Monday, November 10, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (01)

Ngày Độc lập của Israel là 1 trong những ngày lễ lớn nhất của quốc gia này, trong khi với người Palestin và các quốc gia Ả Rập, thì đây là ngày tang thương.

Việc hòa giải 2 dân tộc là vấn đề ko đơn giản!

------------

Phần mở đầu

Mong ước của người Do Thái nhằm quay trở lại nơi mà họ coi là Tổ quốc theo đúng quyền lợi của họ đã được thể hiện lần đầu tiên trong thời gian chiếm đóng của người Babylon sau năm 597. Nó đã trở thành một đề tài chính của người Do Thái từ sau những cuộc chiến tranh Do Thái-La Mã, dẫn tới việc phá huỷ Jerusalem của người La Mã năm 70, và việc trục xuất người Do Thái sau đó. Cộng đồng người Do Thái và những người còn ở lại tiếp tục coi vùng đất đó là quê hương tinh thần và miền đất hứa của họ; không hề có bằng chứng về bất cứ một sự gián đoạn nào trong sự hiện hiện của người Do Thái tại vùng đất đó trong hơn ba nghìn năm qua. Trong nhiều thế hệ, chủ đề chính đa phần mang tính chất tôn giáo dựa trên lòng tin về việc người Do Thái sẽ quay trở lại Zion với sự xuất hiện của Messiah, tức là, chỉ sau khi có sự can thiệp của thần thánh; một số đã đề xuất hay cố gắng quay trở lại sớm hơn, nhưng họ chỉ là thiểu số.

Tuy nhiên, từ thời Holocaust, chủ nghĩa Do Thái đã lấn át trong những người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (Zionist). Hiện hay, tất cả những người theo phái Cải cách, Bảo thủ và Chính thống đều là người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái; và thậm chí những người Do Thái Haredi đã thay đổi từ chống Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (chống đối tích cực Chủ nghĩa phục quốc Do Thái) thành không theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (giữ thái độ trung lập với Chủ nghĩa phục quốc Do Thái.) Những phong trào không theo Phục quốc Do Thái hiện nay rất hiếm thấy.

Tới giữa thế kỷ 19, Lãnh thổ Israel từng là một phần của Đế chế Ottoman với đa số dân Hồi giáo và Ả rập theo Thiên chúa giáo sinh sống, cũng như người Do Thái, Hy Lạp, Druze, Bedouin và các dân tộc thiểu số khác.

Tới năm 1844, người Do Thái là nhóm người đông đảo nhất (và tới năm 1890 trở thành đa số tuyệt đối) ở một số thành phố, nhất là tại Jerusalem. Hơn nữa, ngoài những cộng đồng tôn giáo truyền thống Do Thái đó, được gọi là Old Yishuv, ở nửa sau thế kỷ 19 xuất hiện một hình thức nhập cư Do Thái mới, đa số là những người cánh tả theo chủ nghĩa xã hội với mục tiêu đòi lại đất đai bằng cách lao động trên đó.

Tuyên bố Balfour năm 1917 xác nhận rằng Chính phủ Anh Quốc "nhìn nhận với sự ưu tiên việc thành lập tại Palestin một nhà nước quê hương cho người Do Thái"..."nó được hiểu rõ ràng rằng không hành động nào có thể được thực hiện nếu nó có thể làm tổn hại cho các quyền dân sự và tôn giáo của các cộng đồng không phải Do Thái đang sinh sống ở Palestin". Tuyên bố này được một số nước ủng hộ, gồm cả Hoa Kỳ và ngày càng trở nên quan trọng hơn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất khi Liên đoàn quốc gia giao cho Anh Quốc quyền ủy trị Palestin.

Vào những năm 1920, việc nhập cư của những người Do thái diễn ra khá chậm chạp. Những biến động chính trị gây ra bởi sự khủng bố của Đức Quốc xã tại châu Âu đã làm gia tăng nhanh chóng làn sóng nhập cư vào những năm 1930, cho đến khi Anh Quốc ban hành lệnh phong tỏa vào năm 1939. Chứng kiến sự tàn sát người Do thái của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cộng đồng quốc tế đã nỗ lực giúp đỡ người Do thái thoát khỏi sự phong tỏa của Anh Quốc để định cư tại Jerusalem.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh Quốc đã bày tỏ ý định muốn rút chân ra khỏi Palestin vốn đang được đặt dưới sự ủy trị của mình. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đề xuất việc chia cắt Palestin ra là hai nhà nước, Ả Rập và Do Thái cùng với khu vực Jerusalem được đặt dưới sự kiểm soát của Liên hiệp quốc.

Cuộc di cư của người Do Thái tăng dần từ thập niên 1920; về căn bản cuộc di cư này tăng chủ yếu trong thập niên 1930, vì sự bất ổn chính trị tại châu Âu với cuộc diệt chủng người Do Thái của Phát xít Đức đang diễn ra ở thời điểm đó, tới khi những biện pháp hạn chế được Anh Quốc đưa ra năm 1939. Cùng với sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ hai và sự hầu như tuyệt chủng của người Do Thái tại châu Âu với nguyên nhân từ Phát xít Đức, sự ủng hộ quốc tế cho những người Do Thái đang tìm kiếm nơi định cư tại Palestin khiến các nỗ lực của Anh nhằm ngăn chặn làn sóng này không còn kết quả.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Anh đã thông báo ý định rút lui khỏi lãnh thổ ủy trị Palestin của mình. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đề xuất việc phân chia Palestin thành hai nhà nước, một nhà nước Ả rập và một nhà nước Do Thái, với Jerusalem sẽ thuộc quyền quản lý của Liên hiệp quốc. Đa số người Do Thái tại Palestin chấp nhận đề xuất này, trong khi đa số người Ả rập tại Palestin phản đối nó. Người Ả rập hoàn toàn bác bỏ ý tưởng về một nhà nước Do Thái tại Palestin (tuy nhiên, họ không bị một ràng buộc pháp lý nào với việc chấp nhận kế hoạch bởi các nghị quyết của Đại hội đồng không mang tính bắt buộc).

Bạo lực giữa cộng đồng Ả rập và Do thái nổ ra hầu như ngay lập tức sau đó. Tới cuối thời kỳ ủy trị của Anh, người Do Thái dự định tuyên bố thành lập một nhà nước riêng rẽ, một động thái mà người Ả rập quyết tâm ngăn chặn. Ngày 14 tháng 5 năm 1948, những lực lượng Anh cuối cùng rời khỏi Palestin, và người Do Thái, dưới sự chỉ đạo của David Ben Gurion, đã tuyên bố thành lập Nhà nước Israel, theo Kế hoạch phân chia.

(còn nữa)

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Israel 

Hình ảnh: Quốc kỳ Israel (Chọn từ net)

Được mất 1 đời

 Đừng kết hôn với ai đó chỉ vì "tiềm năng"

Trong "Một đời được mất", Vãn Tình có một lời khuyên rất thấm thía về hôn nhân: Đừng mong chờ con người sẽ vì tình yêu mà thay đổi tâm tính. Bạn kết hôn với ai thì hãy kết hôn với chính con người hiện tại của người đó, chứ không phải vì phiên bản mà bạn hy vọng họ sẽ trở thành. 

Thế nên khi thấy điều gì đó không ổn thì hãy sớm buông tay. Từ bỏ một cuộc tình tồi tệ, từ bỏ một người không xứng đáng thì chẳng có gì đáng tiếc, ngược lại, bạn phải thấy may mắn vì đã có cơ hội rời đi kịp thời, nhờ vậy sau này bạn mới gặp được người tốt hơn.

Có một sự thật phũ phàng: khi kết hôn, vì kiến thức và tầm nhìn của bản thân có hạn, bạn khó nhận biết đâu là người thực sự tốt. Nếu hai người đã tương đương nhau ở thời điểm cưới, thì điều bạn chưa làm được, anh ấy cũng khó mà làm được. Ký thác kỳ vọng lên “phiên bản chưa tồn tại” của anh ấy chẳng khác nào đặt cược cả đời vào một ảo tưởng.

Phụ nữ thông minh chưa chắc đã gặp được người đàn ông hoàn hảo, nhưng chắc chắn họ sẽ không làm khổ mình bằng cách chấp nhận cả đời ở bên một người khiến cuộc sống tồi tệ hơn. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc không được xây trên tiềm năng, mà trên thực tế: anh ấy là ai, đang sống thế nào, đối xử với bạn ra sao - ngay lúc này.

Hãy nhớ, tiềm năng thì ai cũng có. Vấn đề là, không phải ai cũng biến tiềm năng thành hiện thực. Và bạn không thể đánh đổi tuổi trẻ, cơ hội, hay cả hạnh phúc của mình để chờ một người… biết đâu sẽ thay đổi.

Những gì em không chịu được trong khi yêu nhau, thì khi kết hôn sẽ còn tăng lên mấy lần. Vậy nên đừng kết hôn vì "tiềm năng".

Bloom Văn học và Nghệ thuật

Sunday, November 9, 2025

Tuổi 70: Những khám phá được đúc kết từ "Super Agers"

Bác sĩ tim mạch U80 trẻ hơn 13 tuổi nhờ 5 thói quen

Ở tuổi 71, bác sĩ Eric Topol có "tuổi tim" trẻ hơn 13 tuổi, nhờ áp dụng những thói quen mà ông tin rằng có thể giúp mọi người kéo dài 10-20 năm sống khỏe mạnh.

Bác sĩ Eric Topol. Ảnh: Dan Tuffs

Tại nhà riêng ở California, bác sĩ Topol khoe một bức ảnh trên điện thoại. Đó là dữ liệu từ chiếc nhẫn Oura, một thiết bị theo dõi giấc ngủ và sức khỏe, cho thấy tuổi tim của ông trẻ hơn 13 tuổi so với tuổi thật 71. "Thật tuyệt khi thấy điều đó", ông nói. "Mọi công sức đều được đền đáp. Tôi không cố gắng để trở thành một vận động viên thể hình, chỉ muốn sống và già đi một cách khỏe mạnh".

Mỗi ngày, ông dành một giờ cho các bài tập kết hợp sức mạnh, tim mạch và vùng cơ lõi. Ông tập với tạ, deadlifts và nhảy dây – một kỹ năng mà ông cũng phải kiên trì luyện tập từ những lần vấp ngã đầu tiên. "Một nghiên cứu trong sách cho thấy chỉ một giờ tập luyện kháng lực mỗi tuần đã làm giảm 25% nguy cơ tử vong", bác sĩ chia sẻ.

Song song đó, chế độ ăn của ông tuân thủ nguyên tắc khoa học, gồm một thực đơn Địa Trung Hải chủ yếu dựa trên thực vật, với nhiều dầu ô liu, các loại hạt, rau quả, cá và đậu. Suốt 45 năm qua, ông không tiêu thụ thịt đỏ.

Bài học sâu sắc nhất Topol nhận ra lại đến từ thời điểm khó khăn của cả thế giới. "Mãi đến khi đại dịch xảy ra, tôi mới nhận ra các mối quan hệ xã hội quan trọng như thế nào", ông bày tỏ. Sự cô đơn và cách ly xã hội, theo nhiều bằng chứng thuyết phục, gây hại cho sức khỏe không kém gì các yếu tố thể chất.

Kể từ đó, ông đã nỗ lực một cách có ý thức để vun đắp các mối quan hệ. Topol không phản đối việc thưởng thức một ly rượu vang cùng người thân, bởi ông tin rằng lợi ích từ những khoảnh khắc giao tiếp xã hội vui vẻ có thể vượt qua nguy cơ nếu tiêu thụ ở mức độ chừng mực. "Những giây phút vui vẻ bên người thân rất quan trọng, tôi không nghĩ phải bỏ hẳn rượu bia thì mới sống khỏe khi về già", bác sĩ nói.

Cuối cùng, bí quyết của Topol không chỉ nằm trong phòng gym hay trên bàn ăn, mà còn ở ngoài trời. "Chúng ta dành quá ít thời gian để hòa mình với thiên nhiên", ông trăn trở. Lợi ích của việc này đã được chứng minh rộng rãi như giúp hạ huyết áp, ngủ ngon hơn, giảm nguy cơ bệnh tim mạch và cải thiện sức khỏe tinh thần.

"Thế nên, nếu bạn muốn 'một công ba việc' để chống lão hóa", vị bác sĩ đúc kết. "Hãy đi dạo cùng một người bạn giữa thiên nhiên. Bạn sẽ được tập thể dục, được giao lưu xã hội và còn được hưởng những lợi ích từ thiên nhiên".

Bình Minh (Theo The Telegraph)

Saturday, November 8, 2025

Meet Nghĩa @ Thảo Điền: Tọa đàm về nhiều đề tài lý thú

 

Món đùi cừu nướng là đặc sản của nhà hàng


Đặc sản cừu nướng và rượu ngon là cái nền tuyệt vời của buổi tọa đàm hôm nay

Vấn đề đặt ra rất nghiêm túc


Đầu đề của 6000 cái ấy

Thursday, November 6, 2025

Những lý do máy tính bị chậm và cách khắc phục

 Máy tính chạy chậm là vấn đề nhiều người gặp phải, nhưng hoàn toàn có thể khắc phục nếu biết đúng nguyên nhân và cách xử lý phù hợp.

Thiếu RAM

RAM là bộ nhớ tạm giúp máy xử lý các tác vụ khi đang hoạt động. Nếu máy chỉ có 2–4GB RAM, việc mở nhiều phần mềm hoặc trình duyệt với nhiều tab sẽ khiến máy chậm đi rõ rệt.

Cách khắc phục:

Nâng cấp RAM lên tối thiểu 8GB nếu có thể.

Đóng bớt phần mềm không cần thiết.


Ổ cứng HDD quá chậm hoặc đã xuống cấp

Ổ cứng HDD sử dụng cơ chế quay đĩa, tốc độ truy xuất dữ liệu chậm và dễ bị phân mảnh sau thời gian dài sử dụng, khiến máy tính mất nhiều thời gian để mở tệp tin hay khởi động.

Cách khắc phục:

Nâng cấp lên ổ SSD, tốc độ nhanh gấp nhiều lần HDD.

Nếu vẫn dùng HDD, nên chống phân mảnh định kỳ bằng công cụ tích hợp trong Windows.


Máy tính nhiễm virus hoặc phần mềm độc hại

Virus, phần mềm quảng cáo hoặc mã độc có thể chạy ngầm và chiếm tài nguyên hệ thống, làm chậm máy và gây lỗi bất thường.

Cách khắc phục:

Cài đặt phần mềm diệt virus uy tín.

Quét virus thường xuyên.

Tránh tải phần mềm hoặc nhấp vào link không rõ nguồn gốc.


Có quá nhiều phần mềm chạy nền

Một số phần mềm như Skype, Zalo, Zoom… tự động khởi động khi bật máy, gây tốn tài nguyên.

Cách khắc phục:

Vào Task Manager > Startup, tắt bớt các chương trình không cần thiết.

Gỡ các phần mềm không dùng đến trong Control Panel > Programs and Features.


Máy quá nóng khiến hiệu suất giảm

Nhiệt độ cao làm CPU tự động giảm xung nhịp để bảo vệ phần cứng, khiến máy chậm lại. Nguyên nhân có thể do bụi bẩn bám vào quạt tản nhiệt hoặc keo tản nhiệt khô.

Cách khắc phục:

Vệ sinh máy định kỳ (nhất là laptop sau 1–2 năm sử dụng).

Đặt máy nơi thoáng mát, tránh bịt lỗ thông gió.

Thay keo tản nhiệt nếu máy đã quá nóng.


Ổ đĩa hệ thống (thường là ổ C) bị đầy

Khi ổ C gần đầy, Windows không đủ không gian tạm để hoạt động, làm máy chạy chậm hoặc dễ bị treo.

Cách khắc phục:

Xóa file rác, dọn thùng rác.

Dùng công cụ Disk Cleanup hoặc phần mềm như CCleaner.

Di chuyển dữ liệu sang ổ khác hoặc lưu trữ lên cloud.


Hệ điều hành và phần mềm lỗi thời

Hệ điều hành và phần mềm cũ có thể chứa lỗi, không tương thích với máy, gây ra sự cố hoặc làm giảm hiệu suất.

Cách khắc phục:

Cập nhật Windows và phần mềm thường xuyên.

Bật tự động cập nhật trong Windows Update.


Driver thiết bị chưa được cập nhật

Driver cũ hoặc bị lỗi có thể gây xung đột phần mềm, làm máy hoạt động không ổn định.

Cách khắc phục:

Cập nhật driver từ trang chính thức của hãng (Intel, AMD, NVIDIA…).

Hoặc sử dụng phần mềm hỗ trợ như Driver Booster, Snappy Driver.


Phần cứng đã cũ, yếu hoặc xuống cấp

Nếu máy quá cũ (trên 5–7 năm), CPU hoặc card đồ họa có thể không đủ mạnh cho các phần mềm hiện đại.

Cách khắc phục:

Nâng cấp phần cứng như RAM, ổ SSD.

Với máy quá cũ, hãy cân nhắc thay máy mới phù hợp với nhu cầu.

THIỆN NHÂN (T/H) - Lao Động onl

Tuesday, November 4, 2025

Trong dòng chảy AI

 CẢNH BÁO VỀ SỰ TRÀN LAN AI VÀ NHỮNG CÁI BẪY 

Tôi vẫn nhớ như in cái ngày đầu những năm cuối 1990s, khi nghe thấy âm thanh “rè rè” đặc trưng của chiếc modem đang kết nối Internet. Âm thanh ấy với thế hệ chúng tôi là biểu tượng của hy vọng và nỗ lực. Để tìm được một mẩu thông tin, chúng tôi phải học cách gõ những dòng lệnh, phải kiên nhẫn chờ đợi, phải tự tay lật qua hàng chục trang “rác” để tìm được một “viên ngọc” tri thức. Quá trình đó tuy mệt, nhưng rèn cho chúng tôi lòng kiên nhẫn, óc phân định và thói quen tự học.

Tri thức khi được chắt lọc từ gian khó thì sẽ thấm sâu vào máu.

Một cuộc cách mạng còn lớn hơn đang đến

Gần ba mươi năm sau, chúng ta đang đứng trước một cuộc cách mạng còn vĩ đại hơn: Trí tuệ nhân tạo - AI.

Tại Việt Nam, AI đang dấy lên như một “cơn sốt tiện lợi”. Học sinh, sinh viên dùng ChatGPT để viết luận văn trong vài phút. Dân văn phòng dùng AI để viết báo cáo, lập kế hoạch. Giới sáng tạo dùng Midjourney để “vẽ” hàng trăm bức tranh trong một giờ. Ai cũng hào hứng khoe kết quả. Ai cũng thán phục vì mình “làm được nhiều đến thế”.

Nhưng trong dòng chảy cuồn cuộn đó, tôi lo.

Tôi lo không phải vì AI quá mạnh, mà vì chúng ta đang trở nên hời hợt đến yếu đuối. Chúng ta đang say mê với “thành phẩm”, mà quên mất “quá trình”.

Chúng ta đang học cách ra lệnh (prompting) mà không học cách đặt câu hỏi (questioning).

Chúng ta đang sử dụng AI như một cỗ máy bán câu trả lời, thay vì như một người bạn để đồng tư duy.

Trên cương vị là một người làm công nghệ, và hơn hết là một người đã từng sống trong bóng tối để suy ngẫm sâu sắc về tự do và ánh sáng, tôi buộc phải lên tiếng. Nếu không, có lẽ đến lúc ta nhận ra thì đã quá muộn.

Ba tác hại nghiêm trọng nhất của việc lạm dụng AI

1. Sự xói mòn tư duy phản biện

Điều nguy hiểm nhất của AI tạo sinh không nằm ở việc nó trả lời sai, mà là nó trả lời quá trơn tru, quá hay ngay cả khi sai.

AI ngày nay khiến chúng ta bỏ qua giai đoạn vật lộn với vấn đề – vốn là thứ quan trọng nhất để hình thành tư duy. Nó không chỉ đưa ta con cá, mà còn nấu chín cá sẵn cho ta.

Một nghiên cứu của College Board (Mỹ) cho thấy: 87% giáo viên lo ngại rằng sinh viên sẽ mất khả năng tư duy phản biện nếu phụ thuộc vào AI. Trường IMD (Thụy Sĩ) cũng cảnh báo rằng: AI có thể bào mòn khả năng suy luận logic, tính sáng tạo và sự độc đáo.

Khi ta quen với việc có ngay câu trả lời sau một cú click, ta sẽ mất dần khả năng phân tích độc lập. Và từ người giải quyết vấn đề, ta thành kẻ sao chép thụ động.

2. Giảm sút trí nhớ và khả năng học tập

AI không chỉ trả lời thay bạn. Nó nhớ thay bạn.

Một nghiên cứu của MIT phát hiện: 83% người dùng AI không thể nhớ nổi đoạn văn họ vừa tạo bằng ChatGPT. Cấu trúc não bị “lười biếng”, khả năng liên kết thần kinh giảm gần một nửa.

Hiện tượng này được gọi là “giảm nhẹ nhận thức” (cognitive offloading) khi não người “khoán trắng” nhiệm vụ tư duy cho máy. Tệ hơn, tác động này không biến mất ngay cả sau khi ngừng sử dụng AI.

3. Khuếch đại thiên kiến và tạo ra buồng giam tư duy

AI học từ dữ liệu con người. Mà dữ liệu con người thì rất nhiều thiên kiến, sai sót, thậm chí độc hại. AI không có lương tri để tự lọc. Nó sẽ học và khuếch đại tất cả.

Tại Việt Nam, nếu phần lớn người dân dùng chung một vài mô hình AI phổ biến (đa phần được huấn luyện bằng dữ liệu tiếng Anh, mang thiên kiến phương Tây), chúng ta có nguy cơ bị nhốt trong một buồng giam tư duy khổng lồ. Những gì AI trả lời chỉ củng cố thêm định kiến sẵn có, khiến ta không còn khả năng mở rộng thế giới quan.

Chúng ta tưởng rằng mình đang tiếp cận tri thức nhân loại nhưng thực ra chỉ đang nhìn thế giới qua lăng kính mờ ảo của vài tập dữ liệu ngôn ngữ thống trị.

Tỉnh táo trước khi quá muộn

Tôi không chống AI. Ngược lại, tôi đang phát triển một dự án tích hợp AI với trí tuệ tự nhiên (DI - những Quy luật của vũ trụ), gọi là Ai+Di để AI trở thành công cụ khơi gợi chứ không thay thế ta suy nghĩ.

Nhưng trong lúc chờ các giải pháp như vậy chín muồi, tôi mong mỗi người Việt hãy:

 • Sử dụng AI điều độ: đừng để nó làm thay bạn. Hãy để nó gợi ý để bạn làm tốt hơn.

 • Rèn luyện phản biện: đừng tin ngay, hãy kiểm tra.

 • Tự hỏi lại: bạn đang dùng AI để tiết kiệm thời gian, hay để đánh đổi năng lực tư duy?

Một dân tộc có thể nghèo tài nguyên, thiếu vốn, thiếu công nghệ… nhưng nếu còn giữ được tinh thần độc lập tư duy, thì vẫn có thể đi lên. Nhưng một khi buông bỏ trí tuệ và phụ thuộc vào “cái dễ”, thì sẽ bị dẫn dắt và tụt hậu, không thể cứu vãn.

Đừng để sự tiến bộ về công cụ trở thành sự thoái lui về trí tuệ.

Đừng để sự tiện lợi công nghệ che khuất đi ánh sáng trong tâm trí mỗi con người.

Hãy sử dụng AI như một ngọn đèn, không phải như một cái buồng giam.

(copy từ FB-Trần Huỳnh Duy Thức)

Monday, November 3, 2025

TỈNH THỨC

DẤU HIỆU BẠN ĐANG TỈNH THỨC 

Nếu bạn có những dấu hiệu này, chúc mừng bạn sắp bước qua cánh cửa Cải Mệnh !! 

1. Bạn không còn thích tranh cãi

Bạn không phản ứng mạnh mẽ như trước đây, cũng không cần tức giận, la hét để bảo vệ cái tôi. Không còn thích hơn thua với người Bạn dần bình tĩnh hơn, thích sự nhẹ nhàng, an yên. 

2. Bạn tập trung vào chính mình 

Thay vì cố gắng thay đổi ai đó ... Bạn hiểu mỗi người đều có nghiệp, có tần số, những bài học và số mệnh riêng, nên tôn trọng hành trình mỗi người. Càng cố ép chỉ càng làm mệt mỏi cả hai. 

3. Bạn nhận ra mọi mối quan hệ đều do duyên khởi diệt. 

Mỗi người đến với mình đều có những bài học. Nên không cần cố tìm, cũng chẳng buồn khi ai đó rời đi. Ai thuộc về ta, họ sẽ tự ở lại. 

4. Bạn không còn muốn giải thích quá nhiều với người không muốn hiểu. 

Bạn tĩnh lặng hơn. Bạn cũng thấy mình sâu sắc hơn, ngộ ra nhiều bài học hơn. Không cãi lý với người đang tức giận. Cũng không cần hơn thua với ai. 

5. Bạn sống bình an hơn 

Những chuyện làm cho bạn hoảng loạn, lo sợ, hay nổi nóng trước đây... biến mất. Tâm bạn bình an hơn, đón nhận mọi điều nhẹ nhàng bình an hơn. Thấy biết ơn, không còn thấy thiếu thốn, sợ hãi. Không còn bị cảm xúc chi phối. 

6. Bạn không so sánh mình với người khác. 

Cây tùng không cần ganh tị với hoa sen - vì mỗi người có một mùa nở khác nhau. Không nói xấu người khác - kể cả trong suy nghĩ. Điều đó phản ánh chính bạn nhiều hơn là họ. 

7. Bạn nhận ra khi tỉnh thức, không phải là tha thứ cho người khác, mà là cho chính mình. 

Vì họ chịu trách nhiệm với toàn bộ mọi sự đến với mình, với cảm xúc của mình. Khi này họ không còn đóng vai nạn nhận nữa. Tha thứ là đang giải thoát cho chính mình chứ không phải là cho người khác. 

8. Chăm sóc sức khỏe. 

Yêu bản thân đúng cách. Vì ta sẽ không làm được gì nếu cả thân và tâm đều mệt mỏi. Giữ chỗ yên tĩnh trong tim. Để khi mỏi mệt, vẫn còn nơi để quay về. 

FB-Đắc Nhân Tâm

Sunday, November 2, 2025

Thế giới: Trận chiến sống còn

[BÀI PHÁT TRÊN CHƯƠNG TRÌNH PODCAST CỦA GS MERESHEIMER VỀ ẢO TƯỞNG HÒA BÌNH KINH TẾ CỦA MỸ, SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ THÁCH THỨC CHIẾN LƯỢC CỦA HOA KỲ]

Bài dưới đây là chương trình podcast phát trên kênh YouTube của Giáo sư John J. Mearsheimer vào ngày 30 tháng 10 năm 2025. Mearsheimer là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Chicago, được xem là một trong những học giả hàng đầu thế giới về chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế và là tác giả của các công trình kinh điển như The Tragedy of Great Power Politics và Why Leaders Lie. Trong số phát sóng này, Giáo sư Mearsheimer bàn sâu về ảo tưởng “hòa bình kinh tế” – niềm tin rằng: thương mại và toàn cầu hóa sẽ bảo đảm hòa bình giữa các cường quốc – và lý giải vì sao chính ảo tưởng này đã dẫn Hoa Kỳ đến đối đầu chiến lược với Trung Quốc.

ẢO TƯỞNG HÒA BÌNH KINH TẾ CỦA HOA KỲ 

Trong nhiều thập kỷ, Hoa Kỳ tin rằng: sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau với Trung Quốc sẽ đem lại hòa bình dài lâu. Học thuyết này từng hấp dẫn về mặt trí tuệ và được các nhà lãnh đạo phương Tây ca ngợi như nền tảng cho trật tự thế giới tự do hậu Chiến tranh Lạnh. Giới tinh hoa Mỹ tin rằng: thị trường có thể thuần hóa địa chính trị, thương mại sẽ biến đối thủ thành đối tác, và lợi nhuận sẽ chiến thắng quyền lực. Nhưng mọi ảo tưởng đều có giá. Ngày nay, “hóa đơn” ấy xuất hiện dưới hình thức các mức thuế quan khổng lồ, thậm chí được đề xuất ở mức 200% đối với hàng hóa Trung Quốc, như một biểu hiện của tuyệt vọng chiến lược.

Trên thực tế, hệ thống quốc tế luôn là môi trường vô chính phủ, nơi các quốc gia phải cạnh tranh để bảo đảm an ninh và ảnh hưởng. Không một thỏa thuận thương mại nào có thể thay đổi logic quyền lực đó. Washington từng tin rằng: Trung Quốc sẽ hòa nhập hòa bình vào trật tự do Mỹ dẫn dắt, dần dân chủ hóa và tuân thủ quy tắc phương Tây. Niềm tin này sai lầm ở mọi bước. Kể từ thập niên 1990, dòng vốn Mỹ đổ vào Trung Quốc vì lao động rẻ và quy mô lớn, xây dựng nền tảng sản xuất khổng lồ cho Bắc Kinh trong khi làm suy yếu ngành công nghiệp Mỹ. Lợi nhuận thay thế chiến lược, và Mỹ gọi đó là “toàn cầu hóa”, không nhận ra mình đang chuyển giao năng lực quốc gia cho một đối thủ tương lai.

Kết quả là: Trung Quốc không trở thành nền dân chủ tự do mà phát triển thành một cường quốc công nghiệp, với quân đội hiện đại hóa và chính sách đối ngoại quyết đoán hơn. Các đời tổng thống từ Clinton tới Obama đều duy trì ảo tưởng hợp tác – coi Trung Quốc là đối tác trong một thế giới hòa hợp. Nhưng theo lăng kính chủ nghĩa hiện thực, khi một quốc gia đủ mạnh, nó sẽ tìm cách tái định hình trật tự theo lợi ích của mình – và Trung Quốc đã làm đúng như vậy. Vấn đề không nằm ở ý định mà ở năng lực, và năng lực ấy đã thay đổi căn bản cán cân quyền lực toàn cầu.

SỰ TRỖI DẬY CÓ CHỦ ĐÍCH CỦA TRUNG QUỐC

Sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của chiến lược tích lũy quyền lực có hệ thống, do nhà nước chỉ đạo. Nhiều người ở Washington cho rằng: đó là hệ quả tự nhiên của thị trường, nhưng thực tế Bắc Kinh đã chủ đích tận dụng toàn cầu hóa để phục vụ cho lợi ích quốc gia. Trung Quốc không bao giờ theo đuổi chủ nghĩa tự do phương Tây; họ coi toàn cầu hóa là công cụ, không phải mục tiêu. Trong khi Mỹ tin rằng: sức mạnh quân sự và tài chính bảo đảm vị thế vĩnh viễn, Trung Quốc hiểu rằng: quyền lực thật sự bắt nguồn từ sản xuất, công nghệ, tài nguyên và kiểm soát chuỗi cung ứng chiến lược.

Từ cuối thập niên 1970, Đặng Tiểu Bình mở cửa kinh tế không nhằm thay đổi hệ tư tưởng, mà để nhập vốn, hấp thụ công nghệ và xây dựng năng lực sản xuất nội địa. Trong khi doanh nghiệp phương Tây nhìn thấy lao động rẻ, Bắc Kinh nhìn thấy con đường phục hưng quốc gia. Trung Quốc phát triển hạ tầng cảng biển, đường cao tốc, năng lượng và công nghiệp nặng, còn Mỹ lại phi công nghiệp hóa, chuyển nhà máy ra nước ngoài. Kết quả, năm 2024, Trung Quốc sản xuất hơn 1 tỷ tấn thép (chiếm 55% toàn cầu), đóng hơn 50% số tàu biển thế giới (40 triệu tấn), và sản xuất hơn 30 triệu ô tô – những con số chưa từng có trong lịch sử công nghiệp nhân loại.

Đó không chỉ là thành tựu kinh tế, mà là nền tảng quyền lực quốc gia. Trong khi giới hoạch định chính sách Mỹ tự thuyết phục rằng: nền kinh tế dịch vụ và phần mềm là đủ, Trung Quốc không bao giờ tin vào ảo tưởng đó. Khi năng lực vật chất tăng, tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh cũng mở rộng: Sáng kiến Vành đai và Con đường đầu tư hơn 1.000 tỷ USD vào năm 2024; hải quân Trung Quốc đã có thể thách thức ưu thế Mỹ ở Tây Thái Bình Dương; các tập đoàn công nghệ nội địa giảm phụ thuộc vào Mỹ. Một cường quốc đang trỗi dậy luôn hành động như vậy – chỉ có Washington là bất ngờ.

CHÍNH SÁCH CỦA TT TRUMP ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC

Khi TT Trump lên nắm quyền, giới hoạch định chính sách Mỹ coi ông là người thiếu kinh nghiệm và khó đoán. Nhưng Trump đã nhìn ra điều mà họ không: ông không tin vào bá quyền tự do hay “hòa bình thương mại”. Với ông, Trung Quốc không phải là đối tác hội nhập mà là đối thủ chiến lược, đe dọa trực tiếp sức mạnh của Hoa Kỳ. Ông không dùng ngôn ngữ học thuật của chủ nghĩa hiện thực tấn công, nhưng bản năng chính trị giúp ông nắm được quy luật cơ bản: các cường quốc không thể dung thứ một đối thủ ngang hàng.

Trump chọn chiến trường kinh tế, dùng thương mại làm công cụ chiến lược và thuế quan làm vũ khí. Nhiều người chỉ trích phương pháp này là thô thiển, nhưng ông hiểu rõ bản chất: ngoại giao kinh tế chính là phần mở rộng của địa chính trị. Khi Trump đe dọa thuế 200% đối với hàng hóa Trung Quốc, đó là tuyên bố rằng kỷ nguyên kiên nhẫn đã kết thúc. Washington từng nói toàn cầu hóa là không thể đảo ngược, nhưng Trump đã bác bỏ điều đó – nhận ra rằng Trung Quốc đã lợi dụng chính sự cởi mở của Mỹ để vươn lên.

Thuế quan, kiểm soát xuất khẩu, hạn chế đầu tư và ưu đãi tái công nghiệp hóa là một phần của chiến lược thống nhất nhằm giảm phụ thuộc vào Trung Quốc, bảo vệ năng lực công nghiệp Mỹ và tái định hướng chuỗi cung ứng toàn cầu. Ông không đảo ngược được lịch sử, nhưng đã chạm vào vấn đề cốt lõi mà giới tinh hoa Mỹ né tránh: phụ thuộc kinh tế không phải là tài sản chiến lược mà là gánh nặng.

NỖI LO CHIẾN LƯỢC TẠI WASHINGTON

Khi Washington nhận ra quy mô thực sự của sự trỗi dậy Trung Quốc, thời gian để điều chỉnh nhẹ nhàng đã qua. Trong suốt nhiều năm, các nhà hoạch định chính sách Mỹ tin rằng: hội nhập kinh tế đồng nghĩa với hòa bình. Khi ảo tưởng này sụp đổ, giới tinh hoa rơi vào trạng thái hoảng loạn. Chính sách trở thành sự pha trộn giữa phủ nhận và chia rẽ. Một phe tiếp tục bám vào mô hình toàn cầu hóa, tin rằng đối đầu với Trung Quốc là sai lầm; phe khác thừa nhận cạnh tranh là không thể tránh nhưng thiếu một tầm nhìn thống nhất.

Hệ quả là sự bất định chiến lược. Các viện nghiên cứu tung ra hàng loạt báo cáo, các bài xã luận bàn cãi nhưng không che giấu được sự thật: Hoa Kỳ đã bị bất ngờ. Lịch sử từng chứng kiến điều tương tự: đầu thế kỷ 20, Anh cũng chậm phản ứng trước sự trỗi dậy của công nghiệp Đức. Mỹ nay ở vị thế đó – vừa phụ thuộc, vừa cảnh giác.

Khi chính quyền thay đổi lập trường liên tục giữa hợp tác và đối đầu, giữa “tách rời” và “hội nhập”, sự mâu thuẫn ấy lan rộng. Đồng minh bối rối, đối thủ lợi dụng, còn thị trường quốc tế trở thành mặt trận của địa chính trị. Uy tín lãnh đạo của Mỹ vì thế bị xói mòn không phải vì yếu, mà vì không chắc chắn.

SỰ PHÁ VỠ CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU

Nền kinh tế toàn cầu chưa bao giờ là một cơ thể hòa hợp; nó phụ thuộc vào trật tự do Mỹ kiểm soát. Khi Trung Quốc dần chiếm lĩnh các tầng cao công nghệ – từ bán dẫn, năng lượng đến trí tuệ nhân tạo – cấu trúc này bắt đầu rạn nứt. Chuỗi cung ứng, từng được xem như biểu tượng của toàn cầu hóa, nay trở thành công cụ quyền lực.

Các chính sách thuế quan của Trump, đặc biệt là đe dọa mức 200% đối với hàng Trung Quốc, đã tăng tốc quá trình tách rời này. Hoa Kỳ nhận ra rằng phụ thuộc vào đối thủ chiến lược là rủi ro sinh tử. Trung Quốc nắm giữ hơn 80% công suất tinh luyện đất hiếm toàn cầu, cung cấp phần lớn dược phẩm và linh kiện điện tử cho Mỹ. Trong hòa bình, đó là “hiệu quả”; trong cạnh tranh, đó là “lỗ hổng”.

Sự dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam, Ấn Độ, Mexico hay Đông Nam Á chỉ là tạm thời. Trung Quốc sở hữu cả hệ sinh thái công nghiệp hoàn chỉnh, từ logistics đến nhân lực. Tháo dỡ nó đòi hỏi nhiều thập kỷ. Ở Mỹ, sự phi công nghiệp hóa đã để lại hậu quả xã hội nghiêm trọng: lương đình trệ, cộng đồng suy thoái, và cơn giận dữ dân túy trỗi dậy. Khi Trump làm gián đoạn hệ thống, ông thực chất chạm vào một chân lý: không quốc gia nào duy trì được vị thế lãnh đạo nếu đánh mất năng lực sản xuất.

SỰ SỤP ĐỔ CỦA BÁ QUYỀN TỰ DO

Sau Chiến tranh Lạnh, Washington tin rằng: lịch sử có hướng đi tất yếu – rằng bá quyền tự do sẽ mở rộng mãi mãi. Nhưng thực tế đã chứng minh điều ngược lại. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự kiên định của Nga, thất bại ở Iraq và Afghanistan đều cho thấy chính trị quyền lực chưa bao giờ biến mất.

Bá quyền tự do thất bại vì nó giả định rằng: các quốc gia khác sẽ chấp nhận sự thống trị của Mỹ. Nhưng theo quy luật cân bằng quyền lực, khi một nước quá mạnh, các nước khác sẽ phản ứng. Nga, Trung Quốc và thậm chí các đồng minh Mỹ đều bắt đầu tìm cách tự chủ hơn. Hoa Kỳ mở rộng quá mức ở nước ngoài trong khi đánh mất nền tảng công nghiệp trong nước – một sai lầm chí tử trong lịch sử các đế chế.

Khi TT Trump đe dọa áp thuế 200% với hàng Trung Quốc, đó không chỉ là chính sách kinh tế mà còn là dấu mốc tư tưởng: Hoa Kỳ đang rời bỏ niềm tin rằng thị trường tự do và biên giới mở có thể duy trì hòa bình. Thế giới mới nổi lên với ưu tiên khác: tự chủ chiến lược, an ninh chuỗi cung ứng, và phục hồi năng lực quốc gia. Bá quyền tự do không sụp đổ tức thì – nó đang tan rã trong im lặng, khi chính những người từng ủng hộ nó nay quay sang nói về “chính sách công nghiệp” và “khả năng phục hồi quốc gia”.

Cuối cùng, GS Mearsheimer kết luận: sự kết thúc của bá quyền tự do không có nghĩa là sự sụp đổ của Hoa Kỳ, mà là bước chuyển tất yếu sang một trật tự đa cực – nơi Mỹ chỉ còn là một cường quốc trong số các cường quốc khác. Tương lai phụ thuộc vào việc Hoa Kỳ có đủ can đảm nhìn nhận thực tế để thiết kế chiến lược mới – thực dụng hơn, khiêm tốn hơn và gần với bản chất của quyền lực hơn.

Copy từ FB-Hoàng Anh Tuấn