, và Mỹ gọi đó là “toàn cầu hóa”, không nhận ra mình đang chuyển giao năng lực quốc gia cho một đối thủ tương lai.

Kết quả là: Trung Quốc không trở thành nền dân chủ tự do mà phát triển thành một cường quốc công nghiệp, với quân đội hiện đại hóa và chính sách đối ngoại quyết đoán hơn. Các đời tổng thống từ Clinton tới Obama đều duy trì ảo tưởng hợp tác – coi Trung Quốc là đối tác trong một thế giới hòa hợp. Nhưng theo lăng kính chủ nghĩa hiện thực, khi một quốc gia đủ mạnh, nó sẽ tìm cách tái định hình trật tự theo lợi ích của mình – và Trung Quốc đã làm đúng như vậy. Vấn đề không nằm ở ý định mà ở năng lực, và năng lực ấy đã thay đổi căn bản cán cân quyền lực toàn cầu.

SỰ TRỖI DẬY CÓ CHỦ ĐÍCH CỦA TRUNG QUỐC

Sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của chiến lược tích lũy quyền lực có hệ thống, do nhà nước chỉ đạo. Nhiều người ở Washington cho rằng: đó là hệ quả tự nhiên của thị trường, nhưng thực tế Bắc Kinh đã chủ đích tận dụng toàn cầu hóa để phục vụ cho lợi ích quốc gia. Trung Quốc không bao giờ theo đuổi chủ nghĩa tự do phương Tây; họ coi toàn cầu hóa là công cụ, không phải mục tiêu. Trong khi Mỹ tin rằng: sức mạnh quân sự và tài chính bảo đảm vị thế vĩnh viễn, Trung Quốc hiểu rằng: quyền lực thật sự bắt nguồn từ sản xuất, công nghệ, tài nguyên và kiểm soát chuỗi cung ứng chiến lược.

Từ cuối thập niên 1970, Đặng Tiểu Bình mở cửa kinh tế không nhằm thay đổi hệ tư tưởng, mà để nhập vốn, hấp thụ công nghệ và xây dựng năng lực sản xuất nội địa. Trong khi doanh nghiệp phương Tây nhìn thấy lao động rẻ, Bắc Kinh nhìn thấy con đường phục hưng quốc gia. Trung Quốc phát triển hạ tầng cảng biển, đường cao tốc, năng lượng và công nghiệp nặng, còn Mỹ lại phi công nghiệp hóa, chuyển nhà máy ra nước ngoài. Kết quả, năm 2024, Trung Quốc sản xuất hơn 1 tỷ tấn thép (chiếm 55% toàn cầu), đóng hơn 50% số tàu biển thế giới (40 triệu tấn), và sản xuất hơn 30 triệu ô tô – những con số chưa từng có trong lịch sử công nghiệp nhân loại.

Đó không chỉ là thành tựu kinh tế, mà là nền tảng quyền lực quốc gia. Trong khi giới hoạch định chính sách Mỹ tự thuyết phục rằng: nền kinh tế dịch vụ và phần mềm là đủ, Trung Quốc không bao giờ tin vào ảo tưởng đó. Khi năng lực vật chất tăng, tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh cũng mở rộng: Sáng kiến Vành đai và Con đường đầu tư hơn 1.000 tỷ USD vào năm 2024; hải quân Trung Quốc đã có thể thách thức ưu thế Mỹ ở Tây Thái Bình Dương; các tập đoàn công nghệ nội địa giảm phụ thuộc vào Mỹ. Một cường quốc đang trỗi dậy luôn hành động như vậy – chỉ có Washington là bất ngờ.

CHÍNH SÁCH CỦA TT TRUMP ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC

Khi TT Trump lên nắm quyền, giới hoạch định chính sách Mỹ coi ông là người thiếu kinh nghiệm và khó đoán. Nhưng Trump đã nhìn ra điều mà họ không: ông không tin vào bá quyền tự do hay “hòa bình thương mại”. Với ông, Trung Quốc không phải là đối tác hội nhập mà là đối thủ chiến lược, đe dọa trực tiếp sức mạnh của Hoa Kỳ. Ông không dùng ngôn ngữ học thuật của chủ nghĩa hiện thực tấn công, nhưng bản năng chính trị giúp ông nắm được quy luật cơ bản: các cường quốc không thể dung thứ một đối thủ ngang hàng.

Trump chọn chiến trường kinh tế, dùng thương mại làm công cụ chiến lược và thuế quan làm vũ khí. Nhiều người chỉ trích phương pháp này là thô thiển, nhưng ông hiểu rõ bản chất: ngoại giao kinh tế chính là phần mở rộng của địa chính trị. Khi Trump đe dọa thuế 200% đối với hàng hóa Trung Quốc, đó là tuyên bố rằng kỷ nguyên kiên nhẫn đã kết thúc. Washington từng nói toàn cầu hóa là không thể đảo ngược, nhưng Trump đã bác bỏ điều đó – nhận ra rằng Trung Quốc đã lợi dụng chính sự cởi mở của Mỹ để vươn lên.

Thuế quan, kiểm soát xuất khẩu, hạn chế đầu tư và ưu đãi tái công nghiệp hóa là một phần của chiến lược thống nhất nhằm giảm phụ thuộc vào Trung Quốc, bảo vệ năng lực công nghiệp Mỹ và tái định hướng chuỗi cung ứng toàn cầu. Ông không đảo ngược được lịch sử, nhưng đã chạm vào vấn đề cốt lõi mà giới tinh hoa Mỹ né tránh: phụ thuộc kinh tế không phải là tài sản chiến lược mà là gánh nặng.

NỖI LO CHIẾN LƯỢC TẠI WASHINGTON

Khi Washington nhận ra quy mô thực sự của sự trỗi dậy Trung Quốc, thời gian để điều chỉnh nhẹ nhàng đã qua. Trong suốt nhiều năm, các nhà hoạch định chính sách Mỹ tin rằng: hội nhập kinh tế đồng nghĩa với hòa bình. Khi ảo tưởng này sụp đổ, giới tinh hoa rơi vào trạng thái hoảng loạn. Chính sách trở thành sự pha trộn giữa phủ nhận và chia rẽ. Một phe tiếp tục bám vào mô hình toàn cầu hóa, tin rằng đối đầu với Trung Quốc là sai lầm; phe khác thừa nhận cạnh tranh là không thể tránh nhưng thiếu một tầm nhìn thống nhất.

Hệ quả là sự bất định chiến lược. Các viện nghiên cứu tung ra hàng loạt báo cáo, các bài xã luận bàn cãi nhưng không che giấu được sự thật: Hoa Kỳ đã bị bất ngờ. Lịch sử từng chứng kiến điều tương tự: đầu thế kỷ 20, Anh cũng chậm phản ứng trước sự trỗi dậy của công nghiệp Đức. Mỹ nay ở vị thế đó – vừa phụ thuộc, vừa cảnh giác.

Khi chính quyền thay đổi lập trường liên tục giữa hợp tác và đối đầu, giữa “tách rời” và “hội nhập”, sự mâu thuẫn ấy lan rộng. Đồng minh bối rối, đối thủ lợi dụng, còn thị trường quốc tế trở thành mặt trận của địa chính trị. Uy tín lãnh đạo của Mỹ vì thế bị xói mòn không phải vì yếu, mà vì không chắc chắn.

SỰ PHÁ VỠ CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU

Nền kinh tế toàn cầu chưa bao giờ là một cơ thể hòa hợp; nó phụ thuộc vào trật tự do Mỹ kiểm soát. Khi Trung Quốc dần chiếm lĩnh các tầng cao công nghệ – từ bán dẫn, năng lượng đến trí tuệ nhân tạo – cấu trúc này bắt đầu rạn nứt. Chuỗi cung ứng, từng được xem như biểu tượng của toàn cầu hóa, nay trở thành công cụ quyền lực.

Các chính sách thuế quan của Trump, đặc biệt là đe dọa mức 200% đối với hàng Trung Quốc, đã tăng tốc quá trình tách rời này. Hoa Kỳ nhận ra rằng phụ thuộc vào đối thủ chiến lược là rủi ro sinh tử. Trung Quốc nắm giữ hơn 80% công suất tinh luyện đất hiếm toàn cầu, cung cấp phần lớn dược phẩm và linh kiện điện tử cho Mỹ. Trong hòa bình, đó là “hiệu quả”; trong cạnh tranh, đó là “lỗ hổng”.

Sự dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam, Ấn Độ, Mexico hay Đông Nam Á chỉ là tạm thời. Trung Quốc sở hữu cả hệ sinh thái công nghiệp hoàn chỉnh, từ logistics đến nhân lực. Tháo dỡ nó đòi hỏi nhiều thập kỷ. Ở Mỹ, sự phi công nghiệp hóa đã để lại hậu quả xã hội nghiêm trọng: lương đình trệ, cộng đồng suy thoái, và cơn giận dữ dân túy trỗi dậy. Khi Trump làm gián đoạn hệ thống, ông thực chất chạm vào một chân lý: không quốc gia nào duy trì được vị thế lãnh đạo nếu đánh mất năng lực sản xuất.

SỰ SỤP ĐỔ CỦA BÁ QUYỀN TỰ DO

Sau Chiến tranh Lạnh, Washington tin rằng: lịch sử có hướng đi tất yếu – rằng bá quyền tự do sẽ mở rộng mãi mãi. Nhưng thực tế đã chứng minh điều ngược lại. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự kiên định của Nga, thất bại ở Iraq và Afghanistan đều cho thấy chính trị quyền lực chưa bao giờ biến mất.

Bá quyền tự do thất bại vì nó giả định rằng: các quốc gia khác sẽ chấp nhận sự thống trị của Mỹ. Nhưng theo quy luật cân bằng quyền lực, khi một nước quá mạnh, các nước khác sẽ phản ứng. Nga, Trung Quốc và thậm chí các đồng minh Mỹ đều bắt đầu tìm cách tự chủ hơn. Hoa Kỳ mở rộng quá mức ở nước ngoài trong khi đánh mất nền tảng công nghiệp trong nước – một sai lầm chí tử trong lịch sử các đế chế.

Khi TT Trump đe dọa áp thuế 200% với hàng Trung Quốc, đó không chỉ là chính sách kinh tế mà còn là dấu mốc tư tưởng: Hoa Kỳ đang rời bỏ niềm tin rằng thị trường tự do và biên giới mở có thể duy trì hòa bình. Thế giới mới nổi lên với ưu tiên khác: tự chủ chiến lược, an ninh chuỗi cung ứng, và phục hồi năng lực quốc gia. Bá quyền tự do không sụp đổ tức thì – nó đang tan rã trong im lặng, khi chính những người từng ủng hộ nó nay quay sang nói về “chính sách công nghiệp” và “khả năng phục hồi quốc gia”.

Cuối cùng, GS Mearsheimer kết luận: sự kết thúc của bá quyền tự do không có nghĩa là sự sụp đổ của Hoa Kỳ, mà là bước chuyển tất yếu sang một trật tự đa cực – nơi Mỹ chỉ còn là một cường quốc trong số các cường quốc khác. Tương lai phụ thuộc vào việc Hoa Kỳ có đủ can đảm nhìn nhận thực tế để thiết kế chiến lược mới – thực dụng hơn, khiêm tốn hơn và gần với bản chất của quyền lực hơn.

Copy từ FB-Hoàng Anh Tuấn

Thursday, October 30, 2025

Ở TUỔI 30

15 DẤU HIỆU CHO THẤY BẠN ĐANG THẬT SỰ TRƯỞNG THÀNH Ở TUỔI 30

1. Bạn không còn ép bản thân phải bận rộn, 

để thấy mình có giá trị.

2. Bạn thấy niềm vui ở những thứ nhỏ: 

một bữa cơm ngon, nhà sạch, giấc ngủ sâu.

3. Bạn có thể im lặng thay vì đôi co

Vì không phải ai cũng cần được thuyết phục.

4. Bạn nhận ra: yêu bản thân không phải là tự thưởng, mà là tự kỷ luật (Trước 30 Tuổi, có vài việc nhất định phải kiên trì: https://s.shopee.vn/10MSqU7VT) 

5. Bạn bắt đầu tha thứ không vì người kia xứng đáng,  mà vì bạn xứng đáng được nhẹ lòng. 

Vì trưởng thành là buông xuống trước cả khi có lời xin lỗi.

6. Bạn dám rời bỏ một công việc,

dù lương cao nhưng không còn phù hợp.

7. Bạn bắt đầu dành tiền 

cho bảo hiểm, sức khỏe, nghỉ ngơi - không chỉ mua sắm.

8. Bạn ngừng so sánh timeline đời mình với người cùng tuổi. 

Không còn ganh tị với thành công của người khác - vì bạn biết rõ hành trình mình đang đi. 

9. Bạn hiểu: không phải ai đi cùng mình từ đầu, 

cũng sẽ đi đến cuối. Nhưng bạn biết ơn từng đoạn đường có nhau.

10. Bạn ưu tiên sức khỏe tinh thần, 

bắt đầu tập thiền, viết nhật ký, hoặc đơn giản là sống chậm.

11. Bạn biết "ổn định" không phải là chán

mà là có nền tảng để tự do lựa chọn.

12. Bạn không còn mong mọi người hiểu mình

mà mong mình hiểu rõ bản thân.

13. Bạn thấy buổi tối một mình 

trong căn phòng yên lặng dễ chịu hơn tiệc tùng. 

Không phải bạn già đi, 

mà vì bạn học được cách trò chuyện với chính mình.

14. Bạn bắt đầu lùi lại một bước trong các mối quan hệ. 

Và thấy nhẹ nhõm. Không ai rời bỏ ai.  Chỉ là bạn không còn cần “gắn bó bằng mọi giá”.

15. Bạn không còn mong ai đó làm mình hạnh phúc. Bạn học cách tự chăm mình trước tiên.

-----------------

30 Tuổi không phải trễ. 

30 Tuổi là lúc bạn đủ đau để hiểu, đủ lì để làm lại. 

Saigon Books

Tuesday, October 21, 2025

Nước Nga: Phía sau cuộc chiến

Các nước Cộng hòa trong Liên bang Nga: Khi tiếng nói ly khai dần lớn lên giữa đói nghèo và bất công

Ba năm kể từ khi chiến tranh Nga – Ukraina bùng nổ, những vết nứt bên trong Liên bang Nga đang ngày càng lộ rõ. Trong khi Moscow và Saint Petersburg vẫn lung linh ánh đèn, thì ở nhiều vùng xa xôi, đặc biệt là các nước cộng hòa tự trị thuộc Liên bang Nga như Dagestan, Buryatia, Tuva, Yakutia, Tatarstan hay Bashkortostan làn sóng bất mãn, thậm chí đòi ly khai, đang âm ỉ lan rộng.

Giàu tài nguyên, nghèo đời sống

Nhiều vùng cộng hòa trong Liên bang Nga vốn là kho báu tài nguyên của đất nước: dầu mỏ ở Tatarstan, khí đốt ở Bashkortostan, than đá ở Yakutia, vàng và kim loại hiếm ở vùng Viễn Đông. Thế nhưng, phần lớn lợi nhuận lại chảy về trung ương Moscow, còn người dân địa phương phải sống trong nghèo đói, hạ tầng lạc hậu và thất nghiệp triền miên.

Ở Yakutia, nơi khai thác kim cương lớn nhất nước Nga, nhiều làng mạc vẫn chưa có đường nhựa, điện chập chờn và y tế yếu kém. Một người Yakut từng cay đắng nói: “Chúng tôi có vàng và kim cương, nhưng con cái phải học trong trường dột nát.”

Ngôn ngữ và văn hóa bị xem nhẹ

Sau nhiều thập kỷ Nga hóa, ngôn ngữ và bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số đang bị phai mờ. Việc dạy tiếng bản địa bị thu hẹp trong trường học, trong khi truyền thông và hành chính chỉ dùng tiếng Nga. Ở Tatarstan, một vùng từng có quyền tự trị mạnh nhất, chính quyền trung ương đã xóa bỏ chức danh “Tổng thống Cộng hòa”, buộc dùng chung một hệ thống với Moscow.

Nhiều trí thức địa phương xem đó là bước đi xóa dần bản sắc và quyền tự quyết của các dân tộc.

Máu của chiến tranh đổ nhiều nhất ở vùng nghèo

Khi Nga phát động chiến dịch quân sự tại Ukraina, tỷ lệ bắt lính và thương vong giữa các vùng cho thấy một sự chênh lệch khủng khiếp. Theo nhiều báo cáo độc lập, phần lớn binh sĩ tử trận đến từ những vùng nghèo và xa xôi, đặc biệt là Buryatia, Dagestan, Tuva hay Yakutia.

Trong khi đó, các thành phố lớn như Moscow, Saint Petersburg lại được “ưu tiên” né tránh lệnh động viên, khiến sự bất bình càng dâng cao.

Tại Buryatia, nơi đa phần dân là người gốc Mông Cổ, hàng trăm phụ nữ đã xuống đường phản đối lệnh động viên, hô vang: “Chúng tôi không muốn chết cho cuộc chiến của người Nga giàu có!”

Làn sóng phản kháng âm thầm

Dù chính quyền Nga kiểm soát gắt gao truyền thông và biểu tình, nhưng phong trào phản đối trung ương đang lan ngầm trên mạng xã hội. Nhiều nhóm kêu gọi tự trị hoặc độc lập bắt đầu hình thành trong cộng đồng người Bashkir, Dagestan và Yakut ở hải ngoại.

Một số nhà phân tích cho rằng, nếu chiến tranh kéo dài và kinh tế Nga tiếp tục sa sút, làn sóng ly khai có thể trở thành “cơn địa chấn chính trị”, thậm chí vượt qua quy mô của cuộc tan rã Liên Xô năm 1991.

Khi đế chế không còn che nổi vết nứt

Liên bang Nga ngày nay, với hơn 190 dân tộc và 21 nước cộng hòa, đang đối diện với mâu thuẫn nội tại sâu sắc: trung ương mạnh, nhưng địa phương kiệt quệ; tài nguyên phong phú, nhưng dân nghèo đói; tuyên truyền về “thống nhất dân tộc”, nhưng ngôn ngữ và văn hóa bản địa bị chèn ép.

Những “vết nứt” này chưa đủ để xé toạc đế chế Nga, nhưng chúng đang ngày một rộng ra, khi người dân vùng xa bắt đầu đặt câu hỏi: Tại sao chúng tôi phải chết cho một đất nước không hề quan tâm đến chúng tôi?

Nguyễn Quốc Bình

Sunday, October 12, 2025

Tự học

Jim Rohn - bậc thầy tư duy triệu phú từng nói: “Việc tự học sẽ giúp bạn kiếm cả một gia tài.”

Nghe thì đơn giản, nhưng đó là một chân lý mà hàng triệu người vẫn đang bỏ qua, vì họ mãi đợi ai đó đến dạy mình cách thành công.

Người giàu không đợi ai chỉ đường mà họ tự vẽ đường cho mình đi: Elon Musk học chế tạo tên lửa bằng cách đọc sách và kiên trì thực hiện. Steve Jobs bỏ đại học, nhưng tự học thiết kế, mỹ học, công nghệ và tạo ra Apple. Ngay cả Warren Buffett, mỗi ngày vẫn dành 5 tiếng chỉ để đọc, học, nghiền ngẫm.

Tự học là quyền năng mà người nghèo thường xem nhẹ. Người thường hỏi: “Ai sẽ dạy tôi?”. Người thành công hỏi: “Tôi có thể học được gì hôm nay?”

Họ không viện cớ “bận rộn”, họ dành ít nhất 1 giờ mỗi ngày cho kiến thức. Họ hiểu rằng: kiến thức miễn phí đầy trên mạng chỉ thiếu người chịu khó học.

Muốn giàu hãy học như "kẻ khát nước giữa sa mạc":

- Không có t.iền đi học? Internet là trường đại học miễn phí lớn nhất hành tinh.

- Không có người hướng dẫn? Sách là người thầy kiên nhẫn nhất trong đời bạn.

- Không biết bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chính điều bạn đang sợ.

Giàu có không đến từ may mắn, nó đến từ hành trình bạn âm thầm tích luỹ kiến thức mỗi ngày. Vậy nên đừng hỏi: “Làm sao để giàu?”. Hãy hỏi: “Hôm nay tôi đã tự học gì để giàu hơn ngày hôm qua?”

Vì trong một thế giới mà kiến thức là tài sản thì tự học chính là con đường ngắn nhất để bạn tạo ra cả một gia tài!

(copy từ FB/Tạp chí Doanh Nhân)

Saturday, October 11, 2025

Từ giải Nobel văn học 2025

Phan Anh Sơn: Bài bình luận của bác Đặng Thân về giải Nobel năm nay và các năm trước có nhiều điểm thú vị.

“BẬC THẦY CỦA KHẢI HUYỀN HUNGARY”

Đó là tên gọi mà bậc kỳ kiệt Susan Sontag đặt cho chàng: “The Hungarian master of apocalypse” (“bậc thầy về thảm họa/ hậu tận thế của Hungary”). Giờ khắc tên chàng được xướng lên ở Stockholm không ai biết chàng đang ở đâu? Trieste (Ý), Berlin (Đức) hay Szentlászló (Hung)? Chỉ biết rằng chàng đang hội tụ đầy đủ những tiêu chí hạng nhất trên đời của một người đàn ông: “Tam Ánh” (tóc ánh bạc, ví ánh kim, chim ánh thép). Phụ nữ nào muốn chung hưởng vinh quang thì tìm chàng đi. Bởi tuy chàng có hai vợ nhưng đã bỏ luôn cả rồi. Có thế mới không bị quấy rầy khi ngồi viết những thứ nhảm nhí, nhả nhím, bí hiểm, biếm hỉ trong nhân luân hay thiên đạo. Ai vừa nói chàng già quá đấy? Dù chàng sinh năm Thìn đẹp rất (1952) nhưng bè lũ Nobel là không có tuổi. Bởi Nobel vật lý 1957 Dương Chấn Ninh khi 82 rồi vẫn có em Vong Phi 28 tuổi đòi lấy; chênh 54 niên chớ mấy. Hiện (2025) họ vẫn sống cùng nhau, và Dương Chấn Ninh đã 103 tuổi (sinh năm 1922).

Những tộc người xuất phát từ Trung Á có chất bí hiểm, mà lại cực hữu dụng. Như người Đột Quyết gây giống cho người Duy Ngô Nhĩ; Tatar và Bashkir ở Nga và Siberia; Uzbekistan, Turkmen, Kazakhstan, Kyrgyz, và Azerbaijan; rồi Thổ Nhĩ Kỳ đã thành lập Đế chế Seljuk rồi Đế chế Ottoman, và sau đó là Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, là dòng hậu duệ mạnh mẽ nhất. Như người Hung Nô để lại các giống cơ bản Mông Cổ, Hán, Nhu Thiên, Thổ Dục Hồn và Hung. Chả thế, Hungary có mỗi 9,6 triệu dân (gần bằng TPHCM) mà ẵm 16 cái Nobel rồi. 

I - ÔI, NOBEL! 

Đã quá lâu rồi, gần 1/4 thế kỷ, Ủy ban Nobel mới trao được một cái Nobel văn học nên hồn. Giữa hai Nobel của hai người Hung, 2002 của Imre Kertész  “nhân chứng lạnh lùng của phi lý” (existential witness of totalitarianism) và 2025 của László Krasznahorkai “nhà tiên tri mộng loạn của tận thế” (visionary prophet of apocalypse) là cả đống các ông bà lãng xẹt. Cả một “vùng trũng Nobel” có một “cảm giác lãng nhách tập thể”:

 Giai đoạn 2003-14: Nobel đi tìm linh hồn (mà quên mất văn chương). Sau Kertész (2002), có một loạt gương mặt rất “có đạo đức nhưng hơi bị hết hồn”. Thực ra là Nobel mất hướng. Sau Kertész, Nobel rời bỏ ý niệm “thiên tài văn chương” để chạy theo “đạo đức toàn cầu”. Họ trao giải cho người đại diện cho một lập trường, không phải một giọng văn. Kết quả: 10 năm liền, Nobel như một giáo sư mệt mỏi đi phát bằng danh dự cho những ai “đã chịu khổ đúng hướng”: 

2003 – J.M. Coetzee: lạnh lùng, vô cảm kiểu phòng thí nghiệm đạo đức.

2004 – Elfriede Jelinek: cực đoan nữ quyền, trào ngược tinh thần.

2005 – Harold Pinter: kịch thuyết chính trị hóa, gần như chống văn học.

2006 – Orhan Pamuk: viết đẹp, nhưng chính trị nhiều hơn văn.

2007 – Doris Lessing: triết lý mỏi mệt của thời hậu thuộc địa.

2008 – Le Clézio: nhẹ như hơi sương; đọc xong tưởng là brochure du lịch.

2009 – Herta Müller: viết OK, nhưng nặng mùi “hồi ký chế độ”. 

2010 – Vargas Llosa: ngoại lệ duy nhất, có lửa và cấu trúc.

2011 – Tomas Tranströmer: thơ cực tinh tế, nhưng gần như tịch mịch.

2012 – Mạc Ngôn: chảy mỡ ngôn ngữ nhưng rối loạn giọng điệu.

2013 – Alice Munro: kể chuyện như dạy kỹ năng sống nhẹ nhàng.

2014 – Patrick Modiano: ký ức mờ nhòe, thơm mùi bụi.

 Giai đoạn 2015-24: Nobel bước vào thời “văn học đạo đức học”, đề cao “chứng nhân”, “bản sắc”, “ký ức”, “bị áp bức”, hơn là nghệ thuật ngôn ngữ. Từ Alexievich qua Ernaux tới Glück, văn học trở thành “công cụ nhận lỗi”, không còn trò chơi sáng tạo. Ngoại lệ hiếm hoi có Handke (ngang ngược), Ishiguro (lạnh trí), Fosse (trầm thiền).

2015 – Svetlana Alexievich: là… nhà báo, biên tập viên của “tiếng khóc tập thể”, một Nobel cho… người ghi âm nỗi đau.

2016 – Bob Dylan: là… ca-nhạc sỹ, he he văn học tạm nghỉ, Spottify lên ngôi. 

2017 – Kazuo Ishiguro: văn lạnh, nhưng nhẹ như sương mù London (văn chàng rất dễ dựng phim vì copy tất cả các loại phim ăn khách).

2018 – (hoãn, do bê bối tình dục ở Viện Hàn lâm): cả thế giới văn học xả hơi, ai cũng thốt lên: may quá!

2019 – Peter Handke & Olga Tokarczuk: gây tranh cãi (Handke ủng hộ Serbia, Tokarczuk là “kẻ phá hoại bản sắc Ba Lan”), Nobel cho một kẻ bị tẩy chay và một kẻ gây chia rẽ; thế là Viện Hàn lâm đã… điên trở lại. 

2020 – Louise Glück: thơ “tối giản”, trầm, lạnh như đá. 

2021 – Abdulrazak Gurnah: gốc Zanzibar hậu thuộc địa, một Nobel “hiện thực phải đạo” (politically correct) điển hình: nhân đạo, đúng hướng, nhưng nhạt nhòa. 

2022 – Annie Ernaux: viết như luận án, đọc như nhật ký; chân thật nhưng vô vị.

2023 – Jon Fosse: kịch & tiểu thuyết tối giản, nhịp thở thần học, chữ như tuyết lạnh. 

2024 – Han Kang: bi kịch được tiệt trùng; đẹp, sạch, buồn và… vô vị.

Đến khi Krasznahorkai xuất hiện, thì văn học Đông Âu bỗng trở lại bằng cơn loạn ngôn, không phải đạo đức; và người ta mới nhận ra: sau quá nhiều “ý nghĩa nhân đạo” (cũng như “chính trị phải đạo”), thế giới khát điên rồ. 

.

II - KRASZNAHORKAI

Tất nhiên Krasznahorkai kinh lắm. Những người Hung am hiểu về văn học đều ngưỡng mộ ổng, họ bất bình là sao mãi tận bây giờ, sau Kertész Imre 23 năm, ổng mới nhận được giải Nobel! Ông được đánh giá cao hơn Kertész vì không bỏ nước ra đi, tác phẩm mang tư tưởng gần với “đạo Trời” hơn là tư tưởng Do Thái của Kertész! 

Có bốn tác phẩm lớn tạo thành “trục tinh thần” của Krasznahorkai, thường được gọi là “Tứ khúc Khải huyền” (Apocalyptic Quartet):

1. Sátántangó (1985): sự sụp đổ của cộng đồng và niềm tin.

2. Az ellenállás melankóliája (The Melancholy of Resistance | Nỗi sầu của kháng cự, 1989): hỗn loạn chính trị, khát vọng cứu rỗi, và sự mê hoặc của quyền lực. 

3. Az utolsó farkas (The Last Wolf, Con sói cuối cùng, 2009): suy tưởng hiện sinh về tuyệt chủng và lương tri.

4. Seiobo járt odalent (Seiobo There Below, Seiobo dưới trần, 2008): chiêm nghiệm về cái đẹp thiêng liêng và thời gian bất tận.

Trong đó, Sátántangó vẫn được xem là tác phẩm biểu tượng nhất, vì nó khởi nguồn toàn bộ vũ trụ văn chương của Krasznahorkai, nơi con người, ngôn ngữ, và đức tin cùng rơi vào vòng xoáy tận thế. Đó là tác phẩm quan trọng và nổi tiếng nhất của László Krasznahorkai được giới phê bình quốc tế và chính ông coi là trục trung tâm trong toàn bộ sự nghiệp của mình. Đây là tiểu thuyết đầu tay nhưng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của ông, đặt nền cho toàn bộ phong cách: câu văn dài vô tận, cấu trúc vòng lặp, giọng văn tận thế, và sự phân rã của ý thức con người trong thế giới hậu ý nghĩa.

Tiểu thuyết của ông đậm chất thần thoại nhưng đời thường, dễ đọc. Chính ông phát biểu: “Cuộc sống của tôi chẳng có kế hoạch, tôi chẳng thích lên kế hoạch. Một ngày nào đó trong tuổi thơ, tôi đã sống theo cách mà tôi nghe thấy từ tiếng nói của những nhân vật chưa tồn tại và liên tục muốn bước vào cái thực tại mà con người chúng ta đang nhận thức. Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc viết ra những giọng nói này. Tôi không đi đâu đó với ý định viết sách, mà để không nghĩ đến việc viết sách. Nhưng một trong số hàng trăm hay hàng ngàn nhân vật chưa tồn tại ấy có thể chạm đến tôi ở bất cứ nơi nào bằng sự hiện diện của họ, bằng một chuyển động, bằng một cử chỉ. Trong khoảnh khắc họ chạm mặt tôi, tôi nghe thấy những lời nói của họ, câu chuyện của họ, số phận của họ… bằng một sức mạnh khủng khiếp, họ giận dữ chỉ ra rằng, họ có một chỗ đứng nơi đây.” Có thể nói, đây là tư tưởng bao trùm lên những sáng tác của ông. 

.

III - SÁTÁNTANGÓ

1. Ở VN & TRÊN TG:

Đã có hai cuốn của Krasznahorkai được dịch ra tiếng Việt. Đó là War & War (Chiến tranh & chiến tranh, 2017) và Sátántangó (Vũ điệu quỷ Satan, 2022). Có lẽ độc giả Việt chưa mấy để ý đến ông, do cách viết rất khó: giọng văn âm u, một câu kéo dài cả mấy trang… Nhưng, vấn đề lớn là dịch giả (nói chung & nói riêng). Nghe nói dịch giả tiếng Hung cuốn này chỉ quen viết báo cáo và giải trình. 

Ngay cái nhan đề Vũ điệu quỷ Satan là quá xa ý tác giả rồi (nghe như một tên phim “kịch xà phòng”). Sátántangó rất rõ ràng là từ ghép của “Satan” và “tango”. Sao lại coi thường Krasznahorkai khi ông đã dụng công dùng từ “tango”? “Satan” thì ai cũng hiểu là quỷ, nên dịch “quỷ Satan” là thừa. Đây là điệu tango của quỷ, nhưng cũng hàm ý về một điệu nhảy định mệnh. Nếu dịch thành “Điệu tango của quỷ” sẽ chính xác hơn về nhịp, không khí và ẩn dụ. Bởi tango là điệu nhảy có bước tiến, bước lùi, y hệt cấu trúc tiểu thuyết này (6 chương tiến, 6 chương lùi). Nó cũng là điệu nhảy hai người, đầy mê hoặc, quyến rũ và hủy diệt, biểu tượng của sự đồng lõa giữa người và quỷ, giữa kẻ bị dẫn dụ và kẻ thao túng. Vì vậy, nhan đề “Điệu tango của quỷ” vừa đúng về ngữ pháp, chuẩn xác và trang trọng, vừa chạm đúng vào trái tim biểu tượng của tác phẩm. Các cách dịch khác: “Điệu tango Satan” (vừa huyền bí, vừa trừu tượng), “Tango Quỷ” (ngắn, ám ảnh, hợp bìa sách hoặc phim). 

Phải nói ngay là cuốn sách đình đám này chưa chắc được mấy người mua đâu, nên các nhà văn dấn thân chớ vội nghĩ đến tiền. Sách ra năm 1985, thời nhộm nhoạm ấy đủ thứ lo, mấy cao thủ bỏ tiền mua sách. Cuốn sách chỉ trở nên đình đám khi được đạo diễn Béla Tarr dựng thành phim năm 1994. Phim dài tới bảy tiếng rưỡi, dễ mấy ai kiên nhẫn mà xem, ngoài các cán bộ như chị Ngô Phương Lan, chớ nhấp nhổm như anh Trần Lực thì lấy đâu ra kiên nhẫn mà ngồi xem cả ngày không ăn trưa! Nhưng!! 

Phim hay đến từng xăng ty mét vuông. Mở đầu là cảnh nông trang (XHCN) hoang nát và một đàn bò ngơ ngáo, đạo diễn cho kéo dài miên man, đến suốt… 6 phút, mà chỉ có cảnh động là hai anh bò lần lượt nhảy phóc lên đít hai chị bò, từng ấy đã đủ làm người xem… liệt kháng ngay từ đầu. Tiếp đó, khi có nhân vật người xuất hiện thì choán giữa khung hình là một chị ngồi zửa bướm trên cái chậu thau. Zất kỹ càng. Zưng chắc chắn khán giả đã bị thôi miên, để yên cho đạo diễn dắt vào tiểu thuyết trường thiên vĩ đại của Krasznahorkai. 

Sau cú phim quá hoành tráng ấy thiên hạ bắt đầu quan tâm tới Sátántangó. Ước chừng hai vạn bản tiếng Anh đã được bán ra, toàn cầu. Suy ra, bản gốc tiếng Hung chắc bán được hai-ba ngàn cuốn! Lãi lọ cồn. 

2. NỘI DUNG: 

Vào khoảng đầu những năm 80, đâu đó ở miền Đông Nam Hungary, vũ điệu độc đáo của Sátántangó diễn ra trên những tàn tích sống động của một khu trang trại nông nghiệp cũ. Irimiás đến thế giới khép kín và bất động này, cùng với Petrina, để làm lóa mắt những người dân địa phương sống ở nông thôn này, những người đang bám víu sinh tồn, với những hy vọng và ảo tưởng mới. Tiểu thuyết đầu tay này của ông trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học Hungary và thế giới hiện đại. Sátántangó, chứa tải những kiến thức xã hội học, như một câu chuyện ngụ ngôn muôn thuở về sự mong manh của đời người, về sự giải thoát và vướng víu, về ân sủng và lòng thương xót của Thượng đế, về những thảm họa sắp xảy ra. Văn phong cuốn hút, người đọc dễ “lên đồng”. 

Truyện được kể theo nhiều góc nhìn khác nhau, cấu trúc “tiến-lùi” giống vũ điệu tango. Sách có 12 phần: 6 phần tiến, rồi 6 phần hồi lại (gồm các tựa chương tiến rồi lùi). Dưới đây là diễn biến chính:

a) Khởi đầu – tiếng chuông: Truyện mở đầu khi Futaki (một cư dân trong trang trại) nghe thấy tiếng chuông vào một buổi sáng cuối thu, báo hiệu một điều bí ẩn sắp tới. Tiếng chuông này cũng xuất hiện ở cuối truyện, tạo tính vòng lặp. Đồng thời, người ta biết rằng Irimias, người đã được cho là chết, đang trở về trang trại cùng người cộng sự Petrina. 

b) Irimias & Petrina – sự phục sinh/ “cứu rỗi”: Khi Irimias và Petrina xuất hiện, những người dân trong trang trại đón nhận họ như những cứu tinh, tin rằng họ sẽ đem lại thay đổi, cứu vãn tình hình. Nhưng thực ra, Irimias là nhân viên tình báo trá hình (spy, nội gián) làm việc cho nhà nước, sử dụng dân làng như công cụ để mở rộng mạng lưới giám sát. Ông ta lôi kéo người dân rời bỏ trang trại cũ, đến một trang trại mới, rồi từ đó giải tán họ, phân tán họ để điều khiển và giám sát. 

c) Sự tan vỡ của ảo tưởng & số phận của nhân dân: Những người dân từng trao niềm tin cho Irimias dần nhận ra sự sai lệch, nhưng họ đã mất chỗ dựa. Có cái chết, có sự tan vỡ, ví dụ như cái chết của cô bé Esti, một nhân vật trẻ tuổi mang nhiều ẩn ý về niềm tin, hy vọng, và khát khao thoát khỏi thực tại. Trong khung truyện này, bác sĩ trong trang trại (người gần như quan sát hành động của cộng đồng) cố gắng ghi lại, can thiệp bằng cách ghi chép, nhưng cuối cùng nhận ra rằng việc “ghi lại”, hay viết, có thể là cách duy nhất để phản kháng lại sự tàn phá, dù thật nhỏ nhoi. 

d) Kết thúc vòng lặp: Kết thúc truyện quay trở lại tiếng chuông đầu truyện, vòng tuần hoàn thời gian, vòng vũ điệu giữa hy vọng và thất vọng, giữa đen tối và ánh sáng. Truyện không kết thúc bằng một giải pháp rõ ràng, mà để lại nhiều khoảng trống suy ngẫm, về ý nghĩa, về sức mạnh, về cái thiện và cái ác, và về số phận con người dưới áp lực quyền lực. 

3. CHỦ ĐỀ & Ý NGHĨA: 

a)  Sự luân hồi/ vòng quay tuyệt vọng: Cấu trúc tiến-lùi, vòng lặp tiếng chuông, sự khởi đầu và kết thúc đồng thời là điểm mở, tất cả gợi lên cảm giác rằng con người bị mắc kẹt trong chu kỳ căng thẳng, hy vọng và thất vọng. 

b) Niềm tin, cứu rỗi giả tạo, và quyền lực ngầm: Irimias tượng trưng cho kẻ cứu tinh giả, kẻ đứng giữa quyền lực nhà nước và người dân, biến niềm tin của dân thành công cụ thao túng. Những người dân trong sự tuyệt vọng dễ bị dẫn dắt bởi ảo tưởng cứu rỗi, và khi nhận ra thực tế nghiệt ngã, họ không còn chỗ dựa.

c) Thời gian, sự hủy hoại, và sự đổ nát: Mưa không ngớt, những ngôi nhà đổ nát, cảnh hoang tàn; tất cả làm nổi bật sự suy tàn của môi trường sống, nhưng cũng là hình ảnh cho sự mục ruỗng tinh thần của con người. 

d) Sự quan sát & viết như phản kháng: Bác sỹ (người kể chuyện) cố ghi chép, ghi lại cái hỗn loạn, cái đau như cách làm sống sót bản thân và phản kháng câm lặng trước quyền lực áp bức. 

e) Cái thiện và cái ác không rõ ràng: Truyện không vẽ ra “Satan” theo hình tượng rõ ràng, mà nhiều lúc quyền lực ác quỷ xuất hiện qua các mối quan hệ, thông qua niềm tin sai lệch, qua hệ thống thao túng. Có lúc Irimias giống nhân vật cứu rỗi, có lúc giống ác quỷ. Nhân vật “tốt” và “xấu” bị mờ đi; ranh giới giữa chúng trở nên mơ hồ. 

Sátántangó nổi bật bởi kết cấu vòng lặp như một bản tango, tiến sáu bước rồi lùi sáu bước, phản chiếu chu kỳ tuyệt vọng của con người. Văn phong đặc trưng với các câu dài miên man, tràn ý thức, mô tả thế giới hoang tàn bằng nhịp điệu mê loạn. Tác phẩm hòa trộn hiện thực tăm tối và huyền ảo triết học, nơi mưa, bùn, rượu, và sự mục ruỗng của một cộng đồng trở thành ẩn dụ cho sự sụp đổ tinh thần sau chủ nghĩa toàn trị. Nhân vật Irimias “cứu tinh giả” hiện thân cho quyền lực thao túng niềm tin, biến tôn giáo và lý tưởng thành bẫy. Giữa sự tan rã ấy, bác sỹ ghi chép như một hành vi phản kháng bằng ngôn từ. Tác phẩm tạo nên một vũ điệu giữa đức tin, ảo vọng và hư vô, nơi địa ngục mang hình dáng của đời sống thường nhật.

Đặng Thân

Friday, October 10, 2025

Góc tranh luận và lý sự cùn của quân ta

Văn hóa tranh luận kiểu ta. Bài viết cách đây 6 năm. 

Thư giãn cuối tuần - Da mỏng, mặt dầy

Hồi nhỏ tiều phu ở gần trụ sở hai phái đoàn Canada và Ấn Độ trong Ủy ban Quốc tế giám sát hiệp định Genève. Phái đoàn Canada (chúng tôi gọi là Gia Nã Đại) đóng trong ngôi nhà quét vôi trắng, cửa sơn xanh ở số 2 Phạm Sứ Mạnh, phía trước có tấm biển vuông bằng đồng ghi „Délégation Canadienne“. Cạnh đó là khu nhà của phái đoàn Ấn Độ (12 Phan Chu Trinh), cũng có tấm biển ghi bằng các ký tự con giun. Chúng tôi thường đến đó để xin nắp chai bia về đập ra làm xèng chơi. 

Lính Ấn Độ quấn khăn Sik là hình ảnh mà tôi vẫn nhớ từ những năm 50 của thế kỷ trước.

Những ngườil ính Ấn Độ trông đen đúa dữ tợn nhưng rất vui vẻ. Họ hay để dành nắp bia và nắp chai nước ngọt cho tụi trẻ chúng tôi. Các chú lính Gia-Nã Đại thì rất đẹp trai, hay đội mũ nồi xanh hoặc đỏ, cũng vui vẻ, nhưng chẳng mấy khi cho chúng tôi nắp bia.

- Đẹp trai mà keo kiệt! Tôi than phiền. 

Thằng Bằng, con bác Hoàng Tuấn ở cùng nhà, phụ họa: Bọn Gia Nã Đại này vừa tư bản vừa điên. 

Người lớn dạy chúng tôi: Trong Ủy ban Quốc tế chỉ có Ba-Lan là tốt, vì là đồng chí. Gia-Nã-Đại là phe của đế quốc Mỹ, còn Ấn Độ là trung lập ba phải, adua với đế quốc (vì Ấn Độ chống Trung Quốc trong vụ khủng hoảng Tây-Tạng  Xich-Kim, còn ta thì bênh Trung Quốc).

Thế nên tôi hỏi Bằng: 

- Ừ, Gia Nã Đại tư bản, keo kiệt thì đúng rồi, nhưng sao cậu bảo nó điên?

- Xem biển nó ghi là Canadienne kia kìa (đọc là Ca Na điên).

Sau này lớn lên, hiểu biết thêm về Canada, tiều phu phục xứ này sát đất. Một quốc gia với hơn 30 triệu dân, ở sát nước Mỹ, kinh tế phát triển như Mỹ, nhưng lại vượt xa Mỹ về an sinh xã hội, khác xa Mỹ về lối sống, về văn hóa. Canada tuy nhỏ, nhưng luôn đóng góp tích cực vào sinh hoạt quốc tế. Trong cả hai cuộc đại chiến, dù không bị tấn công, quân đội Canada vẫn có mặt khắp mọi nơi để bảo vệ tự do. 

Chắc là các chú lính Canada ngày xưa ít uống bia nên không có nắp bia chứ không keo kiệt.

Lính Canada từng có mặt trong nhiều cuộc chiến, mặc dù đất nước họ không bao giờ bị đe dọa.

Hôm nay tình cờ tiều phu đọc được bài của Jesse Peterson, một người Canada sống ở Việt Nam nhiều năm.  Anh ta khuyên người Việt nên „học văn hóa tranh luận.

Jesse nhớ lại việc cậu em trai ăn chặn cái bánh kem của cậu.

„Bánh kem mẹ làm ngon lắm, nên tôi rất bực mình. Trước khi tôi kịp thốt nên lời nào, nó đã liền bịt miệng tôi bằng câu: "Lần trước anh cũng lén ăn kẹo của em còn gì?".

Thằng em láu lỉnh của tôi đã thành công khi chuyển trọng tâm cuộc tranh luận về việc "nó đang ăn bánh kem của tôi" thành " bởi vì tôi cũng đã lén ăn kẹo của nó".

Việc này cũng giống như khi tranh luận về không khí ô nhiễm ở Hà Nội. Nhiều người lái trọng tâm của cuộc tranh luận về cách giải quyết vấn đề ô nhiễm sang vấn đề: Hà Nội có phải là thành phố ô nhiễm nhất thế giới?....

…..Chẳng hạn, khi tranh luận về ô nhiễm ở Hài Nội, liệu nó có thực sự tệ nhất thế giới hay chỉ là hơi tệ thôi? Một số người Việt có cảm giác vấn đề ô nhiễm không tệ như họ nghe nói và cho rằng đây chắc hẳn là âm mưu nào đó nhằm bôi nhọ Việt Nam.

Tôi thấy người Việt thường phản ứng khi bị chỉ trích; "tu quoque" (tiếng latin), nghĩa là: "Bạn cũng thế" hoặc "ad hominem" (tiếng Latin), nghĩa là công kích cá nhân.

Ví dụ, một người nước ngoài mới đến Việt Nam, bức xúc khi thấy người ta vứt rác ra đường hoài. Anh ta viết trên mạng xã hội,

"Tại sao mọi người cứ vứt rác bữa bãi ra đường như thế? Các bạn không yêu môi trường gì cả."

Thế là nhiều người Việt đọc được thấy bị xúc phạm, tự ái. Thay vì giải quyết vấn đề rác, họ có thể trả lời theo một số cách sau:

"Thấy bẩn thì về nước của bạn mà sống!" 

"Người dân nước bạn cũng thế mà nói ai" 

“Ở đâu cũng có người này, người kia, có người xả rác, có người không nhé."

------

Tôi thấy Jess nhận định khá chính xác về văn hóa tranh luận của người Việt. 

Khi tôi viết về môi trường, nêu các lối sống tiêu thụ, lãng phí của người Việt thì có bác chửi là: Ông ở Đức, nơi đốt nhiều nguyên liệu, tiêu thụ nhiều thịt hơn Việt Nam thì sao không phê người Đức ? 

Khi ai phê phán Trump về việc gì, lập tức bị phản pháo lại bằng các tội lỗi của Obama chẳng hạn.

Để bảo vệ sai lầm của mình, người Việt hay vác tội lỗi của người khác ra bảo, thằng đó còn kinh hơn thế sao mày không chửi nó.

Đó không phải là tranh luận, mà là chạy tội. 

Đã thế, lại còn ăn thua nhau từng câu chữ. Trong vài bài viết của tôi, có những đôi gà chọi nhảy vào kịch chiến tay đôi với nhau một cách càng về sau càng vô nghĩa. Cuối cùng, tôi phải nhảy vào khuyên họ ”không nói không có nghĩa là thua”.

Jess Peterson có đưa ra khái niệm "thick-skin" (da dầy):

"Thick-skin là một bộ áo giáp để bảo vệ cảm xúc của bạn, tránh để những xúc tác bên ngoài kích động bạn, nhờ đó, bạn có thể nhìn một vấn đề với các kỹ năng tư duy phê phán….Chỉ cần phát triển văn hoá tranh luận và thảo luận một cách hiệu quả và bình tĩnh, tìm gốc rễ của vấn đề tranh luận, gạt bỏ cảm xúc sang một bên, chúng ta có thể cùng nhau phát triển. Ít nhất mình có thể nói chuyện cùng nhau.”

Thì ra tay Ca-Na-Điên này giữ được cái đầu lạnh nhờ có da dầy.

Người Việt chúng ta không điên thì da lại mỏng quá (nhưng mặt thì dầy).

https://www.facebook.com/jesse.../posts/10162305496350134

Nguyễn Xuân Thọ

Sunday, October 5, 2025

Tầng lớp tinh hoa và dân tộc

 Không có tinh hoa thì ngộ nhận của dân tộc do đám đông thúc đẩy sẽ lên ngôi và ngược lại.

Ngộ nhận dân tộc và tinh hoa

    1. Ngày nay chúng ta thường mặc định là  ý chí của đa số là chân lý, ý chí của một người thường dẫn tới độc tài.  Điều đó nói chung là đúng trong xã hội văn minh như Âu Mỹ, tuy không phải không có ngoại lệ. 

     2. Ở các xã hội kém văn minh (hiện tại hoặc đã từng có trong lịch sử), điều đó trở nên tranh cãi. Một dân tộc có thể ngộ nhận và đồng lòng tự nguyện chọn khả năng sai lầm. Người ta thường cố giữ chân lý đầu bằng cách giải thích bằng cách giải thích rằng dân tộc đó không có tự do lựa chọn và bị áp đặt bởi độc tài. Tuy nhiên ở đây có một ranh giới mờ như Ceasar nói "Không có sư tử nếu như không có đàn cừu". Độc tài không phải bao giờ cũng bắt đầu bằng vũ lực, mà bắt đầu bằng sự tôn vinh của đám đông, khi có một cá thể gãi đúng chỗ ngứa ngộ nhận của xã hội, rồi dẫn đến sự lên đồng tập thể. 

      3. Tôi không tin ở sự quyết định dựa trên đám đông sẽ dẫn tới chân lý. Đám đông là một phép lấy trung bình. Phép trung bình chỉ có thể là phương án sáng suốt nhất trong một số hoàn cảnh ngoại lệ đặc thù. Tôi cho rằng xã hội cần có những bộ óc lóe sáng, với tư duy bừng sáng soi đường, như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Copernicus, Bruno Giordano,... Hầu như luôn luôn họ đơn độc và thiểu số. Lão Tử viết xong Đạo Đức Kinh phải cưỡi lừa mà bỏ nhân thế mà đi. Stendhal viết Đỏ và Đen chỉ in được 300 cuốn, bán không hết. Hàn Phi viết Cô phẫn, xong thấy mình cô đơn cùng cực.  Lấy ý kiến đám đông những tư tưởng đi trước thời đại như vậy là một sự man rợ. Khổng Tử được tôn vinh vạn thế sư biểu, thiết kế ra các thiết chế cho hàng ngàn năm, khi sống cũng "chạy như chó nhà có tang".

     4.  Plato cũng đã từng theo đuổi ý tưởng xã hội phải được vận hành bởi các tinh hoa. Ở đâu đó chân lý nằm giữa dân chủ phổ thông đầu phiếu và dân chủ tinh hoa. Chính vì thế ở một nơi dân trí đủ văn minh cho việc bầu tổng thống trực tiếp như Mỹ, vẫn phải có hai viện, Hạ Viện theo nguyên tắc đầu phiếu phổ thông, có quyền đề xuất,  Thượng Viện theo nguyên tắc tinh hoa, có quyền phủ quyết.   

     5.  Một dân tộc có thể ngộ nhận vì nhiều nguyên do, nhưng nói chung là do thiếu một điều gì đó. Có thể thiếu tri thức, thiếu một căn tính hoặc thiếu một số thứ quan trọng khác. Việt Nam thời Tự Đức là trường hợp thiếu tri thức, lạc hậu với thế giới, nhưng không thể nói là thiếu căn tính. Căn tính của tộc Việt đã được hình thành trong một thời gian dài, thử thách qua nhiều cuộc chiến giữ nước, mất nước rồi cứu nước từ Trần, Lê, Tây Sơn,... Nước Đức thời Hitler đã là cái nôi của khoa học, triết học không thể nói là thiếu tri thức mà là thiếu căn tính. Chủ nghĩa dân tộc thái quá đều bắt nguồn từ mặc cảm thiếu căn tính. 

      6.  Khi cả một dân tộc ngộ nhận, sẽ là thời cơ của những người dân túy, hoặc những kẻ có máu độc tài biết nói giọng dân túy. Nói một cách khác dân tộc đó sẽ tôn vinh một kẻ đại diện cho sự ngộ nhận của mình, cho dù kẻ đó trong thâm tâm có chia sẽ ý thức ngộ nhận đó hay không. Tôi nghĩ Mao Trạch Đông, không phải không thấy được vấn đề của xã hội Trung Quốc như Lỗ Tấn đã chỉ ra, tất nhiên không thể sâu sắc bằng, nhưng ông ta được một bầy cừu tôn làm sư tử để phục vụ ý thức hệ và lý tưởng làm cừu của đám đông nông dân theo ông đến Tây An.  Độc tài có thể cũng là nhân vật rất cô đơn.

     7. Napoleon là một nhà độc tài trên cơ sở một tư tưởng cách mạng. Ông kiên quyết xuất khẩu tư tưởng chống trật tự phong kiến cũ ra toàn châu Âu. Tuy nhiên ông phải lên ngôi hoàng đế, trở thành một nhà độc tài, trái với lý tưởng ban đầu. Có thể nước Pháp lúc đó đã chán chường với sự bất ổn của cách mạng đem lại, cần một vị hoàng đế dù là miễn cưỡng. Cromwell có lẽ cũng gần như vậy, mặc dù ông không lên ngôi hoàng đế. Piotr Đại đế cũng đã phải trở thành độc tài, độc đoán với cả con trai, để cải cách nước Nga. Nếu không muốn độc tài các nhà độc tài này đã không thể ngồi đó, đơn giản vì xã hội đang cần sự độc tài. 

        8. Có những trường hợp may mắn hơn, nhà lãnh đạo không cần trở thành độc tài, nhưng cần sự quả cảm để quyết định sáng suốt nhưng đơn độc. Tổng thống Mỹ Kennedy cho rằng quả cảm, dám quyết định một mình là ưu điểm lớn nhất của nhà lãnh đạo. Tất nhiên, để quả cảm quyết định thành công, mà không phải trở thành độc tài, nhà lãnh đạo cần một môi trường văn minh và phù hợp. Nhưng thật không may, ngay cả tổng thống Kennedy và môi trường dân chủ tự do như Mỹ cũng dẫn tới kết thúc bi thảm của cá nhân ông. 

      9. Tôi thấy Chu Công, Jefferson thật là may mắn được sinh ra ở một thời kỳ có thể áp đặt những tư tưởng tinh hoa, thiểu số và đi trước thời đại để tạo là một thể chế lâu dài và rực rỡ. Trong khi đó Vương An Thạch, Calvin thất bại xót xa. Chẳng qua cũng chỉ là vì môi trường không phù hợp, đâu có phải vì do thiếu ủng hộ của đám đông. Cũng có thể nói đó cũng là kết quả của một sự ngộ nhận dân tộc. Có thể một môi trường tâm lý dân tộc bớt căng cứng sẽ ít có khả năng ngộ nhận hơn. Khi đó có thể chúng ta sẽ cần Bergsson, Molièrre hơn một Nietzche.

Nguyễn Ái Việt (DEBRECEN.vidi72)

27 Apr. 2022

Thursday, October 2, 2025

Buổi tọa đàm quan trọngvề tư duy lượng tử

 
VCCI building - Nơi gặp gỡ để khơi dòng chảy tư duy lượng tử trước cơ hội lịch sử

Phần đầu của buổi tọa đàm

Nội dung chính của buổi tọa đàm

Nguyễn Ái Việt diễn giải vấn đề bằng ngôn ngữ phổ cập/dễ hiểu nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu để tiếp cận và nắm bắt được tư duy lượng tử - một sự chuyển biến về nhận thức của đất nước trước vận hội mới

Sunday, September 28, 2025

Sống: Trong xh và gia đình

Trong quan hệ con người, phần lớn rắc rối không bắt đầu từ chuyện lớn. Nó khởi nguồn từ một va quệt nhỏ, một lời lỡ miệng, một sự hiểu nhầm. Tự thân những điều đó chưa đủ sức phá hỏng mối quan hệ. Nhưng phản ứng vội vàng của chúng ta lại biến nó thành xung đột thật sự.

Người ta thường tin rằng mình phải “làm gì đó ngay.” Đó là phản xạ của não bộ – hoặc bật lại, hoặc im lặng nuốt vào. Nhưng cả hai cách đều để người khác cầm nhịp. Phản ứng ngay dễ dẫn đến leo thang, còn im lặng mãi lại biến thành ấm ức. Thứ chúng ta thiếu là khoảng dừng ở giữa.

Khi kéo giãn được nhịp phản ứng, ta bắt đầu thấy rõ bản chất tình huống. Nhiều cuộc cãi vã trong gia đình, nếu để qua một đêm, tự dưng lại hạ nhiệt. Nhiều mâu thuẫn trong công việc, nếu không gấp gáp nhảy vào, sẽ tự phơi ra điểm sai của bên kia. Cái lợi của việc chậm một nhịp là ta giữ được quyền chọn lựa cách phản ứng, thay vì bị cảm xúc dắt mũi.

Trong xã hội, người biết giữ nhịp riêng thường được tôn trọng. Họ không cần lên tiếng nhiều, nhưng mỗi lần nói ra đều đúng thời điểm. Lời của họ có sức nặng hơn vì họ không lãng phí nó cho những va chạm vụn vặt. Trái lại, kẻ lúc nào cũng bộc phát hoặc kẻ lúc nào cũng né tránh, lâu dần đều mất giá trị.

Một ví dụ dễ thấy là công sở. Có đồng nghiệp hay thích công kích. Nếu bạn đáp trả gay gắt ngay, mâu thuẫn sẽ nổ tung. Nếu bạn im lặng mãi, họ sẽ được đà lấn tới. Nhưng nếu bạn chờ cho tập thể chứng kiến cách họ lặp đi lặp lại một hành vi thiếu tôn trọng, rồi mới chọn thời điểm để phản hồi rõ ràng, thì bạn vừa không mất bình tĩnh, vừa khiến cả phòng công nhận bạn đúng.

Trong gia đình cũng vậy. Một đứa trẻ bướng bỉnh đôi khi cần để nó nói hết, rồi mới lựa lời sau đó. Tranh cãi với trẻ lúc nó đang nóng chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa. Nhưng nếu lần nào cũng nhịn, bạn lại đánh mất vai trò định hướng. Điểm cân bằng là để cho cảm xúc của nó qua đi, rồi mới ra quyết định.

Quan trọng nhất là hiểu rằng xử thế không phải trò thắng–thua. Nó là nghệ thuật điều tiết năng lượng. Người khôn khéo giống như nhạc công: biết khi nào dừng, khi nào ngân dài. Nếu chơi dồn dập từ đầu đến cuối, bản nhạc thành ồn ào vô nghĩa. Cũng vậy, nếu cứ phản ứng mãi, quan hệ nào rồi cũng vỡ.

Nhưng cũng đừng nhầm lẫn rằng im lặng là giải pháp mặc định. Có những lúc sự im lặng chính là đồng lõa. Khi chứng kiến bất công, khi thấy người khác bị chèn ép, hoặc khi giá trị cốt lõi bị xâm phạm, lúc ấy sự lên tiếng trở thành cần thiết. Một lời nói đúng thời điểm có thể ngăn được cả chuỗi sai lầm phía sau.

Nguyên tắc cốt lõi là: đa phần thời gian hãy chậm hơn bản năng nửa nhịp, nhưng một khi đã hành động thì phải hành động dứt khoát. Im thì im hẳn, nói thì nói cho ra ngô ra khoai. Sự lưng chừng mới là thứ làm người khác coi thường.

Sau cùng, giá trị của một người không đo bằng số lần họ thắng trong cãi vã, mà bằng cách họ duy trì được mối quan hệ lâu dài sau hàng trăm xung đột nhỏ. Người được nể trọng nhất không phải là kẻ hay lớn tiếng, cũng không phải kẻ im thin thít, mà là người biết đọc nhịp của tình huống và làm chủ được nhịp của chính mình.

(copy từ FB/Tâm lý học đám đông)

Friday, September 26, 2025

Quan trọng

3 THỨ NHẤT ĐỊNH PHẢI NHỚ

3 thứ vô thường nhất của đời người: đó là công danh, tiền tài và sự nghiệp.
3 thứ vô giá nhất của đời người: đó là sức khoẻ,giữ chữ tín và thời gian.
3 thứ cần phải trân trọng nhất: đó là gia đình, tri kỉ và bản thân mình.
3 thứ nhất định không được đánh mất: đó là sự nhẫn nại, chân thành và lương thiện.
3 thứ huỷ hoại con người nhanh nhất: đó là sự nóng giận, kiêu căng và đố kị 
Hãy sống vui vẻ, chúc các bạn ngày mới tốt lành ❤️
👉 Hãy dũng cảm nhìn lại bản thân và bắt đầu thay đổi, dù chỉ một thói quen nhỏ mỗi ngày. Vì thay đổi chính mình chính là cách nhanh nhất để thay đổi cả cuộc đời. 


TnBS

Thursday, September 25, 2025

Đúng sai, chuẩn mực đời người

Có người 20 tuổi đã mất, người 90 vẫn vui sống; có kẻ học cao chạy ship, kẻ ít học làm chủ; người xinh đẹp 40 vẫn độc thân, người bình thường đông con cháu; người hút thuốc, uống rượu lại sống thọ, người làm việc cật lực lại đột tử tuổi thanh xuân. Đúng - sai, chuẩn mực, cuối cùng chỉ có lòng mình làm thước đo. Đời người ngắn ngủi. Một ngày, bạn tỉnh dậy - thêm một ngày sống; không tỉnh dậy - một kiếp người khép lại. Thứ ta nên làm chỉ là dùng tâm nếm từng miếng cơm, ngắm từng đóa hoa, tận hưởng từng khoảnh khắc. Hạnh phúc thực ra rất giản đơn: có nhà để về, có người đợi, có cơm để ăn. Năm tháng yên bình, kỳ thực chỉ là bữa cơm nóng trên bàn, ngọn đèn sáng chờ bạn trở về. Đời người có quá nhiều thứ không kịp: chớp mắt là hết ngày, ngoảnh đầu là hết năm, quay lưng là hết cả một kiếp. Hạnh phúc mà ta theo đuổi không nằm ở quá khứ hay tương lai - nó nằm ở phút giây hiện tại: bữa tối trên bàn, người thân bên cạnh, ba bữa cơm, bốn mùa xuân hạ, gia nhân quây quần mạnh khe bình an, ngọn èn ấm áp trong nhà. Ây mới chính là phong cảnh tuyệt đẹp nhất nhân gian. Hãy sống cho thật tốt. 

Người trí thức/FB-Sưu tầm

Wednesday, September 24, 2025

Đọc sách: Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ

 Nguyễn Ái Việt: Trần Ngọc Vương gọi điện cho tôi nói là sẽ gửi cho tôi bộ sách này và nhờ tôi đọc. Tôi nói sao anh không nhờ một ông cùng nghề văn chương, tôi dân ngoại đạo ý kiến có cân lạng gì đâu. Vương nói, tôi nhờ 2 người đọc đều không trong nghề, mà phải các anh mới có thể đọc bởi vì cuốn sách này đọc không dễ. 

       Chính vì thế tôi mới thấy tò mò và ham. Bản tính tôi thích nghiền sách khó đọc. Một cuốn sách cỡ 400-500 trang, loại khô khan không dễ đọc như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, nếu cần tôi có thể nghiền trong 1 ngày. Năm 8 tuổi tôi đã đọc Việt sử Thông Giám Cương mục và nhớ cả chi tiết Ngô Quyền có nốt ruồi ở lưng.

       Vì vậy tôi nhận lời đọc bộ sách này. Và quả thật sách không dễ đọc. Một phần do nội dung quá đồ sộ, đề tài dàn trải không hoàn toàn văn học, lịch sử, văn hóa hay xã hội học. Phần khác là do phong cách viết của Trần Ngọc Vương, không kết luận mà để mở ra những không gian tư duy mênh mông cho thế hệ tiếp sau. Do đó có nhiều vấn đề đề ngỏ, người nghĩ không sâu cho rằng anh đang nhàn đàm phiếm luận. Thực ra nếu kết nối lại chúng ta sẽ thấy có một logic xuyên suốt. Tôi thích cách viết như thế. Nếu tôi viết về xã hội, văn học hay lịch sử cũng sẽ viết như thế. 

          Tôi đọc hơn nửa quyển 1 và thôi không đọc nữa. Không phải tôi không thích hay không hiểu, nhưng sách của Vương không phải để đọc ngốn ngấu cho biết chuyện. Phải để suy nghĩ thẩm thấu dần mới thú vị, bởi vì cuốn sách này có nhiều tầng hiểu. Người thường sẽ tìm thấy chi tiết thường, người khá hơn sẽ thấy chi tiết khá hơn, người tri kỷ sẽ thấy chi tiết tri kỷ. Tôi lại không phải là người quen thân nhanh, vài vại bia đã dốc tâm sự gan ruột. Tuy vậy khi Vương gọi điện hỏi đọc đến đâu, tôi nói tôi chưa đọc hết nhưng đủ hiểu một vài điểm thú vị, xứng đáng là phát hiện, đủ để nói về sách của anh, và có thể đoán anh sẽ viết tiếp thế nào, mặc dù không biết là anh sẽ viết những gì. 

          Tôi cũng phải thú thực tuy tôi đọc rất nhiều sách, nhưng hiếm có cuốn nào tôi đọc trọn vẹn mà thường bỏ dở khi thấy mình có thể viết tiếp cuốn sách đó. Nhưng tất nhiên đó không phải là cuốn Thực thể Việt. 

         Nhan đề "Thực thể Việt" quả thực đã khêu gợi trí tò mò của tôi, bởi vì những gì thuộc về văn hóa Việt, tinh thần Việt, sáng tạo Việt đều là thực thể Việt, là những cái tôi đang quan tâm. Tuy nhiên tiểu nhan đề "nhìn từ các tọa độ chữ" là tôi hơi kinh.  Quả thực tôi rất ngại phong cách bình thơ văn bằng chữ, chẻ tư từng câu, bình âm sắc thế nọ, từ ngữ lóng lánh thế kia kiểu "gió lộng xôn xao". Tư duy của tôi khá xa lạ với cách bình phẩm văn chương bằng chữ nghĩa theo kiểu đồ nho như thế. Nhưng rất nhanh, tôi thấy rằng sách của Vương không có bất cứ thứ gì gần giống như thế. 

        Phong cách viết của anh rất đa ngành, phương pháp tư duy lại rất gần khoa học là điều rất hiếm có trong giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Đọc những đoạn anh viết về hệ thống đê điều, chúng ta có thể tưởng tượng trước rằng anh sẽ ca ngợi đây là công trình vĩ đại của nhiều thế hệ cha ông. Nhưng ta sẽ thấy bất ngờ khi đọc kết luận của anh. Hoặc sự hình thành tư tưởng của kẻ sĩ người Việt cũng rất khoa học và chính xác tạo ra các kết luận bất ngờ đáng suy nghĩ và khác hẳn các mạch văn ca ngợi theo công thức nhàm chán. 

         Tôi rất thích những đoạn anh viết về lịch sử dựa trên nhãn quan văn học, nhưng trái với kiểu nhìn nhân vật lịch sử theo kiểu nhìn nhân vật tiểu thuyết thường thấy. Anh phân tích diễn biến tâm lý lịch sử biến điểm yếu thường thấy của các nhà nghiên cứu văn học bình sử thành điểm mạnh và trở nên người hơn. Anh không tưởng tượng bằng thủ pháp văn chương mà anh dùng phương pháp phân tích tâm lý nhân vật một cách lão luyện để "đọc vị"" các nhân vật lịch sử. Nếu anh còn thời gian, anh sẽ có thể tạo ra một trường phái kể sử của Trần Ngọc Vương, thoát được tính phi nhân và hủ nho của các sử gia cổ điển Việt Nam. 

           Đương nhiên với phong cách đó, chân dung các nhà văn cổ điển Việt Nam sẽ rất hay mà tôi mới chỉ có thể kiểm nghiệm qua bài anh viết về Phan Sào Nam. 

         Nói chung bộ sách "Thực thể Việt" nếu viết riêng cho tôi, thì không cần thiết phải dày như vậy. Nó sẽ bớt dàn trải, cô đọng và kích thích tập trung suy nghĩ hơn. Nói chung những người thích suy nghĩ sẽ thấy đây là một món quà tinh thần để nhấm nháp dần và đọc nhiều lần. Mỗi lần đọc sẽ thấy một giác độ, ánh sáng mới. Giống như kim cương vậy.

https://www.facebook.com/gianinh.tran.3/posts/pfbid02do46cdyYZMcniVYKsGo5LBZ3QXtRiU1vJZWb69q4ibX4QkWRLwoCibiohZjtCY2jl?__cft__[0]=AZVDUJ-xreZ11Jssajul-AhiRrRu_eQ0UbUKWffKxz1L_TKSGlM4Z8GjzsB1OK0GSWdUdqtn9edMCQpbZaOATiKL_gqypoPZTOLVExacl3280CCxaheZ_aoZ-_xhVx_hdfTt_kGcBO1jDj85eji_RxMNuzWufnPEZVZHOkt0eJ2qtw&__tn__=%2CO%2CP-R

MỘT CUỘC GIỚI THIỆU SÁCH ĐỘC ĐÁO

Quyển sách cũng rất độc đáo ngay từ cái tên “ THỰC THỂ VIỆT NHÌN TỪ CÁC TOẠ ĐỘ CHỮ”, gồm hai tập hơn 1000 trang. Nó cũng được phát hành một cách đặc biệt : KHÔNG BÁN. chỉ dành cho những ai đáng đọc và có thể đọc được, theo một tiêu chuẩn đặc biệt ( không tiết lộ ở đây !). Tác giả cũng là một học giả nổi tiếng trong và ngoài nước, và cũng rất chi là đặc biệt…. ngang tàng. Giáo sư Tiến sĩ TRẦN NGỌC VƯƠNG, ( Vuong Tran Ngọc )của ĐHQG HN, trường ĐH KHXH&NV. Đơn vị tổ chức giới thiệu sách cũng đặc biệt  : Viên phát triển công nghệ mới thuộc VUSTA, phối hợp với Tập đoàn dược phẩm Phúc Thái An  thực hiện tại 23 Nguyễn Du, hôm nay. Và đối tượng để giới thiệu sách cũng rất không bình thường : chủ yếu là các học giả, nghệ sĩ và nhà khoa học có tên tuổi . Mỗ là  ngoại  lệ được gửi sách và được mời, và ….cũng đặc biệt là được mời mở đầu buổi giới thiệu bằng một bài phải biểu đề dẫn. Lạ chưa ! Đây là mấy dòng mở đầu lời phát biểu của  Mỗ:

“ Xin chào quý vị hoc giả,  các vị khách quý cùng    các bạn đồng nghiệp.

Xin cảm ơn BTC đã mời tôi phát biểu, chắc có lẽ tôi thuộc hàng tóc bạc  nhất ở đây nên mới được có vinh dự này

Đặc biệt hôm nay là phát biểu ý kiến của mình về những công trình của GS Trần Ngoc  Vương, một nhà khoa học lớn uyên thâm, hiếm có đời nay. Xin nồng nhiệt chúc mùng gs TN Vương . Vương chân nhân, như chúng tôi thường vui gọi, người về tuổi tác là bậc em tôi, nhưng về tài năng là bậc thầy của tôi, nên không khỏi làm tôi lúng túng. Các bạn đều biết, về chuyên môn , với Khxh và nv thì tôi là kẻ ngoại đạo, lẽ ra chỉ nên lót dép để hóng chuyện thôi mới phải. Dù tôi có tập toẹ viết lách, nhưng chỉ là nghiệp dư. Hơn nữa, vì đã có lúc vô lễ , dám nhận xét rằng  nước ta hiện nay không có khxh đúng nghĩa khoa học. Thực ra tôi làm về kh chính xác nhưng duyên phận run rủi cũng đã có nhiều liên hệ , sự kiên va chạm buồn vui với nhiều lãnh đạo cao cấp, nhiều học giả nổi tiếng của  khxh và đọc khá nhiều trước tác của họ. Nhưng khi đọc được nhiều bài viết của GS Vương   ngày trước và nay đọc trong bộ sách này thì xấu hổ mà nói răng. mình đã hồ đồ ngộ nhận để chê bai. Thực ra , Khxh Việt Nam vẫn còn có những trước tác đúng là Khoa học.

Vì sao có lần tôi lỡ lời chê , thậm chí là đề nghị chuyển một số đơn vị sang sáp nhập  cùng Viên HLKhCN thành một Viện HLKH duy nhất, phần còn lại nên sáp nhập vào Học viện chính trị quốc gia,  là bởi vì đa phần những điều tôi đọc được, hiểu được về khxh Việt Nam là những trước tác cung đình, mà đã là cung đình thì khó mà khách quan, trung thực Mà thiếu khách quan và trung thực , những tiêu chuẩn tối thiểu của khoa học thì sao gọi là khoa học đươc! ( Tất nhiên tôi hiểu những cái khó xử của khxh hiện tại,  không đơn giản như khtn chúng tôi )

Vì vậy , cái mà tôi khâm phục ở trước tác của GS Vương chính là sự khách quan, trung thực, vượt ra khỏi khuôn mẫu cung đình nói chung.

Trước tác của GS Vương quá đồ sộ, bao trùm nhiều lĩnh vực trong xã hôi, phải thú thật là tôi không thể đọc hết và hiểu hêt……..”

Đấy Mỗ đã mở đầu như vậy còn phần “thân bài” thì dài lòng thòng, không muốn làm mất thời giờ, nặng đầu của bạn đọc.

Và đây là kết luận:

“ Một lần nữa , chân thành chúc mừng ông bạn vong niên, GS Trần Ngọc Vương nhân dịp ra mắt vựng tập đồ sộ “ Thực thể Việt nhìn từ các toạ độ chữ”. Một công trình mà bất cứ người cầm bút nào cũng mong ước có được trong đời.”

(copy từ FB-Gia Ninh Trần)