Monday, May 31, 2021

GIÁO SƯ PHAN ĐÌNH DIỆU (1936-2018): KHÍ PHÁCH & TRÍ TUỆ

Sáng nay tôi hỏi 5 bạn sinh trong thập niên 1980s, 3 bạn nói không biết GS Phan Đình Diệu. Tôi buồn nhưng không bất ngờ. Ông là một người mà thế hệ chúng tôi ngưỡng mộ, cả về tài năng và sự chính trực. Có lẽ vì sự chính trực ấy mà ông rất ít khi có mặt trên những bục vinh quang. Nhưng, những đóng góp thầm lặng của ông đặc biệt là trong vai trò đưa công nghệ thông tin vào VN đang ảnh hưởng lên cả những thế hệ không còn biết ông là ai nữa. 

GS Phan Đình Diệu là một trong những người đầu tiên gầy dựng ngành khoa học tính toán của miền Bắc (1968). Chiếc máy vi tính đầu tiên, có thể coi là của Đông Nam Á, ra đời năm 1980 [được thiết kế với chip Intel 8080A nên được đặt tên là VT80] là từ phòng thí nghiệm Viện Tin học của ông, bắt đầu từ những hợp tác trước đó với Viện Kỹ thuật Quân sự có sự giúp sức cả về chuyên môn và vật chất của ông André Trương Trọng Thi, người được coi là cha đẻ của máy tính cá nhân.

Theo tiến sỹ Vũ Duy Mẫn: “Năm 1981, sau khi lắp ráp thành công máy vi tính VT81 và cài đặt được ngôn ngữ lập trình Basic, Viện quyết định thử nghiệm đưa máy vi tính ứng dụng vào quản lý xí nghiệp cỡ nhỏ và vừa ở Xí nghiệp máy may Sinco”. 

Nhưng, cho dù có nhiều nỗ lực, ngành công nghiệp sản xuất máy tính chỉ dừng lại ở đó. Tin học là một ngành không thể phát triển trong một quốc gia tự đóng cửa về chính trị và bị cô lập về thương mại với thế giới bên ngoài. Rất tiếc là khi tình hình trong nước bắt đầu cởi mở hơn thì GS Nguyễn Văn Hiệu (người thay giáo sư Trần Đại Nghĩa, làm Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam) lại có những quyết định phi khoa học. Năm 1993, ông Hiệu loại GS Phan Đình Diệu khi ngành tin học Việt Nam cần một người lãnh đạo có tâm và có tầm nhất.

GS Hiệu nhận chức năm 45 tuổi. Ông có mọi ưu đãi của Chế độ, từ kinh phí nghiên cứu tới quyền hạn. Nắm Viện, ông Hiệu kêu gọi “các anh các chị hãy tự cứu mình”. Các công ty được thành lập, Viện khoa học Việt Nam nhanh chóng trở thành một nơi “nửa hàn lâm, nửa chợ trời”[theo TS Giang Công Thế]. Hàng nghìn cán bộ tài năng trôi giạt khắp nơi. Nền tin học Việt Nam chuyển một cách dứt khoát sang nghề… buôn máy tính. 

Dù GS Phan Đình Diệu là người viết đề cương thành lập viện Công nghệ thông tin theo mô hình mới và khi bỏ phiếu thăm dò, ông nhận được tín nhiệm của đa số tuyệt đối, GS Nguyễn Văn Hiệu vẫn chọn một người có số phiếu thấp hơn vì lý do “biết làm kinh tế”. GS Phan Đình Diệu tuyên bố từ chức Viện phó Viện Khoa học Việt Nam và ra khỏi biên chế, những chuyên gia trẻ hết lòng vì khoa học như Nguyễn Chí Công, Vũ Duy Mẫn, Lê Hải Khôi, Giang Công Thế… bắt đầu phiêu bạt.

Cho dù vậy, theo GS Chu Hảo - thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ thời kỳ internet được đưa vào VN - “GS Phan Đình Diệu vẫn là linh hồn của các chính sách phát triển công nghệ thông tin của nước ta”. Ông là Chủ tịch hội Tin học và là Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia phát triển Công nghệ Thông tin cho tới năm 1998.

Nếu như, GS Nguyễn Văn Hiệu nổi tiếng là một người biết sử dụng khoa học để làm chính trị và leo lên tới các đỉnh cao danh vọng thì GS Phan Đình Diệu lại là một con người mà ngay cả trong chính trị cũng chỉ tham gia với tinh thần khoa học. 

Theo ông Trần Việt Phương - thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng - từ đầu thập niên 1960s, khi được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi, GS Phan Đình Diệu đã cho rằng, hệ thống kinh tế Xô Viết sẽ sụp đổ nếu tiếp tục vận hành như thế này[Hy vọng là Trung tâm Lưu trữ quốc gia vẫn còn giữ được ý kiến này của GS Phan Đình Diệu].

Rất có thể, quyết định không bổ nhiệm GS Phan Đình Diệu vào năm 1993 của ông Hiệu còn có “lý do chính trị”. Từ năm 1989, GS Phan Đình Diệu có nhiều phát biểu về “đa nguyên” và đặc biệt là các ý kiến thẳng thắn của ông góp ý cho Hiến pháp 1992. 

Tháng 10-1988, sau khi giải quyết xong vấn đề “đa đảng”[giải tán hai đảng Dân chủ và Xã hội], Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh bắt đầu “chống đa nguyên” nhắm vào ông Trần Xuân Bách. Tháng 3-1989, Hội nghị Trung ương 6 khẳng định “Không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên”. Ngay sau đó trên báo Đảng, cả Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân lẫn “nhà nghiên cứu” Trần Bạch Đằng đều có bài, trên tinh thần “Mác Xít”, nhấn mạnh rằng, “Nếu hiểu đa nguyên theo nghĩa triết học thì từ lâu đã bị phê phán là sai lầm. Chúng ta không chấp nhận”. 

Ngày 15-8-1989, GS Phan Đình Diệu có bài trên Sài Gòn Giải Phóng, đáp trả các luận điệu trên đây. Ông cho rằng, muốn “tìm đường đi cho đất nước trong thế giới hiện đại” thì phải “vận dụng trí tuệ của thời đại” từ “nhiều nguồn tri thức”. Theo ông, “Những gì xảy ra trong thế kỷ hai mươi là điều không thể hình dung đối với những bộ óc, dù là vĩ đại, của giữa thế kỷ mười chín”. 

Sau khi đọc bài của Giáo sư Phan Đình Diệu, từ Hà Nội, Bí thư Trần Xuân Bách gửi cho TBT Sài Gòn Giải Phóng Tô Hoà một tấm danh thiếp, mặt sau ghi: “Chuyển giùm anh Phan Đình Diệu, tôi ca ngợi bài này”. Đây là bài báo cuối cùng mà Tô Hoà cho đăng với tư cách tổng biên tập Sài Gòn Giải Phóng. Ngày 28-3-1990, Trung ương cách chức ông Trần Xuân Bách.

Hai năm sau, ngày 12-3-1992, trong một phiên họp góp ý cho Hiến pháp 1992, GS Phan Đình Diệu đã có một phát biểu rất gây tiếng vang ở Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Ông đề nghị “tạm gác lại” việc đưa vào Hiến pháp các thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx - Lenin”. Ông đề nghị phải dũng cảm để thấy rằng, “mô hình CNXH, cũng như Marx - Lenin không còn đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay”. Giai đoạn xây dựng một “tổ quốc Việt Nam trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp và tự cường”.

Theo GS Phan Đình Diệu thì Việt Nam dứt khoát phải có “nhà nước pháp quyền”, chứ không thể tiếp tục “chuyên chính vô sản” hay “pháp quyền nửa vời”. Đặc biệt, ý kiến của ông về Mặt trận và các đoàn thể cho tới ngày nay vẫn còn rất thiết thực. Ông đề nghị, Hiến pháp chỉ cần coi lập hội là quyền tự do của người dân; từ bỏ việc nhà nước hoá các đoàn thể. Ông kêu gọi các đoàn thể thay vì dựa dẫm vào nhà nước phải lấy quần chúng làm gốc rễ, các cơ quan đảng, đoàn thể không ăn lương từ ngân sách. 

GS Phan Đình Diệu không sử dụng tài năng và danh tiếng của mình để mưu cầu bổng lộc hay địa vị. Những năm sau 1975, trong những ngày đói kém, từ Paris trở về, hành lý của ông vẫn chỉ có sách và các “bản mạch” dùng cho sản xuất máy tính. Khi phải xuất hiện trên các diễn đàn thì, cho dù ở giai đoạn nào, ý kiến của ông vẫn là ý kiến của một con người yêu nước, khí phách và trí tuệ.

Trương Huy San

May 14.2018

Sunday, May 30, 2021

Những lời khuyên

Thử chọn và áp dụng

16 LỜI KHUYÊN VỀ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG

1. Giữa sữa và sữa đậu nành, hãy nên chọn đậu nành.

2. Nếu cảm thấy rằng bạn vẫn có thể ăn thêm một nửa bát cơm nữa thì tốt nhất hãy rời khỏi bàn ăn. Chỉ ăn no khoảng 70 – 80% là tốt nhất.

3. Ngay cả khi cơ thể bạn không cảm thấy đói khát, tốt nhất vẫn duy trì uống tối thiểu 4 ly nước mỗi ngày.

4. Nên bổ sung sữa chua nhiều hơn.

5. Tránh xa thuốc lá và rượu.

6. Thêm thành phần ngũ cốc và rau vào chế độ ăn bình thường hàng ngày.

7. Uống trà xanh tốt hơn hồng trà.

8. Coi trọng bữa sáng sẽ tốt hơn là bữa tối

9. Kiểm soát lượng muối

10. Nên đánh răng sau khi thức dậy, sau đó uống nước.

11. Không ăn (uống) nước canh lẩu khi đã được nấu đi nấu lại quá lâu.

12. Ăn mỗi ngày 2 quả táo vào buổi sáng và buổi tối sẽ giải quyết và cải thiện hiệu quả tình trạng táo bón.

13. Ăn trái cây trước bữa ăn tốt hơn sau bữa ăn.

14. Ăn cá ít nhất một lần một tuần.

15. Tránh xa đồ uống có ga.

16. Bạn có thể uống một ly rượu vang đỏ trước khi đi ngủ.


11 LỜI KHUYÊN VỀ VẬN ĐỘNG

1. Tận hưởng ánh nắng mặt trời trong khoảng thời gian từ 8-9h sáng;

2. Nên chạy bộ chậm và đi bộ nhanh

3. Thói quen ngâm chân nước ấm có hiệu quả tốt trong việc ngăn ngừa chứng bệnh giãn tĩnh mạch.

4. Khi tinh thần mệt mỏi, không cần thiết phải tập thể dục để xoa dịu nó, cách tốt nhất là nghỉ ngơi, điều này quan trọng hơn.

5. Hạn chế tập thể thao ngoài trời vào mùa đông khi thời tiết quá lạnh giá.

6, Di chuyển khoảng cách dưới 10 tầng, không nên đi thang máy.

7. Nên thường xuyên đứng xem TV.

8. Tập thể dục trong nửa giờ mỗi ngày thay vì 3 giờ vào cuối tuần.

9. Nên thường xuyên đi dạo

10. Nằm ngủ trên một chiếc giường có đệm cứng vừa sẽ thuận lợi hơn cho sức khỏe cột sống.

11. Nghỉ ngơi ít nhất nửa giờ sau khi tập thể dục rồi sau đó mới có thể đi tắm.


5 LỜI KHUYÊN VỀ SINH LÝ HỌC

1. Không nên ngồi vắt chéo chân (chân chữ ngũ), để tránh không làm đè nén các dây thần kinh.

2. Quần áo của năm ngoái nên được lấy ra phơi nắng trước khi tiếp xúc và mặc lại.

3. Không nên suốt ngày ăn lại thức ăn thừa.

4. Không nên gội đầu quá nhiều, 2-3 ngày gội 1 lần là được.

5. Buổi trưa nhất định phải nằm xuống nghỉ ngơi, nhưng không nên quá 40 phút.


5 LỜI KHUYÊN VỀ MỐI QUAN HỆ VỚI BẠN ĐỜI

1. Đừng dành quá nhiều thời gian chăm sóc con cái hay các mối quan hệ bên ngoài khác mà bỏ qua việc quan tâm tới chồng/vợ của bạn.

2. Những cảm xúc dành cho người yêu, cũng cần phải đầu tư bằng cả trái tim chân thành và dụng công.

3. Nếu như có xung đột xảy ra, mỗi người nên tự lùi lại 1 bước.

4. Thỉnh thoảng nên tạo ra một chút ngạc nhiên.

5. Đừng quên ngày sinh nhật của người ấy.


5 LỜI KHUYÊN VỀ HẠNH PHÚC

1. Trân trọng mọi thứ bạn đang có trong hiện tại, ngay bây giờ.

2. Con người ta sống vốn chỉ là những trạng thái cảm xúc, tâm trạng. Hãy nắm lấy hôm nay, xây dựng cho ngày mai và lưu giữ mãi mãi ở những ngày sau.

3. Chỉ cần bạn biết cảm nhận mọi thứ bằng trái tim, thì hạnh phúc sẽ luôn luôn hiện hữu ở bên cạnh bạn.

4. Biết đủ là đủ, tự hài lòng chính là hạnh phúc.

5. Chỉ cần có những người thân đồng hành với mình, có bạn bè quan tâm thân thiết, có một cơ thể khỏe mạnh, chỉ như vậy thôi, bạn đã là người hạnh phúc nhất thế giới.


KỸ THUẬT THỞ GIÚP NGỦ NHANH & SÂU 4-7-8

Phương pháp "hơi thở thư giãn", bao gồm thở vào trong 4 giây, giữ hơi trong 7 giây và thở ra trong 8 giây.

Kỹ thuật thở này đòi hỏi một người phải tập trung vào việc điều hòa hơi thở, thay vì suy nghĩ và lo lắng khi bạn nằm xuống ngủ vào ban đêm.

Cách thở này có nguồn gốc từ một bài tập thở của Ấn Độ tên pranayama (điều hòa hơi thở), hiện vẫn được áp dụng trong yoga, thiền..

Các bước thực hiện:

Bước 1: Thở ra, hoặc thổi hơi ra hoàn toàn bằng miệng. Lưu ý thở mạnh, tạo thành tiếng. Đầu lưỡi đặt đằng sau răng hàm trên.

Bước 2: Đóng miệng, hít nhẹ nhàng bằng mũi, đếm thầm trong đầu đến 4.

Bước 3: Nín thở, đếm đến 7.

Bước 4: Lại thở mạnh ra thành tiếng, đếm đến 8.

Bước 5: Đóng miệng vào và hít nhẹ nhàng, lặp lại toàn bộ quá trình thêm ba lần nữa.

Nếu kỹ thuật này chưa đủ giúp bạn ngủ nhanh thì nên được kết hợp với các vật dụng hỗ trợ như mặt nạ ngủ, nút tai, nhạc thư giãn, tinh dầu khuếch tán hoa oải hương hoặc tránh uống nước có caffeine trước khi ngủ.


QUY TẮC 3 PHÚT SỐNG KHỎE SUỐT ĐỜI

Chải răng trong 3 phút

Phương pháp đánh răng “3-3-3”, tức là mỗi ngày nên đánh răng 3 lần, sau bữa ăn 3 phút, mỗi lần đánh 3 phút. Nguyên tắc cơ bản khi đánh răng là chải sạch mọi mặt, từ bên trong lẫn bên ngoài của hàm răng.

Nằm trên giường 3 phút sau khi tỉnh dậy

25% trường hợp đột quỵ và đột tử xảy ra vào buổi sáng từ 7h đến 8h. Người già bị huyết áp cao hoặc mắc bệnh tim, mỗi khi thức giấc không nên ngồi dậy ngay mà trước tiên hãy nhắm mắt dưỡng tâm 3 phút rồi từ từ vận động từ tứ chi đến phần đầu, cổ.

Đun nước thêm 3 phút sau khi sôi

Khi đun nước cần làm theo các bước: Trước tiên, để nước trong ấm một lúc rồi mới bắt đầu đun sôi; khi nước sôi mở nắp ấm; cuối cùng đợi nước sôi tầm ba phút và để lửa nhỏ. Cách đun này giúp các chất có hại trong nước bay hơi.

Ăn đồ nóng và uống lạnh cách nhau 3 phút

Sau khi ăn đồ nóng huyết quản sẽ giãn ra. Nếu uống nước lạnh ngay, huyết quản đột ngột co lại làm huyết áp tăng cao dẫn đến đau đầu, buồn nôn, đau bụng. Vì vậy, tốt nhất không nên ăn đồ nóng và đồ lạnh cùng lúc mà nên cách 3 phút.

Ngâm trà trong 3 phút

Ngâm trà trong nước 70-80 độ C khoảng 3 phút sau đó thay nước và tiếp tục ngâm trà thêm 3 phút nữa làm tăng hương vị của trà. Bên cạnh đó, caffeine tiết ra giúp người uống tỉnh táo, sảng khoái tinh thần.

Không tức giận quá 3 phút

Năng lượng tiêu tốn trong 10 phút tức giận tương đương khi chạy 3.000 m. Ngoài ra, các phản ứng sinh lý lúc tức giận kích thích cơ thể sản sinh các chất độc phức tạp hơn bất cứ cảm xúc nào. Do đó, người tức giận khó sống lâu. Muốn tăng sức khỏe cũng như kéo dài tuổi thọ, bạn không nên tức giận quá.

Sưu tầm

Saturday, May 29, 2021

Chuyện tháng 5: Tìm dự án

 XÃ TA PHẢI CÓ TƯỢNG ĐÀI!

Mạc Văn Trang

Hôm nay ông Hùng Phó Chủ tịch xã Đại Phát khánh thành ngôi nhà 5 tầng, vừa xây trên phần đất giãn dân. Khách đến ăn mừng tân gia nhộn nhịp suốt cả ngày. Mấy đồng chí Thường vụ Đảng ủy xã bận họp, chiều tà mới đến. Gia chủ đã dành một bàn cỗ thịnh soạn trên lầu 2, có phòng lạnh mát mẻ, kín đáo...

Tửu nhập, ngôn xuất. Lại toàn các đồng chí chí cốt với nhau nên đủ thứ chuyện rôm rả. Nhưng cuối cùng lại xoay về chuyện tìm kiếm dự án. 

Chủ tịch bảo: - Này các cậu, năm tới xem kiếm được cái dự án gì, không thì treo niêu à?

Trưởng ban Mặt trận: - Khó đấy nhỉ! “Xây dựng Nông thôn mới”, Điện, đường, trường, trạm, nghĩa trang liệt sĩ, trụ sở ... đủ cả rồi. Đình, chùa, nghĩa trang nhân dân ... thì các thôn nó quản lý, xã nhằm nhò gì! Quy hoạch đất giãn dân thì hai nhiệm kỳ trước nó vung tay quá trán rồi…

Bí thư Đảng ủy: - Dự án gì phải kều được ngân sách, xã hội hóa một phần, chứ toàn xã hội hóa, dân kêu quá, mệt lắm rồi. Làm như cái Trạm xá vừa rồi là được, nhà nước 7, dân 3...

Trưởng Công an xã: - Báo cáo các anh, cái khoản cho khai thác cát trên sông, nộp ngân sách địa phương, năm tới cũng khó khăn lắm. Phần thì cát cũng vãn, phần thì xói lở đất ven bờ ngày càng lớn ... Dân phản ứng dữ quá mà mình dùng biện pháp mạnh để dẹp yên, báo cáo các anh, cũng phức tạp lắm... Lại còn cái thằng xã Đại Lộc phía hạ, Đại Cường phía thượng, cũng to mồm đòi ăn chia...

Văn phòng Ủy ban: - Báo cáo các anh, tiền tiếp khách, liên hoan còn đọng của nhà hàng Thúy Liên hơn một tỷ, chưa biết đắp cái gì cho nó... 

Chủ tịch: - Cái thằng này. Chuyện vặt đó cũng phải nói ra đây. Rồi đâu khác có đó.

Phụ trách Tuyên giáo: - Tôi nghĩ nát ra rồi, ta làm cái dự án dựng tượng đài là hay nhất... 

Đề xuất này như gãi đúng chỗ ngứa, ý kiến sôi nổi hẳn lên.

- Nhưng tượng đài gì nhỉ? 

- Tượng đài hạ gục pháo đài bay B52 Mỹ được không? Vì hồi “bảy hai” (1972) có một mảng xác máy bay rơi trúng nhà bố em, ông hy sinh, được công nhân liệt sĩ đấy thôi...

- Nhưng cái xác máy bay ấy nó rơi ở bên Đại Cường là chính, mình chỉ có một mảnh. Mà nó ở đâu rơi về, chứ có phải mình bắn hạ đếch đâu, mà thuyết minh dự án được!

- Hay ta dựng tượng Du kích giữ làng. Lịch sử đảng bộ xã ta vẫn in đậm câu chuyện năm Năm hai (1952) “Chị Khế giả vờ cắt cỏ gần đồn giặc, dụ thằng Tây đứng gác ra, khi nó đè chị Khế sắp hiếp, thì đồng chí Vó cầm mã tấu, từ trong bụi rậm xông ra chém được đầu thằng Tây đen, tước được một khẩu súng, một chiếc đồng hồ đeo tay... Các cụ bảo, cái vố ấy xã ta nổi tiếng cả tỉnh, cả nước đấy thôi.

- Vụ này không ổn, dựng tượng sẽ lắm chuyện đàm tiếu lắm. Nghe dân kể, thì đồng chí Vó đã thống nhất phối kết với chị Khế là, khi nó đè ra sắp hiếp thì chị Khế ôm chặt nó, kêu lên, đồng chí Vó theo đúng hiệu lệnh, xông ra chém liền. Nhưng đằng này, chị Khế mãi không kêu, đồng chí Vó cứ chần chừ, để nó hiếp chị Khế xong, mới xông ra, nên sau này chị Khế đẻ ra thằng Đen đấy. Cũng vì dân làng đàm tiều quá, trên thu hồi giấy khen của chị Khế, mà cậu Đen con chị Khế, lớn lên cũng bỏ làng đi đâu mất...

- Hay ta dựng tượng Mẹ Việt Nam Anh hùng. Nghe nói tỉnh gì trong kia dựng tượng một Mẹ tiêu biểu mà hơn 200 tỉ cơ mà. Xã ta cũng có năm Mẹ chứ có kém đâu?

- Cũng có lý. Nhưng, các Mẹ xã mình thường lắm, không được tiêu biểu. Thực ra còn có bốn Mẹ chứ có nhiều nhặn gì! Bà Gái, sau này tấp tửng theo giai, đi bước nữa, có ở quê đếch đâu. Bốn Mẹ kia thì hai Mẹ có con một hy sinh, một Mẹ hai con hy sinh, một Mẹ cả chồng và con trai hy sinh. Nhìn chung đều loại làng nhàng, không được tiêu biểu như Mẹ gì trong kia những 9 con hy sinh...

- Tôi nghĩ ra rồi. Xây nhà lưu niệm và dựng tượng đồng chí Thành, Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện từ năm “bốn nhăm” (1945), sau này bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo rồi chết ở đó. Có Đền rồi, hàng năm ta tổ chức thật linh đình Lễ tưởng niệm đồng chí, thu hút khách thập phương đến, cũng hay...

- Hơi vướng đấy. Bố đồng chí Thành hồi cải cách ruộng đất bị quy là địa chủ, đấu tố, rồi xử bắn, nay lập đền thờ con cũng sái lắm. Mà sau này mẹ đồng chí Thành đem con cháu chạy ra Hà Nội, họ có về quê đâu. Anh em, con cháu đồng chí Thành hiện nay toàn đại gia, nhưng mấy lần kêu gọi đóng góp làm đường, xây đình, xây chùa, họ có thèm công đức gì đâu. Thậm chí bảo làm giấy đề nghị công nhận bố liệt sĩ, gia đình có công với nước, họ cũng chả làm!

- Hay ta xây nhà truyền thống của Đảng bộ xã và dựng bia tưởng niệm tại chỗ Miếu Cô Dìa, nơi năm bốn mươi (1940), đồng chí Tú, đồng chí Thành, đồng chí Búa họp nhau lập ra chi bộ Đảng của xã ta. Cái này ta mới ghi vào sử sách, chứ chưa có công trình tưởng niệm xứng tầm…

- Cái này xem ra khả thi đấy, nhưng cũng vướng. Vì đồng chí Thành, như vừa nói, đồng chí Tú thì hồi cải cách, chỉnh đốn Đảng năm năm sáu (1956) bị nghi oan là Việt gian Quốc dân Đảng nên bị bắn…Anh em vợ con sau này ly tán vào trong Nam hết…

- Chuyện đồng chí Tú, hồi sửa sai đã được minh oan, trên về tổ chức lễ Truy điệu rồi. Thực tế thì Đảng có đúng, có sai, nhưng tuyên truyền thì ta phải biến báo, phiên phiến đi chứ…

- Nghe nói Vĩnh Phúc xây Văn miếu mấy trăm tỉ, có mà ăn bẫm. Xã mình ngày xưa cũng có ông gì đỗ Trạng nguyên, có cái lăng toàn bằng đá, dân gọi là Lăng quan Trạng. Hồi Bảy mươi (1970) hợp tác xã phá đi lấy đá nung vôi. Nay ta lập dự án khôi phục Lăng quan Trạng và dựng tượng Cụ để khuyến học, khuyến tài là trúng quá còn gì!

- Nhưng cái lăng ấy có được công nhận di tích quốc gia đếch đâu mà trên duyệt!

- Ngày xưa ta coi ông ấy là quan lại phong kiến nên đập bỏ, không coi là di tích văn hóa, lịch sử, nhưng nay ta lại tôn vinh thì phải chạy. Chạy là được tất!

- Này, Thành hoàng làng Phú Cường được sắc phong là Tiết tháo Đại Vương, nghe nói Ngài là một tướng quân dưới trướng Hưng Đạo Đại Vương, góp sức đánh tan quân Nguyên xâm lược. Trận cuối cùng Ngài hy sinh, xác dạt vào bờ sông Cái, một đêm mà tổ mối đùn lên thành Đống... Nghe nói Ngài thiêng lắm, thu hút khách thập phương đến lễ hội ngày càng đông. Nay ta nâng Thành hoàng Làng lên Thành hoàng Xã, dựng tượng và Đền thờ là có lý. Rồi Hội làng hàng năm vào ngày giỗ Ngài, ta nâng lên Lễ hội cấp Xã cho thật hoành tráng. Mà sẵn có tâm linh rồi, ta huy động xã hội hóa nhạy lắm…

- Tượng đài Bác Hồ! - Xã đội trưởng vỗ đùi “đét” một cái – Có thế mà không nghĩ ra. Cái hồi năm Sáu nhăm (1965), Bác tiện đường ghé xuống cánh đồng Gáo thăm bà con thôn ta đang gặt lúa. Bác cầm bó lúa trên tay hỏi chuyện mùa màng với bà con. Bà Vạy rót bát nước vối ra mời Bác xơi, Bác khen nước vối vừa mát vừa thơm… Dựng tượng Bác Hồ thì bố thằng nào cũng không dám phản đối…

- Cái đó trên tỉnh ẵm mẹ nó rồi! Mấy tháng trước Ban liên ngành do sở Văn Hóa dẫn đầu đã về khảo sát rồi. Nó bảo tuy Bác về thăm một làng, nhưng thuộc tỉnh ta. Tượng Bác phải dựng ở quảng trường tỉnh, cao 4 mét, dự trù nghìn tỉ đồng. Xã bằng cái lỗ mũi, đòi dựng tượng Bác!

- Nghìn tỉ! Chúng nó ăn vào đâu hết! Nhất định xã mình cũng phải đấu tranh để có phần trong đó chứ. Bác đặt chân trên đồng ruộng xã mình cơ mà!

- Tớ cũng nói với giám đốc sở Văn Hóa cái ý ấy rồi. Tay ấy bảo, yên tâm. Cái phần thuyết minh nhân chứng lịch sử trong hồ sơ dự án là phải nhờ địa phương rồi…Nhưng khoản ấy cũng chả xơ múi gì lắm đâu.

Vừa lúc đó bà chủ nhà tiếp thêm đồ nhắm bằng mấy đĩa dồi chó nóng hôi hổi. Ông Hùng vừa rót thêm rượu vừa cười hể hả: 

- Đề nghị các bác, các chú nâng chén đã, chuyện tượng đài trước sau gì xã ta cũng phải có. Bây giờ uống đã! 

Một khi Thường vụ Đảng ủy đã nhất trí đưa vào nghị quyết, thì chủ trương đã thành quyết tâm chính trị, được toàn hệ thống chính trị triển khai, sẽ biến thành “ý Đảng – Lòng dân”, khó mấy cũng thành công. Nhất định xã ta phải có tượng đài. Rồi khối xã cơm đùm cơm nắm đến tham quan học tập cho mà xem…

MVT

Friday, May 28, 2021

ĐỘC TÀI SÁNG SUỐT

 Một ghi chép hiện thực

Tôi có một người bác là nông dân, ông chưa là gì khác ngoài nông dân. Nhưng ông không phải là một nông dân tầm thường: ông là một nông dân có ảnh hưởng, và ảnh hưởng của ông không hề nhỏ, ít nhất là trong phạm vi ngôi làng ông sống. Theo quan sát của tôi, ảnh hưởng của ông được xây dựng trên bốn phẩm chất: gia trưởng, khả năng lo kinh tế gia đình, khả năng sắp xếp công việc họ tộc, và hành ngôn.

Nếu ai đã từng sống ở nông thôn Việt Nam, người đó ắt hiểu rằng, người ta bắt buộc phải có ba phẩm chất đầu nếu muốn thành công và được nể trọng. Riêng phẩm chất thứ tư – hành ngôn, bác tôi nói, là phẩm chất mà không phải kẻ thô lỗ nào cũng hiểu được. Hành ngôn, theo quan điểm của bác tôi, là nói. Anh biết làm chủ gia đình, biết lo kinh tế, biết công việc họ tộc, tốt, nhưng chưa đủ, anh còn phải biết nói. Chính cái biết nói mới là cái nâng anh lên thành một con người đúng nghĩa. Vậy biết nói là thế nào? Theo bác tôi, biết nói bao gồm hai việc: nói cái đúng, và nói sao để ai nghe cũng phải công nhận là đúng.

Đây là một ví dụ về hành ngôn của bác tôi: Năm nào vào ngày giỗ họ, bác tôi cũng dành một mâm cơm đặc biệt cho các bậc “huynh trưởng” và các bậc “thức giả”. Các bậc huynh trưởng ở đây dĩ nhiên là các cụ già cả, còn các bậc “thức giả”, theo cách nói của bác tôi, là những đứa con cháu học hành đỗ đạt hoặc kinh doanh giàu có. Nam nữ không phân biệt, bác tôi cho bình đẳng tất. Và cũng để thể hiện sự bình đẳng, bác tôi cho phép tất cả nói năng thoải mái, không cần phải e ngại phép tắc gì. Trong những ngày ấy, người ta có bao nhiêu chuyện để nói, mà ai cũng muốn nói cả, không thể kể ra hết được. Nhưng thật lạ, trong họ nhà bác tôi, người ta có nói gì thì rốt cuộc tàn rượu cũng quay ra nói chuyện chính trị. Mà những câu chuyện thường cứ lặp đi lặp lại: ông nào lên, ông nào xuống, dây nọ, cánh kia, bao giờ chú vào Đảng, sắp tới bác có lên được cục phó không, chú đại tá chưa nhỉ, cô vừa ở Sài Gòn ra có tin gì không, chú ở Hà Nội thấy tình hình thế nào, liệu có thay đổi gì không. Thằng X chạy chức mất mấy trăm triệu, thằng Y ăn một lúc mấy miếng đất, thằng Z chẳng hiểu làm gì tự nhiên trong mấy năm có mấy cái biệt thự ở Hà Nội, lại về làng bỏ hẳn ra 1 tỉ làm công đức. Tôi là đảng viên đây, nhưng tôi nói thật, còn cái Đảng này thì còn thối nát! Ôi, sao chú lại nói thế, mất quan điểm chết. Quan điểm cái gì? Tôi không nói sai, thối nát đầy ra đấy, từ trên xuống dưới, đâu cũng ăn, thằng giàu thì càng giàu, thằng nghèo thì càng nghèo, cái gì cũng tiền, học tiền thày cô, bệnh tiền bác sĩ, không tiền thì chết, xã hội chủ nghĩa cái gì? Nhà dột từ nóc dột xuống. Dạ, thế thì phải làm gì ạ? Làm cái gì? Chẳng làm gì cả, kệ xác chúng nó, tôi chán rồi. Chú nói thế không được, ai cũng chán như chú thì xã hội này thế nào, phải làm gì chứ! Làm gì? Tôi nói thật, nước này chỉ có cách đa đảng may ra mới cứu vãn được. Như Hàn Quốc, Đài Loan ấy! Thôi, thôi! – bác tôi cười vang, khoát tay – đủ rồi nhé, cho tôi xin các vị! Các vị nói như thế đều không được cả. Thứ nhất, nói mọi thứ đều thối nát là không đúng. Thối nát là thế nào? Thối nát so với cái gì? Nói gì thì nói, trước đây các vị chỉ mong tới bữa có đủ cơm ăn, nhà anh nào oách lắm thì có cái xe đẹp Tàu, có cái đài măng xông, thế là nhất chứ gì? Còn bây giờ thì thế nào? Thịt cá đầy, thích ăn gì thì ăn, quần áo đầy, thích mặc gì thì mặc, nhà anh nào cũng tivi, tủ lạnh, máy giặt, điều hòa, thích mua thì mua, thiếu cái gì? Các vị có công nhận với tôi rằng cuộc sống bây giờ khá hơn ngày trước không nào? Dạ, nhưng…Không nhưng cái gì cả! Đã đành vẫn còn nhiều người nghèo, nhưng đầu tiên các vị phải công nhận với tôi là cuộc sống khá hơn đã. Đúng không nào? Mà như thế tức là phải công nhận cái Đảng này nó tài chứ. Tài thì nó mới làm được như thế chứ. Thế thì tại sao cứ bảo nó thối nát được? Nói thế là không đúng, không thuyết phục, không nghe được. Thứ hai, bây giờ các vị nói chuyện đa đảng. Quan điểm của tôi là chẳng có gì phải sợ nói chuyện đa đảng cả, thế giới bao nhiêu nước người ta đa đảng đấy, thì tại sao mình phải sợ nói. Nói cứ nói, cho nói thoải mái, không việc gì phải cấm. Cấm dân nói là ngu. Nhưng đa đảng liệu có tốt hơn không? Cứ nhìn châu Phi đấy, rồi Phillipin đấy, rồi bây giờ là Thái Lan đấy, loạn đấy. Đa đảng liệu có tốt hơn không? Sao có những nước đa đảng mà vẫn đói? Sao Trung Quốc không đa đảng mà vẫn giàu nhanh thế? Cho nên, tôi nói rằng không phải cứ đa đảng mới tốt. Các vị có công nhận với tôi như thế không? Dạ, nhưng… Không nhưng gì cả, đã rõ ràng như thế, sao các vị cứ lý sự cùn mãi. Các vị phải công nhận với tôi thế đã. Tóm lại, nói Việt Nam cần đa đảng cũng không đúng, không thuyết phục. Rồi, bây giờ tôi nói đến vấn đề thứ ba: chúng ta cần làm gì? Tôi nói thật, vấn đề này tôi đã suy nghĩ rất lâu rồi, nát óc ra rồi. Việt Nam cần cái gì? Tôi nói các vị đừng giận, đặc biệt là các bạn trẻ, Việt Nam hiện tại chẳng cần đa nguyên đa đảng gì sất, chẳng cần cách mạng cam với cách mạng màu gì ráo. Việt Nam bây giờ không cần Gorbachev, không cần Havel. Việt Nam cần Lý Quang Diệu, cần Tưởng Giới Thạch, không có thì Bắc Chung Hy hay thậm chí Đặng Tiểu Bình cũng được. Hay như Putin cũng không dở. Tôi nói thẳng: Việt Nam hiện tại không cần dân chủ, Việt Nam hiện tại cần độc tài! Chỉ độc tài mới trị được, dân chủ thì loạn. Tại sao tôi nói thế? Thực ra, tôi không ghét gì dân chủ cả. Dân chủ là rất tốt. Rất nhân bản. Rất văn minh. Dân chủ mà được như Mỹ, như Nhật, như Hàn Quốc thì tốt quá đi chứ. Nhưng tôi là người thực tế, các vị ạ. Tôi luôn nhìn vào thực tế: dân mình thu nhập GDP đầu người bao nhiêu? Dân trí của mình thế nào? Đấy, các vị cứ nhìn khắp mặt làng này xem, có mấy người hiểu dân chủ là gì? Hay họ chỉ hiểu dân chủ là bừa bãi, là tùy tiện, là thích làm gì thì làm? Là lý lẽ xuôi ngược gì đều được cả? Các vị có công nhận với tôi như vậy không? Thế nên, tôi nhắc lại: Việt Nam cần độc tài! Bây giờ các vị lại hỏi rằng: độc tài thì thế nào? Liệu có như cải cách ruộng đất không? Hay lại tem phiếu, lại hợp tác xã? Không khéo lại thành Bắc Triều Tiên, Cuba, Miến Điện thì làm thế nào? Tất nhiên, ý tôi không phải những kiểu độc tài như thế! Độc tài mà ngu xuẩn thế thì độc tài làm gì? Tôi nói độc tài ở đây là độc tài sáng suốt. Độc tài sáng suốt là để diệt tham nhũng, là để làm trong sạch bộ máy chính quyền. Độc tài sáng suốt là để dân sống có kỉ cương, tôn trọng pháp luật. Độc tài sáng suốt là để cho dân được nói thẳng nói thật, và phải nghiêm khắc trừng trị những kẻ bịt miệng dân. Độc tài sáng suốt là để có dân chủ, vì sớm muộn  đất nước này cũng phải có dân chủ.

*

Trên đây là câu chuyện của bác tôi, một người nông dân. Với tất cả lòng kính trọng trước bác, tôi đã cố gắng hết sức để có thể kể câu chuyện một cách chân thật nhất, tuyệt đối không màu mè, thêm bớt. Tuy nhiên tôi phải thừa nhận rằng, do khả khả năng hạn chế, tôi chỉ có thể thuật lại những lời bác nói chứ không thể miêu tả được cử chỉ, giọng điệu và thần thái của bác khi bác hành ngôn. Bạn phải ở đó, phải nghe bác tôi nói, phải nhìn bác được đám đông vỗ tay tán thưởng như thế nào, bạn mới hiểu hết được.

Bác tôi có phải là một trường hợp cá biệt không? Thực ra, như tôi đã nói, bác tôi là một người nông dân có ảnh hưởng. Hành ngôn của bác tạo ra một từ trường ảnh hưởng không nhỏ quanh bác. Nhưng tôi không nghĩ bác là một hiện tượng đặc biệt. Tôi đã đi nhiều nơi, từ Cao Bằng, Lạng Sơn, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang… tới Bình Dương, Đồng Tháp, tôi đã gặp rất nhiều người như bác. Bác không cá biệt, tôi nghĩ, bác có khi còn là điển hình.

*

Chia tay talawas, tôi cũng rất muốn trả lời ba câu hỏi mà talawas đặt ra, nhưng tôi không biết phải bắt đầu thế nào. Vậy xin gửi tới câu chuyện trên như một lời tri âm. Việc diễn giải câu chuyện đó như thế nào, xin dành cho các cuộc tranh luận ở những diễn đàn khác. Hẳn chúng ta sẽ còn gặp nhau.

Hà Nội, 2.11.2010

© 2010 Đinh Bá Anh

Thursday, May 27, 2021

Cái nước mình nó thế

 Th9 12, 2019

Phạm Thị Hoài và Trương Hồng Quang thực hiện

Sinh thời, nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học Hoàng Ngọc Hiến là một trong những trí thức phê phán giàu ảnh hưởng tại Việt Nam. Ông nổi tiếng với khái niệm „văn học phải đạo“ để chỉ nền văn học chính thống xã hội chủ nghĩa. Ông cũng được coi là người phát hiện và ủng hộ Nguyễn Huy Thiệp, định hướng rõ rệt cho phong trào văn học thời Đổi Mới. Mười lăm năm trước, năm 2004, diễn đàn talawas mà tôi là người phụ trách chính có một cuộc phỏng vấn với Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến nhân một lần ông ghé thăm Berlin. Tuy nhiên, ở phút cuối, ông đã đề nghị talawas hủy đăng bài, vì thời điểm chưa thích hợp. Ông qua đời đầu năm 2011. Trước đó không lâu, talawas cũng ngừng hoạt động. Nay tôi chính thức công bố toàn văn bài phỏng vấn dài gần một vạn chữ này trên trang lưu trữ cá nhân pro&contra của mình. Một số trích đoạn cũng đồng thời được đăng trên tuần báo Trẻ.

Phạm Thị Hoài

GS Hoàng Ngọc Hiến 2004. Ảnh của talawas

talawas: Thưa ông Hoàng Ngọc Hiến, cách đây 17 năm, bài viết „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ của ông là khởi đầu của cuộc tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp mà giai đoạn căng thẳng nhất diễn ra khoảng một năm sau đó, liên quan đến chùm truyện ngắn Kiếm sắc–Vàng lửa – Phẩm tiết. Mới đây, trong bài viết “Ngẫu hứng qua mây gió” đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội [1]Trần Đăng Khoa có nhắc đến cuộc tranh luận này. Điều đặc biệt ở bài viết này là việc đặt lại vấn đề, nói đúng hơn là sự xét lại những giá trị tưởng chừng đã được công nhận trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp ở giai đoạn Đổi mới, đồng thời cũng là sự xét lại những quan niệm tưởng chừng đã đạt tới sự đồng thuận cao trong giới nghiên cứu và trong công luận văn học. Ông đánh giá như thế nào về việc này?

Hoàng Ngọc Hiến: Bài này tôi chưa đọc. Hoa thủy tiên tôi cũng chưa đọc, tôi dạo này lười kinh khủng, tôi chỉ đọc cái Mổ nhà văn. Tôi nghĩ chỉ đọc Mổ nhà văn là đủ. Tôi có nghe tin, Trần Đăng Khoa giải thích với mọi người rằng mình viết bài này hoàn toàn vì yêu mến Nguyễn Huy Thiệp.

talawas: Trần Đăng Khoa luôn yêu mến cả thế gian.

Hoàng Ngọc Hiến: Chắc thấy mọi người phản ứng quá thì cậu ấy thanh minh như thế. Về bài tựa mà tôi viết cho cuốn sách của Thiệp: Lúc ấy Thiệp đã nổi tiếng, đã in Không có vua trên báo Văn nghệ. Nguyễn Khải có nói rằng tinh hoa của Thiệp đã trút hết ra Tướng về hưu, không còn gì mà viết nữa. Nhưng khoảng hai tháng sau Tướng về hưu, Thiệp ra tiếp Không có vua, mà theo tôi Không có vua có nhiều mặt còn hơn Tướng về hưu. Lúc đó Thiệp đã có mười mấy truyện đăng báo, đang nổi như cồn, nên Thiệp nghĩ đến chuyện ra tuyển tập. Lúc đó hoạ sĩ Hồng Hưng bỏ tiền ra thuê đánh máy bản thảo cho Thiệp. Thiệp đưa đi mấy nhà xuất bản đều bị từ chối. Tôi cảm thấy giới xuất bản trong chuyện này rất tinh, nó đánh hơi thấy một người nguy hiểm, nó từ chối. Thiệp kể lại với tôi rằng, Thiệp đến Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, lúc đó hình như còn tên là Nhà Xuất bản Tác phẩm Mới. Người phụ trách mảng văn xuôi ở đó là bà Xuân Quỳnh. Người ta bảo, Xuân Quỳnh không bao giờ đến nhà xuất bản. Thế là Thiệp mang bản thảo đến nhà riêng của Xuân Quỳnh. Thiệp tả lại cho tôi thế này: Vào ngõ, lên một cái hành lang dài, dọc hành lang có bốn, năm cái vòi nước, Xuân Quỳnh đang ngồi quay mặt vào tường giặt quần áo. Người ta chỉ cho Thiệp, bà đang ngồi giặt quần áo, đấy là Xuân Quỳnh. Thiệp đến đứng sau lưng Xuân Quỳnh, bảo: „Thưa chị, em đến nhà xuất bản, họ bảo chị nhận bản thảo ở nhà. Em đến để đưa chị.“ Xuân Quỳnh không quay lại, bảo: „Tôi chỉ nhận bản thảo ở nhà xuất bản, không nhận bản thảo ở nhà.“ Thiệp ra về, Xuân Quỳnh chắc chắn không biết ai đứng sau lưng mình lúc đó. 

Dịp ấy tôi có việc đi công tác Campuchia một năm hai lần, đi Campuchia thì phải ghé Thành phố Hồ Chí Minh, tôi bảo Thiệp: “Cậu đưa tớ bản thảo, đem vào Thành phố Hồ Chí Minh, trong ấy thoáng hơn.” Ở Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đưa bản thảo của Thiệp cho Nguyễn Duy và Thu Bồn, cả hai đều đồng ý ngay. Tôi đi công tác về, trở lại Hà Nội, chờ mãi không thấy hồi âm. Hai tháng sau tôi lại có dịp đi Campuchia nữa, lại gặp Nguyễn Duy và Thu Bồn, nhưng cả hai đều quên, không nhớ gì đến bản thảo này nữa. Hỏi thì họ thú thật rằng đã quên. Nhưng Nguyễn Duy sau đó có đặt điều kiện là sẽ in Thiệp nếu có lời giới thiệu của tôi. Đi công tác Campuchia về, trong một tuần trước khi sang trường Gorki tu nghiệp, tôi viết bài tựa „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ cho tuyển tập của Thiệp. Như vậy bài đó ra đời trong một hoàn cảnh rất cụ thể, không có bài đó thì Nguyễn Duy không in tuyển tập của Thiệp. Tôi buộc phải viết, chứ không phải vì thấy rằng đó là một hiện tượng văn học quan trọng.

talawas: Nhưng sau đó ông có thấy đây là một hiện tượng văn học quan trọng không?

Hoàng Ngọc Hiến: Có, sau đấy nó thành một hiện tượng quan trọng. Nhân đây tôi muốn nói, không phải chỉ trong lĩnh vực phê bình văn học, mà trong mọi lĩnh vực liên quan đến việc đi tìm cái Thật, cái Đẹp, tôi càng ngày càng nghiệm ra câu nói của Évariste Galois, một nhà toán học Pháp thế kỉ 19, chết rất trẻ: „Chúng ta không đi đến chân lí, chúng ta chỉ va chạm vào chân lí.“ Trong công việc phê bình văn học của tôi, ở trường hợp bài „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ và một số bài khác, hình như tôi đã chạm được vào chân lí, chạm một chút.

talawas: Mà lúc ấy không biết mình đang chạm?

Hoàng Ngọc Hiến: Vâng, lúc ấy không biết.

talawas: Nhưng những cú chạm may mắn ấy không dành cho tất cả mọi người.

Hoàng Ngọc Hiến: Thì đúng rồi. Mà ở chính tôi, không phải lúc nào nó cũng xảy ra.

talawas: Trường hợp của hai chữ “phải đạo” cũng như vậy sao? Có người nói rằng, chỉ để lại hai chữ „phải đạo“ là Hoàng Ngọc Hiến đã có thể hài lòng với sự nghiệp của mình.

Hoàng Ngọc Hiến:  Đúng thế, hai chữ “phải đạo” cũng ra đời trong một hoàn cảnh rất ngẫu nhiên. Dạo đó cuốn Cha và con của Nguyễn Minh Châu được giải thưởng văn học. Hôm ấy tôi cũng đến thư viện làm việc như mọi ngày (tôi nổi tiếng là người chăm đi thư viện, nhưng có gì đâu, đơn giản là nhà chật quá, không có chỗ làm việc thì phải ra thư viện), lúc ra sân đi dạo một lát thì gặp Hà Minh Đức. Hà Minh Đức hỏi tôi nghĩ như thế nào về cuốn sách ấy. Tôi nói, hai cha con trong cuốn sách ấy (cha là trung đoàn trưởng, con hình như là sĩ quan) trò chuyện với nhau. Trong thực tế, tôi đã nghe những bố con trò chuyện với nhau theo kiểu như vậy, tức cuốn sách ấy không bịa đặt. Nhưng người ta trò chuyện với nhau theo kiểu như vậy là vì phải đạo. Đấy là lần đầu tiên tôi dùng chữ này. Tôi cố tìm một chữ cho đúng với cuốn sách của Nguyễn Minh Châu, cuối cùng bật ra hai chữ „phải đạo“. Cũng ngẫu nhiên thôi, trong lúc đi dạo ngoài sân thư viện.

talawas: Và một lần nữa lại chạm vào chân lí?

Hoàng Ngọc Hiến: Vâng. Ngẫu nhiên. Thực ra chân lí định trước là một thứ rất nguy hiểm. Chân lí theo kiểu một cái đích, bắt mình phải đi đến nó, là rất nguy hiểm. Triết gia François Jullien, người mà gần đây tôi dịch khá nhiều, có nói rằng: Đạo phương Tây bao giờ cũng đặt ra một cái đích. Cái đích đó có thể là một Thượng đế, một đấng toàn thiện toàn năng, nhưng cái đạo của phương Đông thì thường không có đích, mà nếu có đích thì cái đích của nó là sự thay đổi chính bản thân nó. Tôi nghĩ cũng có thể đặt ra một cái đích nào đó, và trong lúc mình toàn tâm toàn ý đi tới nó thì rất có thể thỉnh thoảng chạm được vào chân lí, chứ vấn đề không phải là nắm được cái đích. Đích là ảo tưởng, nhưng trong lúc đi đến ảo tưởng thì bất chợt mình có thể chạm vào chân lí. Hai trường hợp vừa nêu, bài „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ và khái niệm „phải đạo“ là những kết quả bất chợt như vậy.

talawas: Sau cú „ngộ” bất chợt ở sân thư viện, ông liền viết bài về „Hiện thực phải đạo“?

Hoàng Ngọc Hiến: Không, phải một thời gian sau, năm 1979. Bài viết xong thì đem đăng, đơn giản thế thôi, không nghĩ nó sẽ gây chuyện om sòm đến thế. Bài ra xong, Chế Lan Viên có nói: Bài „Hiện thực phải đạo“ của tôi đi đến đâu là chia rẽ thành hai phe, một phe ủng hộ nhiệt liệt, một phe đả kích và mạt sát. Hình như Tố Hữu phản đối quyết liệt, nên đón ý Tố Hữu, người ta bố trí người để viết bài đập lại. Lúc đầu nhờ Lưu Quý Kỳ, nhưng Lưu Quý Kỳ không viết, thế là đến Tô Hoài, tiếp theo là Chế Lan Viên và hai ba người nữa, đăng trên Văn nghệ.

talawas: Ông Tô Hoài phản bác thế nào?

Hoàng Ngọc Hiến: Tô Hoài viết đại loại là Hoàng Ngọc Hiến đã quên mất đường cấm chỉ, đã vượt qua đường cấm chỉ.

talawas: Như vậy cũng có thể hiểu là một lời khen?

Hoàng Ngọc Hiến: Không, ông ấy phê, nhưng phê theo kiểu tinh tế.

talawas: Còn bài của ông Chế Lan Viên?

Hoàng Ngọc Hiến: Bài của Chế Lan Viên tên là “Thư gửi chị Kim Nga”, Kim Nga tức là “nước Nga mới”.

talawas: Theo ông Bùi Minh Quốc, trong bài “Làng văn một thời, và…”, Lê Kim Nga là tên thật của bà Vũ Thị Thường, vợ ông Chế Lan Viên.

Hoàng Ngọc Hiến: Thế à? Mọi người lại đoán rằng chữ đó ám chỉ việc Hoàng Ngọc Hiến đem tư tưởng xét lại từ nước Nga mới về Việt Nam. Nhưng màn kịch đươc chờ đợi nhất là cuộc họp toàn quốc của Ban Tuyên huấn Trung ương, mời đại diện của tất cả các tỉnh, các trường, các viện, do Trần Độ chủ trì, có Lê Đức Thọ dự từ đầu chí cuối, vào tháng Hai, tháng Ba năm 80.

talawas: Tức sau vụ “Đề dẫn” [2]?

Hoàng Ngọc Hiến: Vâng, sau vụ “Đề dẫn”. Trước cuộc họp, Nguyễn Đình Thi cho cậu con trai là Nguyễn Đình Chính đến gặp tôi, bảo rằng: “Bố em nói là ngày mai họ sẽ đánh anh đấy. Bố em bảo anh cũng nên lên phát biểu ý kiến, nhưng nói mấy câu quấy quá chống Tàu thôi rồi xuống, đừng cãi, đừng tranh luận gì cả”. Lúc đó đang có phong trào chống Tàu mà. Cuộc họp kéo dài ba ngày, hầu hết mọi người phát biểu ý kiến đều đá một câu về bài “Hiện thực phải đạo”, mặc dù chủ đề chung của cuộc họp là bàn về những vấn đề tư tưởng của Đảng hiện nay, chỉ riêng bên Đại học Sư phạm không nói gì. Tôi được phát biểu ý kiến vào buổi chiều ngày cuối cùng. Ngay câu đầu tiên, tôi nói rằng tôi lên đây không phải để trình bày hay thanh minh cho bài “Hiện thực phải đạo”, mà để nói về ba vấn đề tư tưởng khác. Hai trong số đó rất tiếc tôi đã quên, chỉ nhớ vấn đề về chuyên chính vô sản. Tôi cho rằng khái niệm chuyên chính vô sản do Karl Marx đưa ra ở thế kỉ trước đã lỗi thời. Chính Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đã phải đưa ra một khái niệm mới để điều chỉnh, là khái niệm “Đảng toàn dân”. Đảng ta cũng vậy, phải đưa ra một khái niệm mới là “làm chủ tập thể”. Ba ngày, tôi đăng kí, không được lên phát biểu. Còn nửa tiếng trước khi kết thúc thì mới được lên, tôi là người phát biểu trước cuối cùng, người cuối cùng sau tôi là Chế Lan Viên, họ sắp đặt rất cẩn thận. Chế Lan Viên phát biểu đại loại rằng, tư tưởng của anh Hiến không phải là Mác-Lê, mà theo Kant.

talawas: Theo cái gì của Kant?

Hoàng Ngọc Hiến: Chẳng biết ông ấy định nói đến cái gì của Kant, cứ nhằng nhịt thế thôi, cái nước mình nó như vậy. Có một chi tiết thế này: Trong lúc giải lao, có cà phê, kẹo lạc, Nguyễn Duy Bình và tôi đang ngồi cùng một bàn thì Lê Đức Thọ đến, ngồi cùng. Ông ấy nói những chuyện rất đời thường, thí dụ: “Trong kháng chiến, tôi cắt tóc thế nào cũng được, nhưng bây giờ hoà bình rồi, cắt cũng phải có kiểu của nó”. Nhưng việc Lê Đức Thọ ngồi vào mâm của tôi, ngồi rất lâu, hơn nửa tiếng, chỉ nói chuyện ngụ ngôn thế thôi, được cả hội trường chú ý. Chế Lan Viên thấy thế, có lẽ nhột, đi đi lại lại ngay sát bàn chúng tôi, mấy lần, cuối cùng thì béo vào vai tôi một cái, bảo: “Vừa rồi tôi có nói gì hơi quá thì anh bỏ qua cho tôi nhé”. Rất buồn cười, cái nước mình nó thế! Béo vai tôi một cái. Rất nhà quê.

talawas: Tác giả của “Điêu tàn” đấy ư?

Hoàng Ngọc Hiến: Nhà thơ lớn nước mình cũng nhà quê, cũng trẻ con cả thôi, cả nước mình nó thế: Nhà quê và trẻ con.    

talawas: Thưa ông, chúng tôi đang ghi âm cuộc phỏng vấn.

Hoàng Ngọc Hiến: Cứ ghi, không sao cả. Đấy là nhận định cơ bản nhất của tôi. Đến lúc ông Lê Đức Thọ tổng kết hội nghị, về bài của tôi ông ấy nói: Anh Hiến là Mác-Lênin chứ chẳng căng kiếc gì.

talawas: Ông Lê Đức Thọ nói „chẳng Kant“, hay „chẳng căng kiếc“?

Hoàng Ngọc Hiến: Chẳng căng kiếc gì. Thế là xong. Tôi tưởng là thoát, cuối cùng vẫn không thoát. Ông ấy nói thế, nhưng người ta làm khác. Khoảng hai tuần sau tôi nhận được quyết định thôi chức chủ nhiệm Khoa Viết văn Nguyễn Du của Trường Đại học Văn hoá, sang làm chuyên viên bình thường, nghiên cứu văn học thế giới, tại Viện Văn hoá.

talawas: Có một cái mốc nào rõ ràng cho việc ông được phục hồi không?

Hoàng Ngọc Hiến: Có, nhưng rất lắt léo. Khoảng hai năm sau, ông anh tôi là Hoàng Xuân Di mất. Ông ấy là Vụ trưởng Vụ Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn mà ông Tố Hữu là trưởng ban. Tố Hữu có đến đám tang. Tôi là em trai gần nhất, làm chủ tang. Đang lo cám ơn mọi người thì ông Tố Hữu đến gần, ghé tai: “Đồng chí sẽ hoạt động trở lại”, giọng Huế trầm, nhỏ, nói xong đi ngay.

talawas: Nghe cứ như chuyện hội kín.

Hoàng Ngọc Hiến: Vâng, bí mật lắm. Nhưng cũng có thể trông thấy tôi ở đám tang, chắc Tố Hữu mủi lòng. Sau đó, một hôm tay bí thư chi bộ ở Viện Văn hoá hỏi tôi có muốn gặp ông Hà Xuân Trường không. Tôi đáp có. Rồi lên gặp ông Hà Xuân Trường, Trưởng Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương. Ông ấy bảo: “Tôi muốn đưa anh trở lại Trường Nguyễn Du, ý kiến anh thế nào?” Tôi nói: Tốt quá, tôi muốn làm công việc mà tôi thích. Ông ấy lại hỏi: Hiện nay anh có nguyện vọng gì? Tôi nói: Tôi có một bản thảo sáu trăm trang, dịch toàn bộ những bản trường ca của Mayakovsky, đưa nhà xuất bản hai năm nay, chưa thấy động tĩnh gì”. Hai tuần sau Thúy Toàn đến gặp tôi, bàn về việc in bản thảo đó..

talawas: Trở lại vụ tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp, thông thường văn học phát triển theo một tiến trình, mỗi giai đoạn có những thành tựu nhất định của nó. Giai đoạn tiếp theo phải đứng trên những thành tựu của giai đoạn trước để đi tiếp, chứ không phải lại quay về điểm xuất phát trước đó, cũng như không thể đang học lớp năm lại lộn về làm những bài tập của lớp một. Sự kiện “Hoa thủy tiên” vừa rồi cho thấy, dường như phần lớn các thành tựu trong quan niệm, nhận thức và cả kiến thức văn học của 15 năm trước đó, tính từ ngày Đổi mới, đều bị bỏ qua, dường như chúng chưa từng xảy ra, dường như chúng ta lại giải quyết từ đầu những câu hỏi từng được bỏ rất nhiều công sức để giải quyết. Thí dụ, một trong những điểm chốt trong bài của Trần Đăng Khoa là khẳng định rằng Nguyễn Huy Thiệp chỉ dùng phép nói ngược. Xem lại các tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp trước đây thì lập luận này thực ra không phải là phát hiện của Trần Đăng Khoa, mà nguyên là của ông tiến sĩ Đỗ Văn Khang. Như vậy chúng ta lại trở về nguyên chỗ cũ.

Hoàng Ngọc Hiến: Nghĩ như vậy thì sang trọng quá cho những người như Đỗ Văn Khang, Trần Đăng Khoa. Họ không nghĩ rằng thế là quay trở lại đâu. Họ không nghĩ nhiều đến thế đâu.   

talawas: Vậy họ nghĩ gì?

Hoàng Ngọc Hiến: Đơn giản thôi, họ nghĩ rằng phải hạ uy tín của Thiệp, cũng như ngày trước, trong làng có một tay địa chủ giầu sang có uy tín, muốn hạ thì phải dùng đủ mọi cách: Đấu tố, chửi, nhổ vào mặt. Bây giờ cũng vậy thôi. Trần Đăng Khoa tìm đủ mọi cách để hạ uy thế của Nguyễn Huy Thiệp. Thiệp là người sắc sảo, trí tuệ ư? Không, sắc sảo trí tuệ cái gì, chỉ có phép nói ngược thôi. Anh nói trắng thì nó nói đen, anh nói phải thì nó nói trái, Thiệp nó chỉ có thế, chứ chẳng có trí tuệ gì. Cái cách của Trần Đăng Khoa là thế.

talawas: Đơn giản vậy thôi sao?

Hoàng Ngọc Hiến: Đúng. Đối với Trần Đăng Khoa thì rất đơn giản. Nguyễn Huy Thiệp là thằng cường hào địa chủ trong văn học, cần phải lật đổ.

talawas: Dĩ nhiên có cách nghĩ rằng Nguyễn Huy Thiệp là “địa chủ cường hào”, cần phải trừng trị bằng “cải cách ruộng đất”. Nhưng cuộc tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp mười lăm năm trước ít nhất cũng đạt tới một thành tựu rằng Nguyễn Huy Thiệp không thuộc „thành phần phản động ngoan cố“ như vậy. „Cải cách ruộng đất“ đã được „sửa sai“. Bây giờ với vụ tranh luận mười lăm năm sau cũng về Nguyễn Huy Thiệp, chẳng lẽ lại tiếp tục áp dụng „cải cách ruộng đất“ hệt như cũ, bất kể những đợt „sửa sai“ lần trước?

Hoàng Ngọc Hiến: Ông Khoa và những người như ông ấy chẳng nghĩ gì đến tính lịch sử ấy đâu. Họ nghĩ đơn giản hơn nhiều. Họ muốn chôn, muốn đóng ván thiên cho Thiệp.

talawas: Những cá nhân ấy có thể nghĩ đơn giản, nhưng chẳng lẽ toàn bộ giới văn học và công chúng văn học lại phải mất thời gian làm lại những việc đã làm rồi?

Hoàng Ngọc Hiến: Chẳng ai mất thời gian nữa đâu. Tiếng nói của Trần Đăng Khoa bây giờ không có tác dụng gì. Cũng chẳng ai mất thời gian bác bỏ Trần Đăng Khoa. Lịch sử vẫn cứ đi, mà chính Khoa lại nhột, nên mới phải tìm cách thanh minh. Trong hội nghị lí luận phê bình tại Viện Văn học ngày 27.05. vừa qua, Giáo sư Phong Lê, nguyên viện trưởng, phát biểu mở đầu, nói thẳng trong hội nghị rằng, lời lẽ của Nguyễn Huy Thiệp thì không được nhã nhặn, nhưng phải nhận rằng Thiệp đã đặt ra những câu hỏi rất quan trọng về Hội Nhà văn. Bài phát biểu mở đầu hội nghị là rất đáng chú ý.

talawas: Như vậy theo ông, tầm nhận thức văn học nói chung trong giới chuyên môn và cả xã hội là không bị thay đổi qua sự kiện “Hoa thủy tiên” vừa rồi?

Hoàng Ngọc Hiến: Không, không bị thay đổi! Tôi bảo đảm thế.

talawas: Và chúng ta tiếp tục giữ những thành tựu đã đạt được, bất chấp một tai nạn như vừa rồi?

Hoàng Ngọc Hiến: Đúng, tôi thấy không nên quan tâm tới những tiếng nói như của Trần Đăng Khoa, Lê Văn Vọng, Chu Lai… phê phán Nguyễn Huy Thiệp vừa rồi. Ông Nguyễn Đăng Mạnh có nói, Trần Đăng Khoa là nông dân, tôi thì muốn thêm câu của Tản Đà: “Dân hai mươi triệu ai người lớn – Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”. Trần Đăng Khoa là nông dân và trẻ con, thế thôi. Tất nhiên cũng có tài năng, thần đồng nữa. Và hầu hết những người như Khoa cũng là trẻ con và nông dân. Người thì có tài, người thì bất tài, nhưng đều là trẻ con và nông dân cả.

talawas: Được làm nông dân và trẻ con thì cũng có nhiều ưu thế lắm. Những việc gì mình làm hỏng thì có thể xin lỗi, trẻ con không biết gì, nông dân thì ngu ngơ, đều được tha…

Hoàng Ngọc Hiến: Trong toàn bộ cái sự nhộn nhạo vừa rồi, họ sử dụng một đứa trẻ con.

talawas: Họ là ai?

Hoàng Ngọc Hiến: Họ là những người vốn đã chủ trương chôn Nguyễn Huy Thiệp, nhổ cái gai Nguyễn Huy Thiệp, nay lại bục ra cái vụ “Hoa thủy tiên”, làm sao họ chịu nổi.

talawas: Nhưng trong nhiều năm, trước khi xảy ra vụ Hoa thủy tiên, Nguyễn Huy Thiệp cũng sống khá thuận hoà với môi trường văn hoá đấy chứ?

Hoàng Ngọc Hiến: Cái đó có. Vì vậy bài của Nguyễn Bình có cái lí của nó. Nguyễn Huy Thiệp phải suy nghĩ về câu hỏi: tại sao không rút khỏi Hội Nhà văn.

talawas: Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn?

Hoàng Ngọc Hiến: Tôi là hội viên.

talawas: Vậy ý kiến của ông về Hội Nhà văn?

Hoàng Ngọc Hiến: Hội Nhà văn là một tổ chức của Đảng, như mọi tổ chức khác. Có những tổ chức tập hợp công nhân, nông dân, phụ lão, vậy cũng phải có tổ chức để tập hợp nhà văn. Nhân một dịp kỉ niệm năm mươi năm gì đó, khi ấy Liên Xô đã sụp đổ, tôi có viết một bài nói về ảnh hưởng của văn học Nga đối với Việt Nam. Tôi có đề cập đến việc mô hình đường lối tổ chức của Hội Nhà văn Liên Xô có phải là cái để mình theo nữa không. Tôi cho rằng việc Hội Nhà văn Liên Xô có một bộ máy lớn những nhà văn được bao cấp và tính chất quan liêu, viên chức của nó đã ảnh hưởng lớn đến ta. Ta đã mô phỏng họ, tạo ra một bộ máy quan liêu, lấn át tính chất nghề nghiệp. Ngoài ra Hội Nhà văn Việt Nam cần xem lại cơ cấu tổ chức. Lúc đầu nó là một tổ chức mang tính quần chúng, bây giờ có lẽ không thể tiếp tục như vậy.

talawas: Theo ông, mặc dù có một hình ảnh rất không đẹp về Hội Nhà văn nhưng một người như Nguyễn Huy Thiệp vẫn không ra khỏi Hội Nhà văn, lí do vì sao?

Hoàng Ngọc Hiến: Người ta lo cho đời sống của mình, mà đời sống thì nhiều chuyện lắm: Họ có cho mình đi nước ngoài không, rồi chuyện quyền lợi… Tuy vậy mà hội viên Hội Nhà văn được một số quyền lợi. Năm ngoái tôi cũng được bảy triệu. Ở Việt Nam bảy triệu không phải là dễ.

talawas: Tiền đó ở đâu ra?

Hoàng Ngọc Hiến: Ông Hữu Thỉnh lên xin chẳng hạn, rồi có những chính sách hỗ trợ gì đó… Đợt vừa rồi nhà nước trợ cấp cho Hội Nhà văn mấy tỉ, đem chia ra, người được ít như tôi cũng bảy triệu.

talawas: Ít hay nhiều căn cứ vào tiêu chuẩn nào?

Hoàng Ngọc Hiến: Cái đó tôi không hỏi, nhưng ai cũng được cả, chênh lệch không nhiều lắm. Ngoài ra, sống trong một chính thể như ở Việt Nam thì người ta cũng muốn được yên ổn, không bị A25 hay đám này đám nọ xía vào, làm cho mình mệt mỏi. Thiệp cũng là một người như mọi người, cũng lo những chuyện ấy, cũng cần một sự bảo hiểm. Nhưng đến cái Hoa thủy tiên và Mổ nhà văn thì tôi không hiểu nữa. Hay có khi Thiệp lại nằm ở một cái tuyến nào mạnh hơn tuyến của Thỉnh. Cái nước mình nó thế.

talawas: Hiện nay có dư luận gì về Mổ nhà văn chưa?

Hoàng Ngọc Hiến: Ồ, nhiều chứ. Quần chúng và đám trẻ rất thích, cứ thấy đánh nhau là thích.

talawas: Mổ nhà văn đã đăng chính thức ở trong nước?

Hoàng Ngọc Hiến: talawas đăng, rồi người ta in lại, bản copi lưu hành khắp nơi, bản thân tôi cũng được nhận hai bản.

talawas: Còn ý kiến của giới văn nghệ chính thống?

Hoàng Ngọc Hiến: Cái đó tôi không biết. Tôi cho rằng Mổ nhà văn đã đánh vào sào huyệt là Văn nghệ Quân đội. Trong vở kịch có một chi tiết: Trần Đăng Khoa vốn là người lương thiện hiền lành, nhưng trong một môi trường ô nhiễm, nên cứ bị ngấm dần, thành một con lợn bẩn thỉu. Cái môi trường ấy, mọi người hiểu ngay là Văn nghệ Quân đội.  Hiện nay Văn nghệ Quân đội mới là thành trì thực sự.

talawas: Còn Văn nghệ Công an thì sao? Có là một đối trọng không? Ít nhất về mặt kinh tế và chiếm lĩnh thị trường, phía Văn nghệ Công an hùng hậu hơn nhiều.

Hoàng Ngọc Hiến: Có thể. Nhưng Văn nghệ Quân đội là một thành trì. Nó biết, bây giờ nó mà lung lay là tan đàn xẻ nghé. Đấy là một đám không có tài, vì vậy phải co cụm lại, bảo vệ nhau cho bằng được.

talawas: Tên tác giả của Mổ nhà văn là Thích Thiện Ngân, được dư luận diễn nghĩa là «Thích Tiền Sạch», chứ không phải Nguyễn Huy Thiệp…

Hoàng Ngọc Hiến: Thích Thiện Ngân là nhân vật có thật, là một nhà văn trong xóm của Thiệp, sẵn sàng đứng ra nói rằng tôi là tác giả vở kịch, chứ không phải anh Thiệp. Thiệp đã sắp đặt đến mức như thế.

talawas: Thưa ông, chúng ta đang ở trong một cuộc phỏng vấn mà những chi tiết như vậy có thể được công bố.

Hoàng Ngọc Hiến: Không sao cả, chuyện này tôi có thể đảm bảo. Thiệp đã chuẩn bị rất chu đáo, không ai bắt bẻ được. Mưu mẹo lắm. Cái nước mình nó buồn cười lắm. Nguyễn Gia Thiều có một bài thơ rất ngắn, bốn câu: “Lép nhép vài hàng tỏi – Lơ thơ mấy luống gừng – Vẻ chi tèo teo cảnh – Mà cũng đến tang thương”. Có thế thôi mà cũng tang thương, đau khổ, tù đày, trốn tránh. Nước mình hoàn toàn thế. Có mấy củ tỏi mà cũng tang thương! Rất buồn cười! Có những anh đau khổ, có những anh tử vì đạo. Đạo gì mới được cơ chứ! Không có gì hết. Thế mà cũng đánh đập, phe phái, tang thương.

talawas: Như vậy mọi cách tiếp cận nghiêm túc, hàn lâm… đều không thích hợp?   

Hoàng Ngọc Hiến: Hoàn toàn không thích hợp. Tiếp cận theo cách dân gian thì được. Bỗ bã và dân gian thì rõ ra mọi việc.

talawas: Vậy những nỗ lực nghiên cứu một cách hệ thống, học thuật sẽ có hy vọng gì?

Hoàng Ngọc Hiến: Tôi nói vậy, nhưng dẫu sao trong một nước thì vẫn có elite, có tầng lớp ưu tú, đặc tuyển. Tranh luận học thuật ở một trình độ cao rất cần để tầng lớp elite này phát triển. Nhưng ngay cả elite mà nghiêm túc quá cũng không thể có ảnh hưởng trong hoàn cảnh Việt Nam.

talawas: Như vậy theo ông, những diễn biến vừa qua trong văn học không phải do chỉ đạo từ những cấp chính trị bên trên, mà chỉ là xung đột trong chính giới văn học với nhau?

Hoàng Ngọc Hiến: Chiến lược của nhà nước này, nhất là trong văn hoá văn nghệ, là chập chờn, khi thế này khi thế kia, khi đóng khi mở, nửa đóng, nửa mở. Cái chập chờn này theo tôi có cái lí của nó, thứ nhất nó vẫn phải đáp ứng với đòi hỏi phát triển, cấp tiến của thời đại, mà lại là thời đại thông tin; nhưng nó cũng phải làm khác đi để đáp ứng giới bảo thủ, tuyên huấn tỉnh chẳng hạn, họ có thể gửi thẳng kiến nghị lên Bộ Chính trị, rồi còn tuyên huấn công an, A25… Thế nên chỉ còn cách chập chờn.  

talawas: Còn về giá trị nghệ thuật của vở kịch Mổ nhà văn?

Hoàng Ngọc Hiến: Những vở khác của Thiệp để diễn thì không được, để đọc thì được. Nhưng vở này đem diễn có lẽ cũng vui, Thiệp cho mấy cô mặc xi-líp đi ra đi vào, chắc người đi xem rất đông. Cái nước mình nó thế mà.

talawas: Và cuốn tiểu thuyết Tuổi hai mươi yêu dấu?

Hoàng Ngọc Hiến: Tôi chưa đọc, tôi thấy chưa cần đọc.

talawas: Cách đánh giá phổ biến ở ngoài nước rằng đây là một cuộc đấu tranh mới giữa một bên là những người cấp tiến, tôn trọng sự thật, mà Nguyễn Huy Thiệp được coi là đại diện với một bên là những đầu óc bê tông có hợp lí không, hay là một cách đánh giá quá trầm trọng?

Hoàng Ngọc Hiến: Hữu Thỉnh đã phải quyết định chấm dứt việc phê phán Nguyễn Huy Thiệp, vì kéo dài thì không được gì, có khi lại lỗ vốn. Những bài phê phán Thiệp quá kém, mà những người thực sự có uy tín, nghiêm túc lại chưa lên tiếng. Hình như đây còn là chuyện cái thế. Cái thế của những người bảo thủ bây giờ là nói gì cũng không ai nghe.

talawas: Nhưng ai là người không thuộc phái bảo thủ?

Hoàng Ngọc Hiến: Hiện nay thì có thể phân biệt rất rõ. Người nào lên tiếng đả kích Thiệp lúc này là bảo thủ, hoặc nói theo ngôn ngữ phương Tây là thuộc cánh hữu. Với trường hợp talawas cũng vậy, Bây giờ ai lên tiếng phê phán talawas là bảo thủ. Thực ra cũng chỉ có thể giới hạn những người phê phán talawas, Nguyễn Huy Thiệp trong vòng một nhóm, trở đi trở lại có mấy người ấy. Bây giờ đúng là có hai vấn đề cụ thể, Nguyễn Huy Thiệp và talawas, để bộc lộ rất rõ trận tuyến. Đành rằng số đông, ở nước nào cũng vậy, thì bao giờ cũng thầm lặng. Còn lại, thiểu số ồn ào thì bộc lộ chỗ đứng của mình. Chu Lai, Khoa, Nghé Ọ[3]… bây giờ bị coi là hữu.

talawas: Bản thân ông nghĩ gì về quyết định tường lửa đối với talawas?

Hoàng Ngọc Hiến: Tôi cho rằng Nguyễn Khoa Điềm là người ở cái thế trên đe dưới búa. Búa ở đây là dư luận. Ông Điềm tuyên bố chuyện gì, người ta chú ý từng câu một. Còn phía kia là cái đám mà Nguyễn Huy Thiệp đụng chạm đến sĩ diện của họ, sự tồn tại của họ. Đó là mấy tay trong ,Văn nghệ Quân đội trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn. Đám ấy nhao nhao lên, gây áp lực cho ông Điềm. Ông Điềm là người cầm quyền, trong tình thế này tất nhiên phải lựa. Theo tôi biết, ông ấy đã tiếp Phạm Thị Hoài rất trân trọng. Bây giờ trong một tình thế không thể khác, ông ấy phải có quyết định khác. Chúng ta biết chính trị rất phức tạp, có rất nhiều chứ không phải chỉ có một áp lực. Phải lo nhiều bề, nhiều khi được một bề mà hỏng những bề khác, thế cũng chết. Mạnh Tử đã nói: Tôi không thích những người chỉ lo một bề mà để hỏng trăm bề. Nghiệp vụ của các nhà chính trị, sự sống còn của họ là tính toán nhiều bề. Mình ở địa vị họ, ở nước nào cũng vậy, mình cũng làm như họ.

talawas: Nhưng cả một hệ thống và guồng máy văn nghệ, truyền thông với hàng trăm nghìn nhân viên được sự bảo trợ toàn diện của nhà nước, muốn làm gì thì làm, muốn tuyên truyền gì thì tuyên truyền, có thể thay não sọ của cả một xã hội trong vòng một hai thập kỉ, có thể đè bẹp mọi chính kiến khác, thì đâu cần phải ngại những tiếng nói nhỏ bé ngoài luồng, lại vọng từ phương xa, như talawas? Chẳng phải đây là cuộc đọ sức giữa David và Goliath sao?

Hoàng Ngọc Hiến: Goliath gì đâu! Guồng máy ở Việt Nam trông thì hùng hậu nhưng chẳng ai hết lòng làm một việc gì, chẳng ai tha thiết, ráo riết làm một việc gì nữa. Đã lên đến chức này chức nọ thì người ta đều phải tính, mình được gì ở cái chức ấy. Làm gì cũng che chắn, cho qua chuyện thì thôi, không ai tự nguyện dốc lòng làm gì. Qua loa cả thôi.

talawas: Trong hội nghị lí luận phê bình tại TPHCM tháng 4 vừa rồi, khi được Anh Đức yêu cầu phải “uốn nắn” trường hợp Nguyễn Huy Thiệp”, ông Mai Quốc Liên dè dặt đáp rằng: Không ai trả tiền cho chúng tôi để làm chuyện đó…

Hoàng Ngọc Hiến: Đúng thế đấy, nhếch nhác lắm.

talawas: Theo ông, tình trạng không hết lòng này sẽ dẫn chúng ta đến đâu? 

Hoàng Ngọc Hiến: Tôi chịu, không hình dung được hậu quả, tôi chỉ biết đó là sự mục ruỗng. Quá trình là mục ruỗng, rồi hai hay ba tuần cuối cùng sẽ xảy ra những biến cố nào đó, nhưng chúng ta có thể lường trước được chuyện gì đâu. Nói rộng ra trong phạm vi cả thế giới, từ hai mươi năm nay có ai lường được gì đâu: Liên Xô sụp đổ, bức tường Berlin sụp đổ, toà nhà đôi ở New York bị cưa đứt.

talawas: Sang một vấn đề khác, vấn đề dịch thuật. Bản thân ông là người đã có nhiều công trình dịch thuật, ông có cho rằng dịch được 500 cuốn sách [4] quan trọng nhất thuộc mọi lĩnh vực tri thức của nhân loại là đời sống văn hoá, trí tuệ tại Việt Nam sẽ được một đà tiến đáng kể không?

Hoàng Ngọc Hiến: Dịch thuật theo tôi là một trong những vấn đề quan trọng nhất hiện nay, vì nếu không khéo thì đầu óc của trí thức chúng ta bị hư hỏng bởi những bản dịch tồi chứ không phải bởi không có sách dịch. Cách đây sáu tháng, Nhà xuất bản Giáo dục có đưa cho tôi một bản thảo dịch những bài phê bình nổi tiếng của Mỹ và Pháp, dịch giả là Lê Huy Bắc. Tôi không tưởng tượng nổi, sao nó lại sai một cách ngu xuẩn như vậy. Lê Huy Bắc hiện nay là người giỏi tiếng Anh nhất trường Sư phạm, và trường Sư phạm hiện nay là một trường đại học mẫu mực, trường điểm của nhà nước, tương lai của nền học thuật Việt Nam. Trong bản giám định gửi cho nhà xuất bản, tôi nói rằng, một cuốn sách ba trăm trang chỉ cần ba cái nonsens, ba cái contresens là tác giả và nhà xuất bản mất uy tín. Còn ông Lê Huy Bắc, một đoạn mười dòng của ông ấy đã có đến bốn cái contresens, tức dịch ngược hẳn ý của người ta. Như vậy vấn đề dịch thuật hiện nay rất đáng lo ngại. Ở nước ngoài có một số khá đông người Việt rất thông thạo ngoại ngữ, lại có trình độ chuyên môn cao và tiếng Việt cũng khá, nhà nước cần có chính sách để khuyến khích họ đóng góp vào việc dịch thuật. Nhưng lớp người còn thạo tiếng Việt ấy ở nước ngoài chỉ mười, mười lăm năm nữa sẽ hết. Một khâu quan trọng nữa là đào tạo dịch thuật. Dĩ nhiên học ngoại ngữ đại trà là quan trọng, quần chúng có được có những bằng A, B, C hay đại học gì đó cho một ngoại ngữ là điều tốt, nhưng đào tạo dịch giả thật sự lại phải theo một con đường khác. Mỗi dịch giả kế cận phải qua ít nhất là một bản dịch khoảng 300 trang của những tác phẩm khó, thí dụ François Jullien trong tiếng Pháp, hay Freud trong tiếng Đức, nhưng phải thực hiện bản dịch này dưới sự kèm cặp trực tiếp của một dịch giả lão thành thực thụ. Một thầy kèm một trò.  

talawas: Ai sẽ phân công người xứng đáng làm thầy để kèm học trò? Rất có thể một người được coi là thạo tiếng Anh nhất trường Đại học Sư phạm, chuyên gia về văn học Mỹ như ông Lê Huy Bắc sẽ được cử làm thầy?

Hoàng Ngọc Hiến: Đúng, sẽ có chuyện ngược đời như vậy, nhưng sở dĩ xảy ra chuyện ngược đời vì Lê Huy Bắc không được qua giai đoạn đào tạo thật sự với một người thầy xứng đáng. Nếu được học với tôi, tôi sẽ kèm xứng đáng, thì Lê Huy Bắc bây giờ đã là một dịch giả hoàn toàn khác. Nhưng vấn đề là ai trả tiền cho tôi để kèm từng chữ, từng dòng như vậy? Cái nhà nước này không biết trả tiền cho những chuyện như thế, họ không hình dung được mức thù lao cho những việc như thế.

talawas: Nhưng nếu biết trả thù lao cao cho những việc như thế, những người giỏi có “chen” nổi vào vị trí được thù lao cao ấy không? Hay cuối cùng vẫn là sự thống trị của cái dốt? Vì để cái dốt bị đào thải, cần một cơ chế cạnh tranh tự nhiên, không bị đường lối chính trị tư tưởng chỉ đạo và guồng máy quan liêu chi phối…

Hoàng Ngọc Hiến: Có lẽ thế. Mà chắc chắn thế. Lúc ấy thì họ sẽ không mời tôi, mà chắc sẽ mời rất nhiều những ông dốt.

talawas: Người ta thường cho rằng thương mại vô tổ chức là nguyên nhân của nạn dịch thuật hiện nay, nhưng chắc một dịch giả như Lê Huy Bắc không dịch vì lí do thương mại.

Hoàng Ngọc Hiến: Đúng như vậy. Không thương mại mà vẫn hỏng. Tôi thường nói với con gái tôi như sau: Giữa một người không dịch được hết, để lại mười chỗ trống, và một người dịch được hết song có một chỗ sai, thì người để trống mười chỗ là hơn. Quan điểm này của tôi hoàn toàn ngược với cách nghĩ của người Việt. Người Việt không bao giờ thừa nhận là có chỗ mình không hiểu. Không hiểu mà cứ dịch bừa, không chịu để trống những chỗ mình không hiểu. Đấy là một cái gì đã thành cố tật của người Việt. Làm sao có thể phổ biến đến giới dịch thuật và công chúng cái quan điểm này: Thà bỏ trống mười chỗ mà sau khi đã tra cứu khắp nơi vẫn không hiểu, nhưng còn lại thì dịch đúng hết, hơn là dịch được hết, không bỏ trống chỗ nào nhưng có một chỗ sai.

talawas: Các bản dịch sai thì thường chưa cần đối chiếu với bản gốc, chỉ đọc bản tiếng Việt đã có thể thấy là ngớ ngẩn. Nhưng sự ngớ ngẩn này vẫn lọt qua bình thường, ít khi bị phát hiện.

Hoàng Ngọc Hiến: Ở các nhà xuất bản hiện nay làm gì có người đủ trình độ để hiểu, đã thế lại không đọc đến nơi đến chốn, chỉ liếc qua rồi kí. Ngoài ra tôi có một luận điểm thế này: Ở trí thức Việt Nam, giác quan về sự ngớ ngẩn rất yếu, trước một câu nói ngớ ngẩn thường không có phản ứng gì hết, vì không nhận ra là ngớ ngẩn. Cách đây ba năm, trường Đại học Văn hiến của Sài Gòn có một hội thảo liên kết với môt trường đại học ở Versailles. Bên Pháp cử ba ông giáo sư mang theo ba bản tham luận sang dự. Tôi biết mình nghe không giỏi nên xin ba bản đó về đọc trước. Hôm sau ông thứ nhất lên nói, tôi đã đọc trước nên theo được. Ông phiên dịch dịch câu nào cũng sai, mà rất tươi cười, rất tự tin, tôi không nói điêu. Bên dưới không có phản ứng gì, chứng tỏ họ không nhận ra đó là sự ngớ ngẩn. Duy nhất có một ông từng học ở Pháp về nhận ra là sai thì có phản ứng. Còn lại, tất cả đều coi là bình thường. Ngày hôm sau đến lượt ông thứ hai. Tôi đã đọc rất kĩ bản tham luận của ông ấy mà không hiểu nội dung, nên hôm sau tôi không đi dự, vì có hiểu gì đâu mà dự. Ngày hôm sau nữa tôi lại đi. Có mấy người hỏi tôi: “Hôm qua sao anh không đi? Ông ấy nói hay lắm.” Làm sao biết là hay, vì vẫn chính ông phiên dịch của ngày hôm kia phụ trách, mà bản này lại khó hơn rất nhiều, khó đến mức ông Hoàng Ngọc Hiến phải chịu ngồi ở nhà vì không hiểu. Mà đấy là một cử toạ chuyên môn rồi đấy. Có lẽ cái đào tạo ở nước mình đã đến mức làm cho đầu óc người ta lộn xộn. Thí dụ như ông Đỗ Văn Khang mà giảng thì học sinh không hiểu gì cả, vì chính ông ấy không hiểu mình nói gì.

talawas: Ông Đỗ Văn Khang không hiểu mình nói gì, nhưng những người ngồi nghe có biết rằng ông ấy không hiểu mình nói gì không?       

Hoàng Ngọc Hiến: Trong một lớp bốn chục sinh viên thì thế nào cũng có hai, ba sinh viên thông minh, nhận ra điều ấy, nhưng lại thế nào được với ba mươi bảy đứa kia! Ba mươi bảy đứa kia cứ ngồi đực mặt ra đấy, không hiểu gì, không có ý kiến gì, lại thế nào được với đám đông ấy! Cái mục ruỗng của học thuật nước mình là ở đó, chứ những chuyện như làm bài thuê, mua tiến sĩ không đáng sợ lắm đâu. Đáng sợ nhất là giác quan về sự ngớ ngẩn gần như bị tê liệt. 

talawas: Có một khả năng nào để phục hồi lại giác quan đó?

Hoàng Ngọc Hiến: Có, nhưng phải lâu dài. Chẳng hạn phải xây dựng một, hai trường tử tế trong số mấy chục trường. Nhưng nhiều khi phải cần hàng thập kỉ, có khi hàng thế kỉ mới xây dựng được một trường tử tế. Những phát biểu về cải cách giáo dục hiện nay ở tình trạng là mọi người chỉ nói cái muốn của mình, phê phán hiện trạng, nhưng cái muốn của mình thì vô cùng, trong khi chỉ cần thực hiện được một điều thôi cũng đã cần hàng loạt yếu tố, phải có thời gian, phải có tiền, phải làm đi làm lại. Hiện nay cả nước gào lên về giáo dục, gào lên cái muốn của mình. Để bớt sự ngớ ngẩn, theo tôi phải phân biệt giáo dục elite và giáo dục đại trà. Với thiểu số đặc tuyển ở Việt Nam hiện nay, trước hết phải thực hiện những việc rất tầm thường, nhưng tầm thường thế thôi mà có khi còn chưa đủ sức. Cái nước mình nó thế. Chẳng hạn thiểu số ấy phải đủ sức sử dụng những công cụ tra cứu của thế giới, từ loại đơn giản lên dần những loại phức tạp hơn. Đó là nói đến thiểu số chọn lọc, mà đo trình độ dân trí là đo dân trí của thiểu số chọn lọc, chứ không phải của quảng đại quần chúng. Nói đến dân trí là nói đến giới trí thức. Nhưng chúng ta có một cái hồ đồ, cần phải giải quyết trước rồi mới bàn đến chuyện trí thức được. Cái hồ đồ ấy là thế này: Sau cách mạng thì một ông giáo viên cấp một là trí thức. So với nền tảng chung lúc ấy, xung quanh đều không biết chữ, thì giáo viên cấp một đúng là trí thức. Nhưng bây giờ, giáo viên cấp một có phải trí thức không? Anh mà bảo không thì nó đập cho anh vỡ mặt, nước mình nó rất khó như vậy. Thực ra khi nói đến vai trò của trí thức là nói đến vai trò của elite. Nếu cứ mập mờ, giáo viên cấp một cũng trí thức, cũng elite, thì không giải quyết được việc gì cả. Nếu có một ông giáo viên cấp một học nhiều, đọc nhiều, nhận thức cao thì đó chỉ là một ông, không thể tính tất cả hàng vạn giáo viên cấp một vào giới trí thức. Cách nghĩ phổ biến ở nước ta, cứ không lao động chân tay mà lao động trí óc là trí thức, không giải quyết được gì cả. Chưa rõ ràng trong cách nghĩ thì không bàn tiếp được.    

talawas: Xin hỏi ông một việc khác. Gần đây, Trường Viết văn Nguyễn Du khá mất uy tín, ông từng là một trong những người phụ trách trường này…  

Hoàng Ngọc Hiến: Đấy là một ví dụ tiêu biểu cho đường lối tổ chức ở nước mình. Trước đây người chịu trách nhiệm chính là anh Phạm Vĩnh Cư, một người mà tôi đánh giá là rất nghiêm túc. Nhưng rồi có chuyện Thái tử, tức Đặng Việt Bích, con trai ông Trường Chinh, về Trường Đại học Văn hoá với tư cách là hiệu phó. Thực ra ông ta muốn làm hiệu trưởng, nhưng không được, vì quá lười biếng, ngu dốt, nhếch nhác. Tất nhiên cái đám vụ trưởng ở bên trên phò cho ông ta rất ghê, Thái tử mà. Cuối cùng giải pháp là cho ông ta làm hiệu trưởng Trường Viết văn Nguyễn Du, để ông ta khỏi hậm hực về cái chức hiệu trưởng Trường Đại học Văn hoá. Thời đó tôi đã về hưu, Phạm Vĩnh Cư đang ở Pháp vài tháng, khi trở về không được ông hiệu trưởng mới là Đặng Việt Bích nhận nữa, mặc dù chẳng có tội tình gì. Đặng Việt Bích là người lười đọc sách, ngu dốt, ích kỉ, tiến sĩ ở Đức về, làm hiệu trưởng là phá nát Trường Viết văn Nguyễn Du. Nghe lời đám hữu khuynh trong Hội Nhà văn Việt Nam, ông ta làm một danh sách những người không được mời dạy ở trường, trong đó có tôi. Có những người rất trung lập, không theo phe phái nào, nhưng có hơi hướng cấp tiến một chút là không được mời. Như là Đỗ Lai Thuý chẳng hạn.

talawas: Dưới thời của hiệu trưởng Đặng Việt Bích, Trường Viết văn Nguyễn Du hoạt động ra sao?

Hoàng Ngọc Hiến: Khâu quan trọng nhất của Trường Nguyễn Du là chiêu sinh. Ở thời chúng tôi, mỗi khoá chúng tôi nhắm sẵn một số người chưa qua đại học nhưng có năng khiếu văn chương, có tác phẩm đáng chú ý. Trần Đăng Khoa cũng được chọn như vậy, học Nguyễn Du một năm rồi được cử sang Gorki. Hoặc Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương…, đều do chúng tôi nhắm trước. Không có Trường Nguyễn Du thì Nguyễn Bình Phương bây giờ chắc đang leo trèo cắt dán cho một cái ban tuyên huấn nào đó ở trung đoàn. Từ khoá 5 trở đi, ông Bích chiêu sinh cho Trường Nguyễn Du cứ theo cách của những trường khác, tức chấm bài thi, điểm cao thì lấy. Nhưng như thế không được. Đây có phải là chuyện cứ học văn hoá phổ thông giỏi là xong đâu. Chẳng hạn Bảo Ninh thi môn Sử bị điểm 0. Các môn thi gồm Sáng tác, Văn và Sử. Cứ theo cách của ông Bích thì Bảo Ninh trượt. Nhưng chúng tôi đã “chạy điểm” cho Bảo Ninh, cuối cùng cho 5 điểm. Không phải là giả mạo, mà nói hẳn với giáo viên sử, rằng thí sinh này có thể trở thành một nhà văn giỏi, để ông ta nâng điểm lên. Thế là Bảo Ninh lọt.

talawas: Hiện nay ông Bích còn làm hiệu trưởng không?

Hoàng Ngọc Hiến: Bị đẩy đi rồi, sang làm Viện phó Viện Văn hoá-Nghệ thuật.

talawas: Cùng cơ quan với Đỗ Lai Thuý?

Hoàng Ngọc Hiến: Không, Đỗ Lai Thuý không được về Viện Văn hoá-Nghệ thuật, mà về tạp chí Văn hoá-Nghệ thuật. Viện không nhận Đỗ Lai Thuý, vì Thuý giỏi quá. Còn Đặng Việt Bích vì ngu quá nên họ nhận ngay, làm ngay Viện phó. Cái nước mình nó thế.

talawas: Vậy số phận của Trường Nguyễn Du hiện nay thế nào?

Hoàng Ngọc Hiến: Họ vẫn chiêu sinh, nhưng không ra một cây bút nào cả, chắc chẳng còn ai nghĩ đến chuyện cứu Trường Nguyễn Du nữa đâu.

talawas: Những người như ông Đặng Việt Bích chiếm tỉ lệ bao nhiêu trong giới văn nghệ và trí thức Việt Nam?

Hoàng Ngọc Hiến: Công bằng mà nói, người như thế cũng ít chứ không phải là nhiều. Ngu và lười như ông ấy thì quá đặc biệt. 

talawas: Chúng ta sang một chuyện nữa: Ông có nhìn thấy những khả năng hợp tác giữa giới nghiên cứu và phê bình văn chương ở trong nước và hải ngoại không? Liệu các thành tựu của giới nghiên cứu ở hải ngoại có khả năng được phổ biến chính thức hoặc giảng dạy ở Việt Nam?

Hoàng Ngọc Hiến: Tôi không theo dõi được hết các thành tựu ở hải ngoại, theo tôi tác động quan trọng nhất từ hải ngoại là những bài dịch. Ở trong nước, sách mới của quốc tế về không có hệ thống, rất hú hoạ. Trong khi đó nhiều bài dịch ở hải ngoại, tôi thấy rất quan trọng. Thí dụ bài Chủ nghĩa kinh điển mới và văn hoá” của F. Turner, một tác giả Mĩ, do Nguyễn Tiến Văn dịch, đăng trên talawas. Đọc xong bài đó tôi phải tự nhủ: Đọc sách mười mấy năm nay, thấy vẫn chàng màng, nhưng bài này giúp tôi được rất nhiều. Đó là một bài vô cùng cơ bản, tôi đọc đi đọc lại mười mấy lần, rồi gửi cho Hữu Thỉnh, đề nghị cậu ấy đọc xong rồi gửi cho Nguyễn Khoa Điềm. Bản dịch của Nguyễn Tiến Văn quan trọng đối với tôi đến mức tôi lấy nó làm cơ sở cho một bài giảng của tôi tại Đại học Sư phạm trước các giảng viên và nghiên cứu sinh. Trong buổi đó, tôi cao hứng khuyên rằng các bạn nên đọc talawas thường xuyên. Thế là ngay sau đó, Đảng ủy Trường Sư phạm làm om sòm, lẽ ra tôi có hai buổi giảng thì sau buổi đầu tiên bị stop ngay, rất bất lịch sự. Ngoài việc dịch thuật, hải ngoại có thể cung cấp diễn đàn cho những người không công bố được ở trong nước. Điều đó rất quan trọng, để trong nước không thể bưng bít được.

talawas: Còn việc cổ xúy cho những trào lưu mới như Hậu Hiện đại, kéo theo một tranh luận mang tính nguyên tắc, chẳng hạn về thái độ đối với chủ nghĩa hiện thực hiểu theo nghĩa rộng nhất? Điều này rất quan trọng với Việt Nam, vì dường như chúng ta chưa bao giờ giải quyết nghiêm túc những vấn đề của chủ nghĩa hiện thực…

Hoàng Ngọc Hiến: Hậu Hiện đại nhìn chung là tái bút của Hiện đại. Có một câu của Paul Valéry găm lại trong tôi: “Các thử nghiệm của những chủ nghĩa hiện đại chỉ có ý nghĩa khi chúng được đưa vào chủ nghĩa Cổ điển Mới.” Cái Cổ điển Mới này gần tự nhiên hơn cổ điển cũ. Cổ điển Mới có khả năng tiếp nhận những thử nghiệm hết sức quan trọng của hiện đại. Trong nước hiện nay đang bắt đầu có sự dồn dập giới thiệu Hậu Hiện đại. Rất tốt, nhưng theo tôi không nên mất nhiều thời giờ về chuyện này lắm.

talawas: Ông có thể nói ngắn gọn về chủ nghĩa Cổ điển Mới? Là sự phục hồi những đại tự sự của thế kỉ 19 đã bị Hiện đại và Hậu Hiện đại phá vỡ?

Hoàng Ngọc Hiến: Đại tự sự là một chuyện khác, nhưng có vài tiêu chuẩn khiến chủ nghĩa Cổ điển trở thành một hằng số của lịch sử văn học: sự hàm súc, sự chính xác, sự chính xác của ngôn ngữ, sự chính xác của giọng điệu, cả sự chính xác của nghệ thuật bố cục… Mọi tác phẩm văn học lớn đều có sự chính xác này, trước hết là sự chính xác của từ ngữ. Chúng ta thường nói rằng mình yêu tiếng Việt, nhưng yêu như thế nào thì mơ hồ quá. Theo tôi, dùng tiếng Việt chính xác mới là yêu tiếng Việt, mà cái yếu nhất trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay là không chính xác về từ ngữ. Toàn dùng những từ chung chung, từ khuôn sáo, không chọn được từ chính xác, không chọn được giọng điệu chính xác. Một câu biết cách đặt đúng thì vào ngay cảm nhận của người đọc.

talawas: Những nghệ sĩ quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện đại như Franz Kafka hay Arnold Schönberg không nổi tiếng là những người đạt tới sự chính xác rất cao sao?

Hoàng Ngọc Hiến: Vâng, sự chính xác của họ sẽ được đưa vào chủ nghĩa Cổ điển Mới. Tôi có thể đảm bảo là từ 1945 đến nay những tác phẩm văn học Việt Nam hay đều là chủ nghĩa cổ điển.

talawas: Là cha đẻ của khái niệm chủ nghĩa hiện thực “phải đạo”, ông có nghĩ đến việc cho cái chủ nghĩa hiện thực đang tồn tại trong văn học Việt Nam đương đại một cái tên mới nào không? Chủ nghĩa hiện thực “phải chăng”, hay… “phải gió”?

Hoàng Ngọc Hiến: Tôi chỉ cần một chữ là đủ sống đời. Chữ “phải đạo” làm sập cơ bản một hệ tư tưởng, chủ nghĩa hiện thực phải đạo ra đời là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa biến luôn, bây giờ không còn có mặt trên văn đàn. Tôi bị đánh là không oan. Khái niệm ấy không mang tính thoá mạ, nó rất hiền lành, nhưng ngẫm ra thì nó nhếch nhác, buồn cười lắm. Cái nước mình nó thế. 

talawas: Xin cảm ơn ông Hoàng Ngọc Hiến.

Berlin, tháng 7.2004

© 2004 talawas

--------------

[1] Viết chung với Nguyễn Văn Thọ

[2] Tức bản „Đề dẫn“ của nhà văn Nguyên Ngọc, xin xem bài „Làng văn một thời, và…“  của Bùi Minh Quốc, talawas, 24.6.2004

[3] Nghé Ọ: Một nhân vật trong vở kịch „Mổ nhà văn“ của Thích Thiện Ngân.

[4] Theo đề nghị của nhà văn Ngô Tự Lập, talawas, 13.2.2004

Wednesday, May 26, 2021

Khi ghế ít đít nhiều

Chuyện đít - ghế:

Mang phong thơ đến nhà bề trên để xin ghế.

Sếp tươi cười, nói: “Không chú thì ai”. 

Tin tưởng và chắc mẩm. 

Thậm chí còn tổ chức liên hoan rồi.

Đùng cái, một thằng ất ơ từ đâu nhảy dù về, ngồi tót lên đầu. 

Ngỡ ngàng xen lẫn bẽ bàng, đến nhà trách:

“Anh đã hứa thế rồi. Sao lại thế?!”

“ Bố láo! Tao hứa bao giờ? Đấy là tao hỏi không mày thì thằng nào ngồi vào chỗ đấy. Tao hỏi mày chứ tao hứa hẹn gì? Biến!”

Lính mặt đỏ gay.

Sếp hạ giọng an ủi:

“Quả thực mày tốt, nhưng thằng đấy tốt gấp đôi. Nó lại còn tế nhị!”

Tế nhị?

Tế nhị là gì? Nghĩ mãi không ra, về nhà hỏi vợ, ngẫm nghĩ một hồi, chợt mụ réo lên:

“Thôi chết rồi! Ai bảo anh đi sếp có 1 lần?!”

Người đời sau có thơ than rằng:

“ Bao giờ quyết định trao tay

Làm việc vài ngày rồi mới yên tâm!” 

🙂 ST của đại ca Đào Trung Hiếu (Những câu chuyện thú vị)

Monday, May 24, 2021

Thuật cầm đầu thiên hạ

 LÀM CÁCH NÀO ĐỨA NGU THỐNG TRỊ ĐỨA KHÔN?

Ông hàng xóm hỏi tôi: "Người ta hay nói đứa ngu thống trị đứa khôn. Tôi vắt tay lên trán nghĩ mãi không ra. Làm gì có chuyện đó?" 

Tôi trả lời:  "Có chứ. Trong lịch sử nhân loại có đầy. Từ "hôn quân" có nghĩa là ông vua tăm tối, ngu dốt".

Ông hàng xóm lại thêm thắc mắc: "Nó đã có cái đầu tăm tối ngu dốt thì bằng cách nào mà thống trị được đứa khôn?"

Quả nhiên, câu hỏi này khó đối với nhiều người. Tôi thì hiểu đơn giản và trả lời luôn: "Nên hỏi Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không nổi tiếng thông minh, thần thông biến hoá, nhãn tuệ thấu suốt cả cõi ma quỷ lẫn thánh thần. Nhưng đành phải chịu sự thống trị của Đường Tam Tạng!"

Ông hàng xóm ồ lên: "Hoá ra bí mật nằm ở cái vòng kim cô!"

Tôi khen ông hàng xóm thông minh. "Ban đầu con khỉ kia bất trị, đến Ngọc Hoàng và cả Thiên đình cũng khiếp sợ. Nhưng sau khi bị Quán Thế Âm lừa cho vào đầu cái vòng kim cô. Thế là... Mà chưa hẳn con khỉ kia hàng phục ngay đâu. Chủ nhân của nó là Đường Tăng cũng chẳng biết gì hơn ngoài câu thần chú được Quán Thế Âm ban cho. Mỗi lần chờ con khỉ cãi là ông ta niệm chú. Thế là con khỉ kia loạn não, đau đớn đến điên loạn và chỉ biết cầu xin. Sau mấy lần như vậy, con khỉ chỉ cần thấy Đường Tăng chắp tay miệng lảm nhảm là tha thiết gọi sư phụ tha cho và tự động làm theo lệnh."

Ông hàng xóm mắt sáng lên: "Hoá ra, đứa ngu nhất thường không cần lý lẽ. Chỉ cần cái bửu bối chụp mũ là thống trị cả đứa khôn nhất. Tài thật. Tiên sư lão Ngô Thừa Ân!"

Tôi gật đầu: "Nhưng ông nên nhớ, đứa ngu ấy lại được tiếng từ tâm, tức nhân văn, nhân đạo đấy. Bọn ma quỷ sống được là nhờ sự từ tâm, nhân đạo, nhân văn theo cách ấy."

Chu Mộng Long 

Trang thơ phản biện

 Bài cũ, sau bài ChínhThức.

Tôi vừa gọi điện cho công an (an ninh, cấp cao) báo đã thôi phản biện chính trị. Lần nữa cảm ơn chính quyền đã cho nói.

Tôi nghĩ thế là đàng hoàng. Nhân tiện khuyên các bác, phản biện cũng được nhưng nhớ tu khẩu, không cực đoan, đa chiều và mang tính xây dựng. 

Nhân tiện post lại bài này để hiểu thêm. 

*

ĐƯỢC AN NINH ĐẾN CHƠI NHÀ

1

Đã vượt qua nỗi sợ,

Nay tôi chẳng sợ gì,

Ngoài dân tình loạn lạc,

Chiến tranh và chia ly.

2

Xã hội có phản biện

Là phúc cho nước nhà.

Người dân còn phản đối

Càng phúc cho nước nhà.


Là vì dân chưa chết,

Còn day dứt với đời.

Và quan trọng hơn cả -

Còn muốn được làm người.


3

Một cái trước tưởng đúng,

Bây giờ có thể sai.

Nếu thấy sai thì sửa.

Sửa cũng không chết ai.


Đảng tiếp tục đổi mới,

Dân chúng sẽ được nhờ.

Bỏ giáo điều cổ lỗ,

Dân chúng càng được nhờ.

4

Ba mươi năm đổi mới,

Đất nước khá hơn xưa.

Có tự do, dân chủ,

Dẫu chỉ mức vừa vừa.


Kinh tế phát triển tốt.

Dân có ăn, có tiêu.

Phải ghi nhận điều ấy

Công nhà nước rất nhiều.


Nhà nước đã cho phép

Người dân được kiếm tiền.

Trong chừng mực nào đó

Còn có cả nhân quyền.

5

Tôi chỉ nói sự thật,

Không muốn lật đổ ai.

Do không biết toàn cục

Nên có thể nói sai.


Nói sai thì xin nhắc.

Các anh thấy bài nào

Không đúng, không có lợi,

Tôi gỡ xuống, không sao.


Vì tôi và nhà nước

Chung mục đích - hết mình

Mong xã hội ổn định,

Dân hạnh phúc, an bình.


Yên tâm, để tôi nói,

Chừng mực và biết điều.

Một khi chán, không nói,

Mới đáng ngại hơn nhiều…

*

Tôi đã nói như thế

Trong chuyến thăm vừa rồi

Của một bác từ Bộ,

Ngỏ ý đến nhà tôi.


Khiêm tốn và lịch sự,

Thưa gửi rất đàng hoàng.

Nói chung là dễ mến,

Lời lẽ cũng nhẹ nhàng.


Bác còn mua ủng hộ

Cuốn Lược Sử Diễn Ca.

Tôi tặng thủ trưởng bác 

Cuốn Đức Phật Thích Ca.


Thế đấy, mọi chuyện ổn

Khi ta nói Với nhau.

Ngược lại, sẽ không ổn

Khi chỉ nói VỀ nhau.


Bằng chứng - Chưa thấy bác

Gọi điện yêu cầu tôi

Gỡ bỏ bài nào đó.

Thế là tốt lắm rồi.


Bài học - thấy bức xúc,

Mọi người chê thì chê,

Nhưng đàng hoàng, xây dựng,

Không báng bổ nặng nề.


Thái Bá Tân

Sunday, May 23, 2021

Tại sao nước Mỹ có những công dân ưu tú?

 HỌC VIỆN  WEST POINT            

Ở Mỹ, đi xin việc làm, nếu vào thấy có ứng viên tốt nghiệp trường West Point cùng tham gia thì thôi coi như mình cầm chắc rớt. Đi về cho nhanh, khỏi phỏng vấn nữa. Rất đông các CEO của các tập đoàn ở Mỹ tốt nghiệp trường West Point, tỷ lệ CEO trên sinh viên tốt nghiệp (nhớ là tỷ lệ nhé) cao hơn Harvard, Stanford hay Yale… 

            Ở Mỹ nghe ai nói tôi từng học ở West Point, người ta nhìn mình từ trên xuống dưới, như 1 thực thể lạ, một con người hoàn hảo. Không xếp hạng được vì nó không có tiêu chuẩn để xếp.

Vậy West Point là trường gì?

        Đó chính là học viện quân sự Hoa Kỳ. Điều khá lạ là mặc dù là học viện quân sự, nhưng lại cung cấp các quản trị cao cấp cho nền kinh tế Mỹ và thế giới. Sau 5 năm bắt buộc phải phục vụ trong quân đội, phần lớn họ rời bỏ binh nghiệp, học thêm một MBA rồi đi làm cho các tập đoàn. Rồi thăng tiến rất nhanh. Ở West Point, có một slogan là cứ đưa cho tôi một người không phải tâm thần, tôi đều có thể đào tạo thành 1 công dân ưu tú.

            Mỗi năm West Point chỉ tuyển khoảng 1300 người. Và trong 4 năm học, bắt buộc phải loại thải 10%/năm. Tức năm cuối chỉ còn dưới 1000 người  ra trường. Chương trình học từ thiên văn vũ trụ đến cách bắt tay, cách uống rượu vẫn tỉnh táo, cách gấp mùng mền chiếu gối đến tranh luận các tác phẩm của Victor Hugo. Trên thông thiên văn, dưới tường địa chất, giữa thấu nhân tâm. 

              Mình quen với anh bạn, tốt nghiệp trường WP và đang làm sếp một công ty đa quốc gia ở Singapore, mỗi lần gặp, ảnh kể về trường WP với một thái độ tự hào, mình nghe mà say mê, chiếc nhẫn biểu tượng của cựu sinh viên WP trên tay anh lấp lánh.

            Ảnh kể, sinh viên vừa vào trường đã phải bị khủng bố tinh thần. “Quan niệm là trụng nước sôi 100 độ rồi đem qua trụng nước đá”. Nên sau này, dù có sự khó khăn gì trong đời, họ cũng cảm thấy bình thường, chẳng xi nhê gì. Đầu tiên là họ nhốt sinh viên từng tốp vào trong phòng, sau đó 2h sau thì thả ra, yêu cầu trả lời các câu hỏi như :có bao nhiêu bóng đèn trong phòng, bàn ghế màu gì, lúc vào mấy giờ mấy phút, lúc ra mấy giờ mấy phút, người ngồi bên trái bạn có đeo đồng hồ không, người bên phải tên gì….

            Trả lời không được là tự động cuốn gói về nhà. Bài học đầu tiên về ÓC QUAN SÁT, cái quan trọng nhất của một nhà quản trị tài ba. Và bài học tương tự như vậy. Sau này, ảnh đem các bài học này chế biến lại thành tài liệu dạy sinh viên các đại học khác hay nhân viên thực tập cho tập đoàn, cứ 1 đứa “đoạt giải nhất ngáo ngơ toàn quốc” vào mà chịu học, 6 tháng sau thì lột xác thành 1 người mới hoàn toàn, thành Steve Job luôn.

            Rõ ràng việc  đào tạo rất quan trọng với người trẻ. Nếu chịu khó và có phương pháp đào tạo đúng, ngây ngô vẫn trở thành xuất sắc, vì chúng ta giỏi lắm chỉ sử dụng có 1/10 khả năng của bộ não. Giáo dục Mỹ nói chung là kỹ, vì họ đào tạo là cho nước Mỹ có thể sử dụng, không phải chỉ với mục đích xuất cảng  giáo dục như một số nước khác. Nên với sinh viên ngoại quốc, đầu vào cũng rất khó, phải vượt qua các kỳ thi như Toefl, SAT, GMAT, GRE…tuỳ theo cấp và ngành, còn trường nào không kiểm tra đầu vào, thì trường đó hoặc là diploma mill, hoặc không ai biết tới.

            Họ cho rằng, việc học viên có được các chứng chỉ này thể hiện sự nghiêm túc trong việc theo đuổi học thuật. Thật ra, các kỳ thi này, so với khả năng của sinh viên , thì chẳng là gì, vì để vào đại học , kiến thức còn khổng lồ hơn nhiều, khó hơn nhiều. Cũng vì là đào tạo để nước Mỹ có thể sử dụng, nên thời gian cũng lâu hơn, như MBA cũng phải mất 3 năm….so với 12 hay 18 tháng ở một số nước.

            Trở lại học viện WP lừng danh bên bờ sông Hudson, cách không xa New York, đây là ước mơ của mọi ông bố khi có đứa con ra đời, và muốn nó ” đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Đào tạo trở thành công dân có ích, giỏi giang, để thoả chí tang bồng hồ thỉ, vùng vẫy giữa đất trời.

            Khi 18-30 tuổi, trong lúc đám ngây ngô kia đốt tuổi trẻ trong các quán bar, các quán cà phê, vũ trường, rũ rượi xoã tóc đi ra đi vô vì không biết làm gì, suốt ngày chit chat nhăng cuội, ngủ nhiều hơn học và làm nên đầu óc u u mê mê, nông cạn, cái gì cũng làm biếng, cũng lười…thì các bạn này đã phải vất vả đầu tư trí lực và thể lực. Thư viện West Point mở 24/24, ở đó người ta thấy những cái đầu cắm cúi ghi ghi chép chép, những cuốn sách dày cộm phải đọc xong trong một vài ngày.

            Đọc nhanh và rất nhanh, để sau này đi làm, giấy tờ công văn, đọc nhanh  để phúc đáp, chứ thể loại thấy chữ nhiều đọc nhức mắt, thì thôi khỏi tuyển dụng.

            Nó đánh vần 1 công văn đọc xong mất hết cả ngày, năng suất lao động sẽ kém. Trí thức là phải đọc nhanh để làm việc giỏi, mà muốn đọc nhanh thì phải tập luyện. Kỹ năng thuyết trình, thuyết pháp sao cho người khác nghe mà rụng rời tay chân nằm trong chương trình học. Những bức tường ở WP luôn đông nghẹt học viên đứng nhìn vào đó, tập nói với bức tường, thu âm, nghe đi nghe lại, nói đi nói lại sao cho hay mới thôi.

            Dưới trời tuyết lạnh khủng khiếp, họ phải lăn lê bò trườn để tập thể lực. 5h sáng là kẻng đánh thức dậy, tập thể lực bằng các bài tập với cường độ nặng của vận động viên nhà nghề. Tập bơi, đứng nước 5h, ai đuối quá thì vớt lên, coi như rớt. Rồi tập vượt mọi địa hình. Rèn luyện thể lực sao cho mọi điều kiện thời tiết đều phải thích nghi, nóng 45 độ ở châu Phi hay âm 20 độ ở Alaska đều chịu được. Kỹ năng tồn tại và óc sáng tạo được chú ý đào tạo kỹ.

            Những lần trong đêm tối, họ bị thả giữa rừng, và tìm cách về lại trường bằng mọi khả năng có thể, nhìn các vì sao trên trời đoán hướng, tìm thức ăn, dựng lều. Kiến thức lãnh đạo phải có và phải nhớ vanh vách. Và có khi đang ngủ say giấc, 2h sáng bị đánh thức dậy để kiểm tra, với các câu hỏi như 10 vị tướng giỏi nhất mọi thời đại là ai, nếu bạn là Napoleon, bạn sẽ viết lại lịch sử của Waterloo như thế nào….Không trả lời được, phải đứng ngoài hành lang cả đêm để suy nghĩ. Đào tạo để mỗi WPer có được dáng vóc của một người mẫu, sức khoẻ của một vận động viên Olympic, trí tuệ của một học giả, ăn nói như một thuyết gia, cư xử như một chuyên gia tâm lý….

            Khi về già, họ thành lập các hội WPer alumni, đi câu cá bên bờ biển Caribe, đi ngắm hoàng hôn ở Bali, thong dong tự tại, phong lưu tuyệt đỉnh, vì ai cũng có một tuổi trẻ học và làm như điên. Còn có những người đàn ông trên đời, về già rồi, mà vẫn cứ vật lộn mưu sinh, xin tiền vợ, xin tiền con cái, thì cũng có thể họ kém may mắn, nhưng cũng có thể họ đã lãng phí tuổi trẻ một cách vô bổ trong các trò trai gái, ăn chơi đàn đúm, xài tiền của cha mẹ, hay đơn giản là lười nhớt thây. Làm biếng thì sau này phải khổ, thế thôi. Trách ai.

            Nhìn các học viên WP đánh đàn, nhảy, khiêu vũ, võ thuật, hát, ảo thuật, thám hiểm, vẽ…hay thậm chí tỉ mỉ ngồi cắt tỉa giấy để rèn luyện đôi tay khéo léo, bạn sẽ thấy mình sẽ phải cố gắng thật nhiều. Một ngày chỉ có 24h, là công bằng cho tất cả mọi người. Chúng ta phải ngủ 6-8 tiếng, ai cũng chỉ còn 16h trong ngày.

            Nên phải chia ra, làm gì, học gì trong quỹ thời gian ít ỏi đó. Một WPer nếu sáng sớm không nộp được bảng mô tả công việc trong ngày ( daily to-do list) cho bạn trưởng nhóm, thì coi như nắm chắc suất cuốn gói về quê. Không có chuyện ngủ dậy và ngày đó không biết mình phải làm gì.

            Sinh viên người Việt ở West Point khá đông, nhưng đều là  Mỹgốc việt Việt , nữ nhiều hơn nam. Du học sinh quốc tế ở WP một năm chỉ vài ba chục người , vì đầu vào khó quá. Con trai cả của thủ tướng Cambodia Hun Sen cũng tốt nghiệp trường này.

            Chúng ta  mà nhìn thấy cậu này, không mê thì thôi. Sáng  ngời từ ngoại quan đến nhân cách, mạnh mẽ nam tính và thông tuệ, quý phái từ cốt cách đến tinh thần, một nụ cười cũng chứa sự bao dung .

            Sự tranh chấp đền Preah vihear với Thái Lan, hai bên quyết không bên nào chịu nhường bên nào, thậm chí đã vang lên tiếng súng. Trước tình hình cấp bách đó, anh ta nhận nhiệm vụ của tổ quốc và lên đường đi đàm phán với người Thái. Và chỉ với ánh mắt ấm áp và vài câu nói sắc sảo theo phong cách West Point, bên Thái Lan phải xin lỗi và rút quân, nhường lại ngôi đền này cho quê hương Cambodia của anh…

Calvin Nguyen

Apr.22.2021

Saturday, May 22, 2021

Dù sao vẫn phải đàng hoàng

 9 câu nói của người già đáng suy ngẫm

Câu thứ 1: đừng bao giờ mong đợi bất cứ sự giúp đỡ về mặt kinh tế nào từ người khác. Tiền, đối với ai cũng đều không đủ dùng. (Học cách cho đi).

Câu thứ 2: bạn bè giúp bạn là thiện chí, là tình nghĩa; bạn bè không giúp bạn là lẽ đương nhiên, không nên ghi thù oán hận, người ta cũng không có nợ bạn! (Học cách cảm thông).

Câu thứ 3: cần phải biết rằng không có ai bắt buộc phải giúp đỡ khi bạn cần, chỉ có tự bản thân bạn mà thôi, vì vậy, khiến bản thân trở nên độc lập, kiên cường, vui vẻ và hạnh phúc, đây mới là điều bạn nên làm, dẫu sao thì thế gian này, chỉ có mình bạn bắt buộc phải đồng cam cộng khổ, cùng sống cùng chết với bạn mà thôi, bạn hiểu chứ? (Học cách kiên cường).

Câu thứ 4: đừng nhìn giàu nghèo để kết giao bạn bè, họ có hàng trăm nghìn tỷ đồng cũng không liên quan tới một cắc của bạn, đừng tự biến mình thành kẻ nịnh hót, theo đuôi. Ngược lại, vẫn có những người dù trong tay không có gì nhưng vẫn chia sẻ với bạn chiếc bánh bao chay duy nhất. (Học cách nhìn người).

Câu thứ 5: đừng vì “bạn bè giàu có về kinh tế” mà xa lánh “bạn bè giàu có về mặt tinh thần”. Dần dần, bạn sẽ hiểu ra, những người bạn giàu có về vật chất có thể đưa bạn đi ăn chơi hưởng lạc, nhưng cũng có thể đem tới cho bạn những rắc rối, phiền phức rồi bỏ bạn lại một mình với mớ bòng bong.

Còn những người bạn thật sự, những người bạn cổ vũ bạn về mặt tinh thần có lẽ chỉ có thể đưa bạn tới những cánh đồng, những dòng suối, con sông, nơi không có rượu ngon, không có sự hào nhoáng, không có sâm panh, sàn nhảy, nhưng họ có thể cùng bạn chạy, cùng bạn cười như một tên ngốc. (Học cách tự trọng).

Câu thứ 6: có thể tin tưởng rằng trên đời này quả thực tồn tại những tình yêu đơn thuần vĩnh cửu, nhưng nó chỉ thuộc về Ngưu Lang Chức Nữ, Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài hay Romeo và Juliet, bởi lẽ họ đều không sống lâu cho lắm, còn chúng ta thì ai cũng muốn sống lâu sống thọ. (Học cách trân trọng).

Câu thứ 7: bất kể bạn kết hôn vì điều gì, chỉ cần đã có con cái, bạn phải yêu cái nhà này, bất luận có xa cách, lạnh nhạt tới đâu, bạn phải có nghĩa vụ khiến nó ấm áp lên, bởi lẽ bạn là cha mẹ. (Học cách gánh vác trách nhiệm).

Câu thứ 8: thanh xuân của chúng ta chớp mắt một cái là sẽ qua, nếp nhăn cũng sẽ mỗi ngày một nhiều hơn, chúng ta không thể ngăn cản năm tháng làm phai tàn nhan sắc bên ngoài, nhưng chúng ta có thể khiến cái “tâm” bên trong của mình dần dần được mài giũa theo thời gian, giống như hạt cát bên trong những con trai, theo năm tháng sẽ dần dần trở thành viên ngọc sáng loáng, đợi tới khi chúng ta già đi, bước chân chậm chạp, ta vẫn có thể dùng sự lộng lẫy của viên trân châu thắp sáng lên đoạn hành trình cuối cùng! (Học cách trưởng thành).

Câu thứ 9: đừng chấp niệm, cố chấp, đời người có rất nhiều điều không như ý, thế giới không phải lúc nào cũng chào đón bạn, trái đất cũng không phải vì bạn mà quay, vì vậy đừng quá cố chấp muốn có được thứ gì đó, ngay cả bản thân chúng ta cũng chỉ là người qua đường trong cõi hồng trần, đến với thế giới bằng hai bàn tay không, vậy ra đi rồi còn có thể đem theo cái gì? (Học cách buông bỏ).

Sưu tầm (Những câu chuyện thú vị)

Friday, May 21, 2021

Tin xung đột Israel - Palestine

Nguyễn Quang Quý: Hamas ko thể ko nhận ngưng bắn. Hơn chục tướng, thủ lãnh bị DT bắn chết. Hầm chứa tên lữa bị hủy/sập. Đường tiếp tế bị ngăn.

Nữ chiến binh

Dung mạo ở thần thái hay tướng tự tâm sinh

 Cùng ngẫm VỀ KHUÔN MẶT 

Mỗi người đều do cha mẹ sinh ra, nhưng khi lớn lên khuôn mặt sẽ thay đổi dần theo tâm tính của mình. Vậy nên văn hóa phương Đông vẫn cho rằng “tướng do tâm sinh” là vậy.

Một lần, Tổng thống Mỹ, Abraham Lincoln phỏng vấn một ứng viên nam đến làm nhân viên cho chính phủ. Mặc dù người đàn ông này rất có tài năng nhưng vị Tổng thống vẫn không tuyển dụng.

_ Người phụ tá thấy vậy liền hỏi Tổng thống nguyên nhân vì sao?

_ Tổng thống nói: “Tôi không thích tướng mạo của người này”.

_Người phụ tá không hiểu nên hỏi lại: “Chẳng lẽ một người khi sinh ra đã không được ưa nhìn thì cũng là lỗi của họ sao?”

_Tổng thống Lincoln trả lời: “Mỗi người đều do cha mẹ sinh ra, nhưng sau 40 tuổi đều phải chịu trách nhiệm cho khuôn mặt của mình!”

Thực sự trong cuộc sống, con người đến tuổi trung niên, thì tướng mạo sẽ lộ rõ ra tính cách và phẩm chất của người đó. Người có tấm lòng khoan dung thì phần lớn sẽ có khuôn mặt phúc hậu. Người có tính tình hiền dịu thì tướng mạo sẽ đẹp một cách nhu hòa thánh thiện. Người có tính cách thô bạo lỗ mãng thì tướng mạo sẽ luôn là hung dữ. Người có lòng dạ nhỏ mọn thì phần lớn sẽ có tướng mạo xấu xí, hai hàng lông mày nhíu chặt. Có người tướng mạo lộ ra vẻ đặc biệt trẻ trung và xinh đẹp thì người này nhất định là đơn thuần lương thiện. Đây là do kết quả của quá trình tu dưỡng tâm tính và hành vi phản chiếu lên khuôn mặt. Cho nên tướng mạo cũng chỉ ra vận mệnh tương lai của người đó. Nhưng tướng mạo của một người là có thể từng bước cải biến được. Đặc biệt,tướng mạo đẹp là do sự quyến rũ từ trong nội tâm. Bất kể phúc báo nào đều là có nguyên nhân, cho nên dung mạo xinh đẹp cũng là có nguyên nhân từ tâm.

Để có tướng mạo đẹp ở tuổi trung niên, hãy thường xuyên tu dưỡng những điều sau:

1. Thường xuyên mỉm cười 

Có người nói, mỉm cười là cách để làm nở một bông hoa xinh đẹp nhất ở trên khuôn mặt. Người xưa có câu: “Tay hung không đánh mặt cười”. Nụ cười luôn làm rung động lòng người, khiến mọi người vui vẻ, thân thiết và gần gũi nhau hơn. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều quan trọng nhất, điều quan trọng nhất chính là, mỉm cười luôn mang đến cho người khác niềm vui và hạnh phúc, mang đến sự sự chia sẻ về tinh thần. Nếu như trên khuôn mặt thường xuyên nở nụ cười là có thể đem thiện ý truyền đạt cho tất cả mọi người. Đây chính là cách hoàn toàn không phải mất phí tổn mà lại tạo ra được giá trị lớn. Đây chính là phương pháp làm đẹp thuận tiện rất, kỳ diệu nhất.

2. Khen ngợi người khác nhiều hơn

Ai cũng đều muốn nghe những lời khen ngợi, khích lệ đặc biệt là lời khen ngợi đúng lúc. Các nhà khoa học đã làm một cuộc thí nghiệm đối với nước. Sự kết tinh hình dạng của nước có chịu ảnh hưởng của thanh âm bên ngoài. Tiến sĩ Masaru Emoto, giám đốc Viện Hado (tổ chức IHM) ở Tokyo, Nhật Bản đã tiến hành thí nghiệm sự biến hóa của nước dưới sự ảnh hưởng của âm thanh tác động bên ngoài và phát hiện: Khi ông phát những ca khúc nổi tiếng của Mozart và Beethoven rồi dùng kính hiển vi quan sát, ông nhận thấy các tinh thể nước sẽ thuận theo những giai điệu đẹp đó mà không ngừng có những biến hóa đẹp mắt.

Nói những lời dễ nghe thì các tinh thể nước cũng tạo thành những hoa văn hết sức đẹp mắt. Khi nói những lời khó nghe thì các tinh thể nước lại chuyển động hỗn loạn, không có trật tự. Vậy nên, nói những lời khen ngợi, khích lệ người khác cũng sẽ làm rung động tinh thần của họ. Và đồng thời, chính những lời thiện, lời tốt đẹp này cũng sẽ khiến bản thân mình càng thêm xinh đẹp hơn.

3. Nhẫn nhịn nhiều hơn, tức giận ít đi

Người mà có khả năng nhẫn nhịn, ít khi tức giận thì sắc mặt sẽ đẹp hơn. Trong cuốn “Phật thuyết tội phúc báo ứng" kinh nói rằng: Người xấu xí là do thường xuyên tức giận, oán trách mà thành. Người đoan trang trắng trẻo, vẻ mặt rạng ngời, thân thể mềm mại, gặp người, người thích là kết quả của tu nhẫn mà nên.

4. Luôn biết cảm ơn

Người biết quý trọng và có lòng biết ơn với hết thảy, từ bông hoa cọng cỏ, từ con người, đồ vật... thì tự nhiên trong lòng cũng phát sinh một loại cảm tình tốt. Nội tâm người đó lúc nào cũng tựa như nở ra một bông hoa thơm ngát hấp dẫn người khác. Người mà bên trong tràn đầy hương thơm như vậy thì bên ngoài cũng sẽ trở nên xinh đẹp rạng rỡ.

5. Sức mạnh của tâm niệm

Vẻ bề ngoài của một người là liên quan mật thiết với nội tâm bên trong của người đó. Tướng do tâm sinh, cho nên bên trong thiện lành thì bên ngoài sẽ xinh đẹp. Một nhà tâm lý học từng nói: “Tâm tình của một người là như thế nào thì cuộc sống của người đó sẽ là như thế, vận mệnh của người đó cũng sẽ lại giống như thế”. Vì vậy, nếu bạn mong muốn trở thành người xinh đẹp, thì trước hết hãy dùng tâm niệm tốt đẹp để đối đãi với thế gian. Khi đó bạn không những phát hiện ra mọi thứ đều trở nên xinh đẹp mà ngay cả tướng mạo của bản thân mình cũng ngày càng trở nên xinh đẹp.

6. Tiếp xúc nhiều hơn với người có tâm linh tốt đẹp

Người xưa nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là có ý nói rằng, nếu như bạn tiếp xúc nhiều hơn với người tốt, người có tâm linh tốt đẹp thì bạn sẽ chịu ảnh hưởng từ họ, dần dần bạn cũng trở nên giống như họ. Người đẹp không phải chỉ nói đến là vẻ đẹp bề ngoài mà quan trọng hơn là vẻ đẹp của tâm linh. Người có tâm linh đẹp thì dung mạo cũng sẽ đẹp!

St. Binh Nguyen Bui Thu Dung (Những câu chuyện thú vị)