Saturday, September 6, 2025
Câu chuyện onl tháng cô hồn/Rằm tháng 7
Wednesday, September 3, 2025
Thơ HUY PHƯƠNG
Em tôi
Thuở ấy miền Hương Ngự
Dịu dàng như một lá thư xanh
Một dòng sông xinh
Đôi bờ thông nhỏ
Có con đường ngát gió
Về Nam Giao bóng nắng chênh chênh.
Em tôi áo biếc hiền lành
Lòng vui bước rộn nhanh nhanh đường dài
Phấn thông tỏa xuống lưng đồi
Lòng em cùng với hương đồi lâng lâng
Em thích bóng trăng
Vờn trên trang sách ngỏ
Em thích nghe tiếng gió
Ngân dài trong đêm sương
Mùa qua dệt mộng bình thường
Lững lờ trong nhịp dòng Hương khoan hò.
Nhưng rồi có một mùa thu
Nắng không vàng xao xác
Súng nổ, đô thành tan tác
Máu hồng hoen ố đường xanh
Hướng về núi Ngự chênh chênh
Mịt mù khói tỏa, dập dềnh súng ngân
Em tôi cũng lên đường
Một sáng mùa thu ấy
Trong tiếng gọi mười phương
Cả đô thành bừng dậy hiên ngang.
Mẹ già đưa tiễn bên nương
Ngùi ngùi tóc trắng, vương vương lệ sầu
Em cười: “Năm bảy tháng sau
Con về với mẹ, có sao mẹ buồn?”
Nắng vàng ngả bóng nẻo thôn
Em đi, bước rộn trên đường vui vui.
Rồi từ đấy xa xôi
Em ra miền Bắc Việt
Trập trùng cao núi biếc
Ngàn ngạn dải sương xanh
Bốn mùa áo biếc hiền lành
Em vui gian khổ, vui tình núi sông
Em mơ một thuở phản công
Trở về Hương Ngự miền Trung với mẹ già
Với trang sách nhỏ đơn sơ
Chiều chiều có bóng trăng mờ nghiêng nghiêng.
Đêm nay gió lạnh mênh mang
Em tôi có nhớ nẻo đường chênh chênh
Một mùa thông ngát màu xanh
Mai sau cờ đỏ rung rinh sao vàng.
Hà Tĩnh, 4.1950
Tuesday, September 2, 2025
A 80: Nghĩ về chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi
Nhiều người cho rằng: yêu nước phải đồng nghĩa với tự hào dân tộc.
Với thế hệ HCM thì đúng vậy, từ những năm đầu của thời kỳ VNDCCH đến ngày 30 tháng Tư năm 1975, câu chuyện của những người buộc phải cầm súng để giành độc lập cho Tổ quốc rất rõ ràng*. Nhưng từ sau chiến tranh, vai trò của thế hệ này dần lu mờ vì thế hệ thoái hóa/biến chất đã thay đổi hoàn toàn mục đích của cuộc cm. Biến nó trở thành 1 vấn đề nhức nhối của dân tộc hàng chục năm qua.
Riêng tôi, từ kỳ vọng của 1 ngườ Việt vào đất nước, đến thất vọng hôm nay là 1 quá trình chuyển biến của niềm tin. Với ĐBP 1 & ĐBP2, ko hề phóng đại khi cho rằng: những chiến thắng này là những đài chiến thắng ''lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu'' vì vào thời điểm đó, kẻ thù so với VN là những kẻ khổng lồ hơn hẳn về mọi mặt, chỉ trừ tinh thần ngoan cường bền bỉ vì yêu nước của người Việt.
Tuy nhiên, sau chiến thắng thì thử thách thật sự mới là ngọn lửa thử vàng, về con ngườ và bản chất của dân tộc: thực lực của chúng ta trong sự nghiệp phát triển ntn?
Con đường phát triển tiến lên CNXH trong những năm 60s vô cùng xán lạn với khối XHCN đứng đầu là LX. Nhưng rồi tất cả đều tiêu tan khi LX sụp đổ. Chúng ta đã tự hào với cuộc chiến sau khi quật ngã 2 đế quốc to, nhưng bước vào thời kỳ xây dựng với muôn vàn trắc trở, trong đó có nguyên nhân tự sinh trong chính đội ngũ của ''bên thắng cuộc''.
Nếu nói đến kỳ tích chống ngoại xâm thì hầu như đến đâu ta cũng có thể thấy, rõ nhất là những tượng đài vĩ đại của LX sau Thế Chiến 2. Còn trở thàng rồng, thành cọp trong xây dựng & phát triển là 1 câu chuyện khác.
P. Doumer trong cuốn ''Xứ Đông Dương'' đã coi người Việt có những tố chất vượt trội so với các dân tộc khác ở ĐNA và chỉ có thể so sánh với người Nhật ở châu Á. Đến nay, Nhật Bản đã thành 1 trong những quốc gia hàng đầu châu Á, còn Singapore, tuy ko có ''rừng vàng, biển bạc'' cũng đã vượt qua VN để thành con hổ hàng đầu ĐNA và còn là 1 trong những quốc gia phồn thịnh nhất trên thế giới trên con đường phát triển bền vững.
Điều gì cản trở chúng ta?
Do con đường đã chọn hay vì chúng ta tự kìm hãm dân tộc vì những khuyết tật của mình?
(*): Tướng Marcel Bigeard - Cựu bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Pháp viết:
“Tôi đã thấy họ khởi đầu từ những khẩu súng bất kỳ như súng săn và sau đó, tháng này qua tháng khác, họ được tổ chức thành những nhóm nhỏ, rồi từ các nhóm nhỏ thành trung đội, từ các trung đội lên đại đội, từ đại đội lên tiểu đoàn và lữ đoàn và cuối cùng là thành các sư đoàn đủ quân. Tôi đã thấy tất cả những điều này và tôi có thể nói với các vị rằng họ đã trở thành những người lính bộ binh vĩ đại nhất trên thế giới. Những người lính dẻo dai này có thể đi bộ 50 km trong đêm tối bằng sức của một bát cơm, trên những đôi giày ba-ta và hát vang trên đường ra trận. Theo quan điểm của tôi, họ đã trở thành những người lính bộ binh ngoại hạng và họ đã đánh bại được chúng ta”
Huy Phương – Con người nồng nhiệt
NAV: Trong cuốn Tự kể, nói đến chuyện cha tôi thuộc lòng nhiều thơ, tôi viết: “Cha tôi mê thơ. Một lần nhắc đến Huế, ông đọc ngay bài thơ có khung cảnh Huế, rồi bảo tôi giở sổ ra nghe ông đọc tại chỗ mà chép lại: Thuở ấy miền Hương Ngự / Dịu dàng như một lá thư xanh / Một dòng sông xinh / Đôi bờ thông nhỏ / Có con đường ngát gió / Về Nam Giao bóng nắng chênh chênh / Em tôi áo biếc hiền lành / Lòng vui bước rộn nhanh nhanh đường dài…”
Năm 1988, chú Huy Phương vào thư viện Hội Nhà văn, kể với chị Bích Hà rằng chú vừa đọc tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng và thích. Chị Hà nói, Thái là em cháu, chú bèn bảo chị Hà nhắn tôi đến gặp cho biết mặt và chuyện trò cho vui. Thế là tôi gặp chú lần đầu, cũng trong thư viện hội ở 65 Nguyễn Du. Tôi kể với chú rằng từ bé tôi đã được cha tôi đọc cho nghe bài Em tôi.
Chú Huy Phương cười có vẻ rất thú vị: Ồ, bài ấy của một thời rồi, chú viết cho cô em gái là Thanh Hương đấy mà. Cô Thanh Hương nhà văn, vợ nhà văn Vũ Tú Nam, cũng mãi về sau này tôi mới gặp. Nhân vật cô em gái “em tôi áo biếc hiền lành” khi tôi gặp đã là một bà ngoài bảy chục tuổi. Dịp ấy hội Nhà văn Hà Nội chúng tôi tổ chức trại sáng tác, cô Thanh Hương tham gia, tôi có ngồi cùng cô một chuyến xe từ Tam Đảo về Hà Nội. Và tôi lại nhắc với cô về việc cha tôi thuộc lòng bài Em tôi. Hình như bài thơ ấy chỉ in đâu đó có một lần thời kháng Pháp rồi thôi. Chất lãng mạn của nó, dù là lãng mạn cách mạng, cũng không được khích lệ trong thời chiến cũng như thời xây dựng sau này.
Đến năm 2014, trong Tuyển tập Huy Phương, NXB Văn Học, bài thơ Em tôi được in lại chính thức sau hàng thập kỷ chỉ được truyền miệng và lưu giữ trong trí nhớ của nhiều thế hệ. Tôi nhìn thấy bài thơ mà như gặp lại người quen cũ. Nhìn thấy bài thơ như gặp lại chú Huy Phương, dù chú đã ra đi từ năm 2009. Thơ Huy Phương từ thời kháng Pháp và những năm đầu hòa bình trên miền Bắc đã rất hiện đại, có khi là thơ bậc thang mới mẻ và khỏe khoắn. Vì nhiều lẽ, sau này Huy Phương ít làm thơ mà tập trung vào văn xuôi.
Tuyển tập Huy Phương tập hợp những tác phẩm quan trọng nhất của một tác giả. 36 bài thơ, 9 tiểu luận, 6 bài ký, 8 truyện ngắn, 3 truyện vừa và một tiểu thuyết là cuốn Xi măng. Huy Phương không phải là người viết nhiều, và khi tôi biết chú thì thấy chú viết không nhanh. Một truyện ngắn như Căn phòng lạnh giá hay Sa mạc, chú viết rất cẩn thận, tỉ mỉ, ngôn từ chính xác và tinh tế, không bao giờ là viết vội. Huy Phương còn kể với tôi về ý tưởng hình thành hai cái truyện ngắn ấy mà tôi cho là hay nhất trong các truyện ngắn của chú.
Ở đầu tuyển tập có bài Thế giới của Huy Phương, do con trai nhà văn là anh Nguyễn Ái Việt viết. Bài viết kể lại những giai thoại, những kỷ niệm xúc động của Huy Phương với bạn bè văn nghệ sĩ. Chẳng hạn chuyện Huy Phương và nhà thơ Trần Hữu Thung là bạn thân, thân đến mức khi về làm việc ở Hà Nội, hai người vẫn tiêu tiền chung. Nhuận bút tập thơ Gió Nam của Trần Hữu Thung được dành để mua sữa cho con trai Huy Phương. Còn nhuận bút tập Những ngôi sao đỏ của Huy Phương là để cho Trần Hữu Thung cưới vợ.
Thời kỳ văn chương của Huy Phương sung sức nhất, sự nghiệp văn chương của ông có một mảng rất quan trọng là dịch văn chương. Giỏi ngoại ngữ, văn tiếng Việt của ông lại hay, Huy Phương đã cho ra những bản dịch khiến người đọc say mê một thời như Ông già và biển cả của Hemingway, Những con đường đói khát của Jorge Amado, Gieo mầm của Emile Zola. Sau này có thêm nhiều bản dịch khác, nhưng bản Ông già và biển cả do Huy Phương dịch đến bây giờ vẫn được coi là bản hay nhất.
Lần đầu chú Huy Phương nhắn tôi đến gặp để nói rằng chú thích cuốn tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng, đúng vào lúc tôi đang chịu đôi chút vướng mắc ở cơ quan vì có một ông sếp khó chịu với cuốn này và muốn xử lý tác giả. Rất may đấy là khi bắt đầu công cuộc đổi mới nên người ta không còn dám tự tiện ra tay vùi dập. Rất may là tôi có những người ủng hộ nhiệt tình như chú Huy Phương, như chú Xuân Thiều, nhà văn Trần Thanh Giao, nhà thơ Vân Long, Vũ Đình Minh… Mọi người đã viết bài phân tích đánh giá cuốn sách trên các tờ báo sôi sục không khí đổi mới lúc bấy giờ. Chú Huy Phương và mọi người cũng ủng hộ nhiệt thành và bỏ phiếu thuận để cuốn sách được giải thưởng 1986-1990 của Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng công đoàn Việt Nam. Huy Phương là người quyết liệt bảo vệ điều gì mà mình tin yêu.
Mấy năm sau, chú Huy Phương chuyển vào Sài Gòn. Tôi có việc vào Sài Gòn đều đến thăm chú. Lần đầu, gọi điện thoại trước để hỏi địa chỉ, vẫn nghe tiếng cười sảng khoái trên đường dây, chỉ vẽ tỉ mỉ đường đi vào trong ngõ. Chú còn ra tận đầu ngõ để đón. Tôi kể mới đây có dịp vào Cửa Lò ở Nghệ An, đến đấy thì nhớ đấy là quê chú, đầu óc cứ vẩn vơ ngày xưa anh thanh niên Huy Phương (sinh năm 1926) đã qua lại trên bãi biển này như thế nào. Đến Hội An lại nhớ Huy Phương kể đây là quê mẹ của chú. Gặp Huy Phương, vẫn là chuyện trò sôi nổi không dứt về văn chương về thế sự. Nhiều chuyện thế sự được Huy Phương chuyển hóa thành tiểu luận rất thấm thía. Một già một trẻ, một lão làng văn chương và một người mới bước vào làng văn, thế mà chú chuyện trò cứ như người ngang hàng và tỏ ra rất mực trân trọng. Điều đó khiến cho tôi mỗi lần sửa soạn đến thăm chú là một lần lại thấy thoải mái và hào hứng.
Hà Nội, 11.2.2015
HỒ ANH THÁI