Monday, December 15, 2025

Peres và Putin

Câu chuyện giữa Shimon Peres, người có 2 nhiệm kỳ Thủ tướng và 1 nhiệm kỳ quyền Thủ tướng Israel, với Vladimir Putin vào năm 2015, có thể còn được coi là lời khuyên với một số chính khách khác.

Ông Peres chốt hạ một câu khiến ông Putin lặng người: “Tin tôi đi, kẻ thù và hận thù là tổn thất lớn nhất trong cuộc đời. Anh đang đầu tư vào sự ngu ngốc”.

Nội dung cuộc nói chuyện tại buổi gặp mặt cuối cùng giữa cựu Tổng thống Israel Shimon Peres và Vladimir Putin năm 2015 gần đây đã được công bố. Ông Peres đã chân thành giải thích cho Putin, rằng tất cả sẽ mất hết và không còn gì có thể cứu vãn được, vì tất cả các nỗ lực hiện nay của ông Putin đang trở nên vô ích vì sẽ không thể đạt được bất cứ điều gì.

Ông Peres nói với ông Putin: “Anh đang ở độ tuổi 63, còn tôi đã 93 rồi, thế anh muốn đạt được điều gì trong 30 năm tới vậy? Anh đang đấu tranh vì điều gì thế? Vì dân tộc anh hay vì muốn là kẻ thù của người Mỹ chăng?”

Ông Putin đáp: “Không phải như thế”.

Ông Peres hỏi tiếp: “Nước Mỹ muốn chiếm một phần nước Nga chăng? Không, giữa anh và ông Obama có những vấn đề không hiểu nhau chăng?”

Ông Putin vặn lại: “Tại sao ông lại nói vậy?”

Ông Peres trả lời: “Hãy nghe tôi đi, tôi không phải là gián điệp, anh có thể tâm sự với tôi về tất cả kia mà”.

Ông Putin hỏi tiếp: “Thế ông nghĩ sao?”

Và ông Peres liền trả lời: “Hoàn toàn không phụ thuộc vào những gì anh gây ra, nước Mỹ sẽ vẫn chiến thắng đấy”.

Ông Putin hỏi:  “Tại sao như thế?”

Ông Peres trả lời: “Vì họ là những người hạnh phúc, còn anh thì không!”.

Ông Putin cười.

Và ông Peres nói tiếp:“Mỗi ngày, khi một người Mỹ tỉnh dậy vào buổi sáng, anh ta nhìn thấy gì nào? Nhìn về phương Nam là đất nước Mexico họ giang tay đón nhận những người Mexico ở trên đất nước mình. Nhìn về phương Băc, nước Canada, người Canada chẳng phải là những người bạn tốt nhất trong thế giới này sao?

.Vậy thì Obama còn phải lo lắng gì nữa nhỉ? Còn anh, khi anh thức dậy vào buổi sáng, anh có biết chắc rằng ai là hàng xóm thân thiện của anh không? Trung Quốc, Afganistan, Nhật Bản à? Lạy Chúa! Họ biết rất rõ rằng anh có rất nhiều đất đai, và anh không chia cho họ một tấc nào cả đâu. Anh sở hữu tới 20% nước ngọt, nhưng lại có biếu không cho ai một giọt nào cả. đâu! Bởi vậy mà, khi tuyết tan ở vùng Siberia, điều đầu tiên mà anh sẽ nhìn thấy đó là những người Trung Quốc. Bởi vì hiện ở Viễn Đông họ có mặt rất nhiều trong khi tại đó lại có rất ít người Nga của anh”.

Ông Peres cũng đề cập vấn đề thứ hai với ông Putin: “Nước Mỹ là đất nước có sự phân bổ hợp lý nhất giữa diện tích, đất đai và dân số. Ở nước Nga sự phân bổ đó là tồi nhất. Hai mươi triệu cây số vuông. Ôi, lạy Chúa! Nhưng đất nước của anh không có đủ người để đến ở. Người Nga rồi đây sẽ chết dần. Đừng ảo tưởng trước những điều nịnh nọt và tán dương của bọn bồi bút nhé. Không ai tha thứ cho anh cả đâu. Tại sao người Nga tuổi thọ chỉ có 62  trong khi người Mỹ lại thọ đến 82 tuổi?”

Ông Peres lạnh lùng nói tiếp: “Anh hành xử như một vị Sa Hoàng. Các vị Sa Hoàng đã làm gì nào? Họ đã xây dựng hai thành phố St. Petersburg và Moscow như những cái tủ kính  bày hàng. Dù anh muốn hay không, anh sẽ phải thấy điều đó. Những phần còn lại của Nga thì chẳng khác nào đất nước Nigeria, nhưng khác chăng là nó phủ đầy tuyết. Những người dân của anh  đang hấp hối. Anh không cho họ cuộc sống tốt đẹp hơn. Anh có nghĩ rằng họ liệu sẽ tha thứ  cho anh chăng?”

Ông Peres ngừng lại rồi hỏi tiếp: “Thế tại sao nước Mỹ lại tươi đẹp?”

Ông Putin trả lời: “Bởi vì họ là những người hay viện trợ cho các nước khác”.

Ông Peres lại hỏi tiếp: “Tại sao Châu Âu lại có nhiều vấn đề?”

Ông Putin trả lời: “Bởi vì họ thủ cựu”.

Ông Peres tiếp tục giải thích: "Nước Mỹ hay đem cho, mọi người nghĩ rằng đó là vì họ hào phóng. Tôi thì nghĩ rằng đó là bởi vì họ là những người khôn ngoan. Nếu anh hay đem cho, anh tạo ra bạn bè. Việc đầu tư hữu ích nhất đó là gây dựng nhiều bạn bè. Người Mỹ có can đảm chấp nhận kế hoạch Marshall, đem một lượng lớn GDP của họ để cho một Châu Âu đang hấp hối sau chiến tranh lần thứ Hai. Và như vậy, họ đã chỉ ra rằng đó là sự đầu tư tốt nhất trên thế giới. Không có một quốc gia Châu Âu nào mà không trải qua thời kỳ đế chế, Sa Hoàng, Người Pháp và người Anh, người Bồ Đào Nha… và tất cả. Và điều gì đã xảy ra? Họ đã bị ném ra ngoài và không còn gì.

Nước Anh, một đế quốc lớn nhất, nơi mà "mặt trời từng chưa bao giờ lặn", có tất cả các đại dương, và rồi người thổ dân da đỏ tốt bụng đã đuổi họ đi và không để lại gì cho họ ngoài ba hòn đảo nhỏ, để rồi người Anh không biết phải làm gì.

Cuối cùng ông Peres chốt hạ một câu khiến ông Putin lặng người:

“Anh tin tôi đi, kẻ thù và hận thù là tổn thất lớn nhất trong cuộc đời. Anh đang đầu tư vào sự ngu ngốc.

Thái Bá Tân (dịch)

Sunday, December 14, 2025

Từ thành tích học tập đến thành tựu trong đời

ĐÂY LÀ CÁCH KHIẾN BẠN TRỞ THÀNH "TINH HOA" CỦA XÃ HỘI!

1. Gần 20 năm trước, có lần mình đi Thượng Hải công tác, đi hãng Shanghai Airlines (FM), máy bay xuống phi trường Pudong lúc 1h sáng. Các phương tiện công cộng đều đã nghỉ, hành khách chỉ có thể đi taxi về trung tâm, cách 40km.

Taxi ở TQ phần lớn là xe cũ, có khung sắt để bảo vệ tài xế. Mình ngồi phía sau, đưa miếng giấy có địa chỉ khách sạn cho anh tài xế, anh xác nhận là biết chỗ này, gần nhà anh. Mình tiết lộ đây là lần đầu đến Thượng Hải để m:ua máy móc và đang là trưởng phòng của 1 tập đoàn lớn. Trò chuyện 1 lúc thì mệt quá, ngủ gục, khi thức dậy thì thấy xe chạy vào một con đường rất vắng, không có đèn đường, chỉ thấy container cao chất ngất 2 bên.

Mình hỏi có đi đúng đường không sư phụ (trong tiếng Hoa, người ta thường gọi tài xế là sư phụ), thì "sư phụ" đáp là yên tâm, cỡ 10km nữa là tới, tao đi đường tắt. Nhìn lên đồng hồ tính cước thì thấy rất cao, so với sự tìm hiểu với khách sạn thì đã gấp đôi rồi, đ:ầu tiên nghĩ bụng chắc anh tài xế này chở đi lòng vòng để k:iếm thêm. Nhưng ngồi nghĩ lại, có thể chở mình vô bãi đất trống nào đó th.ủ t*êu hoặc có lần, anh Q bạn mình, đi Ấn Độ, đi taxi nửa chừng ở 1 làng hoang vắng thì mắc t:iểu, tài xế mở cửa cho ra vệ đường giải quyết nỗi buồn thì tài xế chốt cửa, vù xe đi m:ất, anh Q m:ất 2 cái vali đồ, kể cả cái túi xách nhỏ có hộ chiếu và cả điện thoại trên xe.

Cảm giác thấy lo, nhưng nếu nghĩ x:ấu về họ thì cũng không nên, chắc vẫn là người tốt. Nhưng rồi nghĩ lại, một thành phố gần ba chục t:riệu dân, đất chật người đông thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Mình ra đời làm thêm từ sớm, có sự lanh l:ợi ngoài đời mắc mớ gì phải ch*t ở đây. Oh no! Nghĩ xong, bèn móc điện thoại ra, giả vờ gọi cho người bạn, bảo là ngồi đợi tao nha, tài xế nói sắp tới rồi, tao đi xe taxi, biển số taxi là,...., tao đang đi ở khu container không hà, mày ráng ngồi đợi tao ở hotel nha". Đang nói thì thấy anh tài xế quay ngược xe lại, nói chạy nhầm đường, rồi chở mình về đúng khách sạn.

2. Có người học giỏi, đọc nhiều, mọi thứ có được do học thì họ có Book Smarts (sự giỏi giang sách vở). Còn có người thì không thích học chữ nghĩa, ngại đọc sách, ra đời va chạm sớm nên họ có Street Smarts (sự thông minh lanh lợi ngoài đường). Và cũng có người có cả 2, vừa giỏi giang chữ nghĩa, vừa tinh khôn ở chợ đời, và đó là tinh hoa của xã hội.

Mình gặp anh K ở Ba Lan, một doanh nhân lớn. Anh nói, thế hệ của anh là những người rất đặc biệt, vô t:iền khoáng hậu (trước đó chưa có và sau này cũng có thể không). Đó là những người học rất giỏi thập niên 80, xong cấp 3 với những thành tích học thuật vượt trội, thì được cử sang Liên Xô và Đông Âu du học. Do có đ:ầu ó:c tốt, nên chỉ cần 1 năm học tiếng ở ĐH ngoại ngữ, họ sang bên kia và hòa nhập ngày với sinh viên các nước bản xứ, dù là tiếng lạ, tiếng khó (tiếng Hung, tiếng Tiệp, tiếng Ba Lan,...).

Thế rồi biến động lịch sử, các nước bạn chuyển đổi mô hình kinh tế xã hội, những du học sinh này buộc phải vừa học vừa làm, phần lớn là b:uôn b:án quần áo giày dép, đồ điện tử gia dụng, đ:ánh h:àng từ TQ sang. Người này bày người kia, và là trí thức nên họ chia địa bàn với nhau để tránh cạnh tranh, và trong lúc làm, vẫn tranh thủ học để hoàn thành những bằng cấp phó tiến sĩ, tiến sĩ, cử nhân, kỹ sư....chứ ít ai bỏ học. Chính sự sắp xếp thời gian tối ưu để vừa làm vừa học, và đặc biệt là những kỹ năng Street Smarts có được do va chạm với xã hội, đã giúp các doanh nhân ở đây sau này rất thành công, dù họ ở lại hay về nước.

Một người có street smarts, họ có thể xây dựng cơ đồ từ 0 thành 1. Ra đường t:ay trắng, họ vẫn kiếm được miếng ăn, và có chút dư dả. Nhưng nếu một người chỉ có street smarts mà không có book smarts, thì tầm khó mà lên cao. Khi có chút đỉnh thì sẽ dừng lại để bảo toàn số v:ốn vì sợ, không dám bung lớn, không dám hùn hạp làm ăn. Tầm của họ và bạn bè thấp nên hùn ti:ền nhau sẽ cãi rồi tan rã. Đại đa số tiểu thương ở chợ hay trên phố, họ có street smarts, k:iếm được t:iền nhưng không lớn được. Và họ cũng không muốn lớn. Vì sợ m:ất. Có t:iền, nhưng không sang vì thiếu chiều sâu của trí tuệ.

Còn ngược lại, có book smarts không thôi, như đại đa số các bạn trẻ đang vô các trường kinh tế để học với hy vọng trở thành giám đốc, cứ thấy cái gì hay là xách giỏ tới học, sách nào hay là vội mang về đọc, thì chưa ai có thể trở thành chủ doanh nghiệp chỉ từ giảng đường hay sách vở. Họ có thể vào các tập đoàn để làm, vì trong đó có những đề bài có sẵn để họ giải, vì năng lực giải đề của họ rất giỏi.

Tức vào chỗ từ 1, họ có thể làm thành 2, 3....Còn kêu họ ra ngoài đời làm, bắt đầu chẻ củi rang đậu để xây dựng cơ đồ chẳng hạn, thì là điều không thể, vì 15 phút là mỏi l:ưng. Và thấy không việc gì phải hạ mình làm như thế. Cũng không thể ôm thùng hàng đứng đường rao bán, vì s:ĩ diện.

3. Nhiều người học cực siêu, tốt nghiệp các trường danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng sau này không thấy có thành tựu gì lớn, vì họ chỉ có kiến thức, không có street smarts để có được chữ dũng, chứ dám (v:ốn có được qua rất nhiều lần trực diện với s:inh - t:ử, được - m:ất, vui - buồn, đi - ở, giữ - buông...). Chỉ có những người vừa có đ:ầu ó:c và kiến thức (book smarts) và vừa thực tế cuộc sống dạy họ (street smarts), cộng thêm sự chịu khó chịu cực, và ý chí kiên định đến tột cùng, thì mới có thành tựu.

Bạn có thể hiểu vì sao, người chiến thắng trong các cuộc thi chữ nghĩa hay phỏng vấn mấy vòng để tuyển dụng, vào thấy họ làm không giỏi như những thành tích của họ trong quá khứ. Các tập đoàn lớn hiện nay đã thay đổi, sau khi qua những vòng thi về book smarts, họ yêu cầu những ứng viên này ôm thùng hàng ra chợ đứng bán, gặp tiểu thương đại lý để hoàn thành các bảng câu hỏi, hoặc cử tới nhà máy đứng làm sản xuất vài tháng, cử đến nơi xa xôi thử lửa vài năm trước khi rút về trụ sở chính và bắt đ:ầu công tác lãnh đạo. Trong quá trình đó, rơi rụng dần người tào lao, chỉ có những người đủ book smarts và street smarts, căng tràn nhiệt huyết của sự dấn thân và năng lực chịu đựng, mới thành hạt nhân lãnh đạo.

Bạn cũng có thể hiểu vì sao, những ông chủ Do Thái hay Hoa Kiều, họ thường b:ắt con cái họ, cỡ cấp 2 là phải bắt đ:ầu vào lao động với cha mẹ (cha mẹ có nông trại thì vô làm nông, có xưởng vô làm xưởng, có cửa hàng thì ra làm cửa hàng, có gì làm nấy...). 

Nhưng làm và học đi đôi, ở nhà cũng phải đọc sách, đi hội thảo, tự đào tạo thông kim bác cổ. Tất cả đều như tựa 1 cuốn tiểu thuyết lừng danh, "hãy để ngày ấy lụi tàn".

🎯 Thành công không đến với người chờ đợi, mà đến với người dám thay đổi tư duy và hành động đúng lúc.

TnBS

Saturday, December 13, 2025

Tự nhủ mỗi ngày

 HÀNH ĐỘNG CỦA BẠN SẼ QUYẾT ĐỊNH CON NGƯỜI BẠN

1. Mỗi buổi sáng phải nhắc nhở bản thân, bạn chính là người làm chủ cuộc đời của mình

Bạn chính là người làm chủ cuộc đời của mình. Bởi vậy, bạn cần tự hỏi bản thân rằng tất cả những gì bạn làm có thật sự đã tận tâm tận lực hay chưa? Bạn có cố gắng hết sức nắm bắt giành lấy cơ hội mới, hay nỗ lực hết mình để thăng tiến trong công việc? Bạn có hành động hay chỉ há miệng chờ sung, ngồi chờ đợi vận may đến với mình?

2. Kiên định sắt đá duy trì sự lạc quan

Cuộc sống của chúng ta không thiếu những lúc không như ý, khi mọi việc phát triển theo chiều hướng trái với những gì mình mong muốn. Đó là những điều bạn không thể kiểm soát được, nó sẽ luôn xuất hiện cho dù bạn có chuẩn bị kỹ càng đến đâu. Thay vì thao thức mất ngủ để lo nghĩ, chi bằng mỗi ngày hãy cố gắng ngủ sớm hơn một chút. Lúc thức dậy, tôi tin rằng các bạn sẽ có một cái nhìn mới mẻ, giúp bạn thoát khỏi cảm xúc tiêu cực đang dày vò bản thân. Điều này nghe có vẻ như đã cũ rích, nhưng bạn nhất định phải luôn giữ sự lạc quan, cho dù cơ hội thành công của bạn có nhỏ đến thế nào chăng nữa.

3. Thái độ quyết định thứ bậc của cá nhân trong xã hội, chứ không phải là tài năng thiên bẩm

Có một ông chủ đã viết câu nói này cho tôi ở phần cuối của email. Tôi cảm thấy câu nói này rất giá trị nên muốn chia sẻ lại nó cho các bạn. Nếu như bạn nuôi dưỡng bản thân bằng một thái độ sai trái, thì cho dù bạn thông minh tài năng, học ở những trường danh tiếng hay có trong tay hàng loạt những kinh nghiệm làm việc ở những công ty danh giá, tôi dám chắc bạn sẽ không thể đạt được một vị trí cao trong công việc. Thái độ quyết định tất cả, xin hãy nhớ lấy điều ấy.

4. Mục tiêu bạn đặt ra phải cao hơn kỳ vọng lớn nhất trong tương lai của bạn

Chúng ta thường tự hạ thấp năng lực thực sự của bản thân bằng cách đặt cho mình những cột mốc phấn đấu quá dễ dàng. Hãy thử thách bản thân bằng những mục tiêu cao hơn kỳ vọng lớn nhất trong tương lai của bạn, tôi tin chắc bạn sẽ ngạc nhiên trước khả năng làm việc của mình.

5. Tỏ ra khiêm nhường, lắng nghe ý kiến của người khác

Mặc dù suy nghĩ lạc quan có thể làm bạn phấn chấn tinh thần, từ đó giúp bạn gặt hái được rất nhiều thành tựu, chính điều này cũng có thể làm bạn trở nên tự cao tự đại, dương dương tự đắc trước những thành quả của mình.

Dựa theo kinh nghiệm của một số doanh nhân thành đạt, những người thành công nhất thường biết cách lắng nghe ý kiến của người khác. Thay vì trở nên quá tự tin trước năng lực của bản thân, bạn hãy tiếp thu những góp ý xung quanh để có thể hiểu rõ bản thân, biết được tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của bản thân mình, từ đó phát triển ngày một toàn diện hơn.

6. Bạn có thể làm bất cứ việc gì - miễn là việc đó có ý nghĩa đối với bạn

Chúng ta sinh ra trong một gia đình giàu hay nghèo, chúng ta được đi học hay không được đi học, hay bối cảnh xuất thân của chúng ta thuận lợi hay gian khó, tất cả những điều này đều không hề liên quan gì đến địa vị sau này của chúng ta trong cuộc sống.

Chỉ cần bạn yêu thích công việc của mình, bạn đã sở hữu trong tay vũ khí để đến được bất cứ địa vị nào bạn mong muốn trong cuộc sống.

7. Những khó khăn mà trời giáng xuống đầu bạn cũng chính là cơ hội để bạn trưởng thành

Chúng ta thường có xu hướng mặc nhiên cho rằng sự việc phải diễn ra theo đúng chiều hướng mình mong muốn. Lúc sự việc xảy ra không thuận lợi, chúng ta sẽ cảm thấy mất niềm tin vào cuộc sống, và ngay lập tức nhụt chí và trở nên quá yếu đuối để ứng phó những vấn đề có thể diễn ra.

Tuy nhiên, sau đó vài năm, khi chúng ta nhìn lại những gì đã qua, tôi tin rằng những bất lợi và cản trở mà bạn đã gặp phải ngày nào sẽ trở thành một cánh cửa rộng lớn mở ra những cơ hội mới trong cuộc đời mình.

Và sau cùng, bạn sẽ nhận ra tất cả những điều bất lợi ngày nào xảy đến với bạn, lại góp phần rất lớn giúp cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn.

8. Muốn thành công, hãy đứng trên vai ông chủ

Bạn có thể làm việc ở các tập đoàn nổi tiếng hay những công ty lớn để thực hiện mục tiêu làm giàu của mình. Khi làm việc tại những môi trường này, nếu bạn muốn thành công, bạn phải biết mình muốn phát triển theo hướng nào, và làm thế nào để tận dụng triệt để hết các điều kiện hiện có của bản thân để hoàn thành công việc.

Chúng ta nên làm việc dưới trướng của một vài ông chủ để trau dồi kinh nghiệm bản thân. Ông chủ của bạn có thể là một người có trình độ chuyên môn cao, một người thấu hiểu tâm lý của nhân viên, hay thậm chí là một người vô cùng tồi tệ.

Dù ông chủ bạn thế nào, nếu bạn bình tâm suy nghĩ, bạn luôn có thể học được những bài học quý báu từ họ.

9. Thất bại không đáng sợ, nhưng bạn phải biết cách khéo léo xử lý những rủi ro

Muốn đạt được thành công, chúng ta buộc phải nếm đôi lần thất bại. Có những lúc, chúng ta gục ngã trên con đường mà mình nghĩ là chắc chắn dẫn tới vinh quang. Bạn không phải người duy nhất đâu.

Bất kể người thành công cũng đều phải trải qua vô số lần thất bại. Nhưng thay vì từ bỏ, họ kiên trì đến cùng với mục tiêu của mình. Kết quả là họ thành công và trở thành tấm gương của nhiều người. Đa phần trong số họ đều tinh nhạy trước những rủi ro mà mình phải gánh chịu.

Từ đó, họ cố gắng hết sức để giảm thiểu những rủi ro trên con đường tiến tới mục tiêu. Những thất bại trên đường đời giúp họ trau dồi thêm những bài học quý báu, điều này tạo nền tảng vững chắc cho thành công sau này của họ.

10. Kiên trì không lười biếng. Lúc bản thân ở trong nghịch cảnh, cũng không nhụt chí nản lòng

Nếu bạn có thể nhìn thấy ánh sáng của niềm hy vọng từ trong bi thương, thì một ngày nào đó hy vọng sẽ đến, thành công ngày sau sẽ càng tươi đẹp hơn. Không cần nhanh, miễn là đừng dừng lại. Hãy kiên trì trên con đường của mình, và bạn chắc chắn sẽ chạm được tới những danh vọng mà mình hằng mong muốn.

TnBS

Friday, December 12, 2025

Sinh ra để làm gì?

Cách Mình Tìm Ra Mục Đích Sống (Ikigai), Và Biến Nó Thành Dòng Tiền Bền Vững!

(Ngay cả khi đang ở trong trạng thái mơ hồ)

Có một giai đoạn khá dài, mình sống đúng “chuẩn chỉnh xã hội”:

- Công việc không tệ.

- Thu nhập đủ để không phải lo ngay ngáy.

- Mỗi năm vẫn có vài chuyến đi chơi “cho đỡ chán đời”.

Nhìn từ bên ngoài, đó là “ổn”.

Nhưng tối về, tắt đèn, nằm xuống, trong đầu chỉ còn một câu hỏi rất khó chịu:

“Cuộc đời mình… rốt cuộc để làm gì?”

Và đau ở chỗ này: Mình không hề lười.

Mình đã đọc sách, xem video, làm đủ mọi bài test tính cách, test nghề nghiệp, test Ikigai…như bao người 🙁

Nhưng càng tìm, mình càng… mơ hồ.

- “Mình thích nhiều thứ quá.”

- “Mình làm được nhiều thứ, nhưng cái gì là của mình nhất?”

- “Làm sao để biết mình không phí mất cả đời vào một hướng sai?”

Cho đến một ngày, mình nhận ra một nghịch lý:

- Mục đích sống không xuất hiện khi bạn cố móc nó ra bằng lý trí.

- Nó hiện lên khi năng lượng – kỹ năng – và hành động của bạn… giao thoa ở cùng một tần số.

Và chính lúc mình bớt cố “đẻ” ra purpose, bắt đầu sống như thể mình đã có nó, và mọi thứ từ từ xoay chuyển:

- Mình rõ hơn mình sinh ra để làm gì.

- Mình bắt đầu đóng gói nó thành những thứ có giá trị trao đổi (Value Exchange)

- Và biến nó trở thành một hệ thống để tạo dòng tiền bền vững, chứ không chỉ là “niềm vui nội tâm”.

Dưới đây là 5 chiến lược mình đã đóng gói lại.

Nếu bạn đang ở trạng thái mơ hồ, đây chính là lộ trình để vừa tìm được mục đích sống, vừa biến nó thành thu nhập!

P/S: Như thường lệ, cuối bài mình luôn có quà (Đó là “Ikigai Income Map”), để bạn không chỉ hiểu, mà còn kiếm được tiền từ cái mình sinh ra để làm.

Okay, vào bài thôi! 

Chiến lược 1: Mục đích sống không phải câu trả lời, mà là trạng thái bên trong!

Trước khi bạn “biết mình sinh ra để làm gì”, bạn đã phát một “tín hiệu” rất rõ:

- Có người phát tín hiệu: “Mình đang lạc lối, nhưng mình muốn hiểu bản thân.”

- Có người phát tín hiệu: “Thôi kệ, sống sao cũng được, miễn có lương.”

Vũ trụ không phản hồi theo lời bạn nói, mà phản hồi theo tần số bạn sống.

Hiện thực hoá không phải là ngồi viết 100 lần “Tôi giàu, tôi thành công” trên giấy.

Hiện thực hoá là:

“Mình chọn tin rằng cuộc đời mình có ý nghĩa.

Và từ hôm nay, mình sống như một người đang trên đường bước vào ý nghĩa đó.”

Ikigai, nói cho gọn, là:

- Cái bạn yêu

- Cái bạn giỏi

- Cái thế giới cần

- Và cái bạn được trả tiền

Nhưng nếu bên trong bạn là: “Chắc mình cũng thường thôi mà” thì bốn vòng tròn đó chỉ nằm trên giấy.

Trước khi hỏi “Mục đích sống của mình là gì?”, hãy hỏi:

“Mình có dám tin rằng mình xứng đáng có một mục đích sống, và xứng đáng được trả tiền vì sống đúng với nó không?”

Khi tần số này chỉnh, bạn sẽ không còn đi tìm purpose với tâm thế “xin cho”, mà bắt đầu tìm nó trong trạng thái:

“Mình biết bên trong mình có cái gì đó rất có giá trị.

 Việc của mình là bóc nó ra, nhìn nó cho rõ, rồi trao nó cho đúng người.”

Từ tâm thức đó, mọi quyết định sau này sẽ khác hẳn.

Chiến lược 2: Đừng ngồi đoán Ikigai – hãy biến nó thành chuỗi thí nghiệm (có bằng chứng)

Cách nhanh nhất để “không thể” tìm ra mục đích sống:

Là ngồi nghĩ một mình và chờ “đáp án đúng”.

Mình đã từng:

- Vẽ vòng tròn Ikigai trong sổ.

- Ghi đầy đủ “điểm mạnh – đam mê – giá trị”.

Rồi… đóng sổ, tiếp tục sống y như cũ 🙂

Mọi thứ chỉ thay đổi khi mình làm ngược lại:

Thay vì hỏi “Mục đích sống của mình là gì?”, xong bế tắc.

Mình tập trung vào:

“Trong 30 ngày tới, mình sẽ thử nghiệm những gì?”

Mình chọn ra 3 “vùng nghi vấn Ikigai”:

- Viết & kể chuyện.

- Coaching 1-1, đào sâu vào bên trong người khác.

- Xây hệ thống & sản phẩm giúp người khác thiết kế lối sống và tạo ra dòng tiền từ điều đó dễ hơn trong kỷ nguyên AI.

Rồi mình không ngồi tưởng tượng nữa.

Mình thử nghiệm thật:

- Viết bài đều hơn, coi loại nội dung nào khiến mình… phê, và người khác chạm (Tức là viral đó)

- Coaching free vài bạn, nhìn cảm giác bên trong mình thay đổi thế nào sau mỗi buổi.

- Đóng gói hệ thống mình đang xài thành mini offer, thử bán với giá vừa đủ xem thế nào.

Mình ghi lại:

- Cái gì khiến mình quên mất thời gian?

- Cái gì người ta cảm ơn mình nhiều nhất?

- Cái gì người ta sẵn sàng trả tiền, dù mình còn làm hơi… đơn sơ?

Okay, nhớ nè:

Ikigai không rơi xuống từ trời.

Ikigai được lộ diện khi bạn:

- Chọn 1–3 giả thuyết về việc “Có thể mình sinh ra để làm cái này”.

- Biến nó thành hành động thử nghiệm thật.

- Đo lại cả năng lượng bên trong lẫn feedback bên ngoài.

Từ mơ hồ → rõ dần (Do có bằng chứng)

Từ rõ dần → đóng gói (Tạo thêm niềm tin)

Từ đóng gói → thu tiền (Bắt đầu có “trách nhiệm” với mục đích sống của bạn)

Đó là cách Ikigai thực sự vận hành, không phải Ikigai trên nằm trên cuốn sổ tay của bạn!

Chiến lược 3: Mục đích sống phải được đóng gói thành giá trị cụ thể, chứ không phải caption cảm xúc

Có một cái bẫy rất “tâm linh”:

Cảm thấy rất “thức tỉnh”, rất hiểu bản thân,

nhưng… không ai biết phải trả tiền cho mình vì cái gì.

Mục đích sống không chỉ để bạn cảm thấy mình “đang thức tỉnh”.

Nó phải có hình dạng cụ thể trong thế giới vật lý:

- Một lời hứa: “Mình giúp ai, đi từ điểm A đến điểm B.”

- Một cấu trúc: 4–6 tuần, 3 tháng, 1 năm,… họ sẽ đi với mình như thế nào.

- Một kết quả đo được: thu nhập, sự rõ ràng, trạng thái bình an, kỹ năng mới,…

Ví dụ:

“Mình sinh ra để chữa lành, và cứu thế giới” → quá mơ hồ.

“Mình giúp phụ nữ từng bị bỏ rơi xây lại tự tin và tạo ra thu nhập riêng 20–30 triệu từ chính câu chuyện của họ” → bắt đầu thấy được.

Mọi thứ về tâm linh và không giúp bạn hay người khác thay đổi cuộc sống thì đó chỉ là phù phiếm. 

Và việc hiện thực hoá phải đến từ những dòng chảy rõ ràng.

Năng lượng của bạn → Được đóng gói lại thành một lời đề nghị → Được trao cho đúng người → Được quy đổi thành tiền.

Ngày mình dám viết rõ:

“Mình giúp những anh chị em kinh doanh tự thân có thể tìm được ý nghĩa cuộc đời, và biến lối sống cá nhân trở thành dòng tiền bền vững”

Là ngày:

- Những người “đúng tần số” bắt đầu tự tìm tới.

- Cuộc trò chuyện bớt lan man và đi thẳng vào kết quả.

- Mỗi lần có người chuyển khoản, mình biết rõ mình đã trao lại cái gì.

Mục đích sống + Sự thử nghiệm (hoặc trải nghiệm) + đóng gói = tài sản.

Mục đích sống + để trong đầu = nhật ký.

Bạn chọn mình sống như chủ tài sản, hay tác giả nhật ký, là tuỳ bạn.

Chiến lược 4: Khi bạn căn đúng trục giữa “Ikigai” và “tiền”, tiền trở thành… phụ phẩm

Ở chiến lược 3, mình có nói về tiền như một kết quả từ mục đích sống.

Nhưng ở chiến lược này, mình sẽ xoay chuyển tâm thức bạn 1 chút.

Mình nhận ra một điều khá thú vị:

- Khi mình bán từ năng lượng “Mình cần tiền”, tiền trở thành “người lạ”

- Khi mình bán từ năng lượng “Đây là công việc mình sinh ra để làm”, tiền trở nên rất… thân quen.

Ikigai không chống lại tiền.

Ikigai là sự kết hợp của ý nghĩa và sự đủ đầy.

Trong đạo, có câu: “Vô cầu tự đắc” – không phải “không cần gì”, mà là: 

“Mình không bám chặt vào kết quả, nhưng mình làm rất nghiêm túc phần của mình.”

Khi nói chuyện với khách,

Mình không còn cố chứng minh: “Em có mục đích lắm, em giỏi lắm, em ngon lành cành đào lắm… anh/chị phải mua của em.”

Mình chỉ đứng ở trục rất rõ:

 “Đây là thứ em được sinh ra để làm.

 Nếu anh/chị đang ở đúng giai đoạn này, em có thể giúp.

 Còn nếu chưa phải lúc, mình vẫn chúc nhau đi đúng đường.”

Khi xây dựng content,

Mình không còn nghĩ: “Post này phải ra bao nhiêu đơn?”

Mình chỉ hỏi: “Post này có giúp người đúng nhận ra ‘Đây là thứ mình cần’ không?”

Khi thiết kế chương trình:

- Mình không nhồi nhét để justify giá.

- Mình chọn những yếu tố thật sự tạo ra chuyển hóa.

Kết quả rất “kỳ cục”:

- Dòng tiền tăng trưởng “ổn áp”

- Tệp khách hàng chất hơn.

- Và mình không còn phải chạy theo thị hiếu, vì thị trường niche của mình đã tìm ra mình.

Khi bạn đứng ở trung tâm giữa:

- Thứ bạn yêu

- Thứ bạn giỏi

- Nhu cầu thật của một nhóm người

- Và mức giá khiến cả hai bên đều thấy “happy”

Tiền không phải “mục tiêu cuối”, nó là dòng chảy luôn đi qua bạn – miễn là bạn giữ cho trục mình không lệch.

Chiến lược 5: Mỗi ngày chỉnh 1%, rồi để cuộc đời… xoay nốt phần còn lại

Ngày mình quyết định thật sự sống theo Ikigai, mình không:

- Nghỉ việc hoặc đổi mô hình kiếm tiền ngay lập tức.

- Không bán sạch tài sản để “theo đuổi đam mê”.

- Không tuyên bố với thế giới: “Từ nay mình sống theo mục đích này kia!”

Mình chỉ âm thầm làm 3 việc, lặp lại mỗi ngày:

1/ Điều chỉnh tần số, bằng cách luôn nghĩ rằng: “Hôm nay, mình chọn tin rằng cuộc đời mình không vô nghĩa.

Mỗi việc nhỏ mình làm đúng hướng, đều đang tích lũy.”

2/ Làm một hành động vi mô “đúng trục”:

- Viết 1 nội dung từ Ikigai của mình.

- Giúp 1 người, free hoặc có phí, theo đúng thế mạnh mình muốn sống bằng nó.

- Chăm chút 1 mảnh hệ thống (email, tài liệu, workshop, sản phẩm,…).

3/ Quan sát lại và điều chỉnh:

- Cái này có làm mình thấy “đúng người, đúng việc” không?

- Cái này có giúp người đó tiến gần hơn tới điều họ thật sự muốn không?

- Mình học được gì về bản chất “mục đích” của mình sau mỗi lần thử?

Hiện thực hoá không phải là hy vọng vũ trụ giao hàng “mục đích sống + 9 chữ số doanh thu” tới cửa.

Hiện thực hoá là:

Bạn phát tín hiệu rõ ràng, bạn hành động đều đặn như người đã sở hữu cuộc đời đó,

và bạn sẵn sàng nhận những cơ hội đến dưới hình thù… không như bạn tưởng.

Nhìn lại hành trình của mình:

Từ một người mơ hồ, đọc rất nhiều nhưng không biết bắt đầu từ đâu.

Thành một người biết rất chính xác:

- Mình sinh ra để giúp ai.

- Giúp họ bằng cách nào.

- Và được trả tiền ra sao cho điều đó.

Đó không phải là “may mắn”.

Đó là kết quả của hàng trăm ngày tinh chỉnh 1%, và tin rằng mỗi % nhỏ đó đều có ý nghĩa.

—---

Yah…và nếu bạn cũng đang mơ hồ.

Không sao hết.

Trong Ikigai, sự mơ hồ không phải là thất bại.

Mơ hồ là giai đoạn “đất đang tơi ra” để gieo một hạt giống mới.

Điều quan trọng không phải là bạn có thuộc hết định nghĩa Ikigai hay đọc bao nhiêu sách về luật hấp dẫn, hiện thực hoá..v.v

Điều quan trọng là:

Hôm nay, bạn có dám tin mình xứng đáng có một cuộc đời trùng với mục đích sống của mình không?

Và bạn có dám làm 1 hành động nhỏ, đưa mình gần nó hơn… 1 bước không?

Maya đã thiết kế một “Ikigai Income Map” – bộ câu hỏi & khung thực hành giúp bạn:

- Gỡ mơ hồ về “Mình sinh ra để làm gì?”

- Xác định nhóm người bạn được sinh ra để phục vụ.

- Biến nó thành 1–2 hướng kiếm tiền bền vững, phù hợp với năng lượng & lối sống của bạn.

Nếu bạn muốn vừa tìm ra mục đích sống,

vừa học cách đóng gói nó thành dòng tiền bền vững,

🎯 Thành công không đến với người chờ đợi, mà đến với người dám thay đổi tư duy và hành động đúng lúc. 

TnBS

Thursday, December 11, 2025

Sống như nước

NƯỚC CHẢY MÃI MỚI THÀNH SUỐI, NGƯỜI KIÊN TRÌ MÃI MỚI THÀNH NGƯỜI

Có những câu tưởng như giản dị, nhưng càng sống càng thấy chúng soi vào mình một cách lặng lẽ mà thấm đượm, giống như cách dòng nước nhỏ bé chẳng cần ồn ào nhưng cứ đi, cứ chảy, cứ len lỏi giữa những khe đá lạnh lùng rồi một ngày trở thành dòng suối mát lành mà chẳng cần ai công nhận hay vỗ tay, và hình ảnh ấy khiến lòng người giật mình nhận ra: kiên trì chính là thứ duy nhất không bao giờ phản bội lại những ai dám đi đến cùng.

Bởi trên hành trình trưởng thành, đâu phải lúc nào ta cũng gặp trời trong và gió thuận, có những đoạn đường tối đến mức tưởng như bàn tay giơ ra trước mặt cũng không nhìn thấy, có những ngày mỏi đến mức chỉ muốn buông tất cả mà rơi vào khoảng lặng vô cùng, và có những khoảnh khắc ta phải tự thuyết phục mình rằng thêm một bước thôi, chỉ một bước nữa thôi, biết đâu ánh sáng đang chờ ở ngay phía sau.

Sự kiên trì vốn không ồn ào, nó không khoác lên mình màu sắc rực rỡ, không quảng bá, không khoe khoang, mà chỉ âm thầm gầy dựng từng chút một, như chiếc rễ nhỏ xé đất tìm nước, như mầm cây yếu ớt vẫn đâm lên dù đêm lạnh đến mấy. Và chính sự âm thầm ấy mới làm nên sức bền mà người đời gọi là bản lĩnh — thứ không ai trao, không ai dạy, chỉ có thể tự rèn từ những lần ngã, những lần hụt hơi, những lần muốn bỏ cuộc nhưng vẫn đứng dậy đi tiếp.

Ai cũng mơ thành công, nhưng không phải ai cũng chịu bước qua đoạn đường mà thành công yêu cầu; ai cũng muốn đổi đời, nhưng không phải ai cũng chịu đổi mình trước; và rồi ta nhận ra điều đơn giản nhất: người kiên trì không thắng vì họ giỏi nhất, mà vì họ là người duy nhất không dừng lại.

Và khi nhìn lại, ta hiểu một điều mà trước đây chẳng ai đủ sức nói cho mình nghe: con người không trưởng thành trong những ngày dễ dàng, mà trưởng thành trong những ngày phải cắn răng bước tiếp, dù trái tim nặng như đá.

Nước chảy mãi thành suối — còn ta, nếu đủ bền bỉ, sẽ thành phiên bản mạnh mẽ nhất của chính mình.Nước chảy mãi mới thành suối, người kiên trì mãi mới thành người.

Có những câu tưởng như giản dị, nhưng càng sống càng thấy chúng soi vào mình một cách lặng lẽ mà thấm đượm, giống như cách dòng nước nhỏ bé chẳng cần ồn ào nhưng cứ đi, cứ chảy, cứ len lỏi giữa những khe đá lạnh lùng rồi một ngày trở thành dòng suối mát lành mà chẳng cần ai công nhận hay vỗ tay, và hình ảnh ấy khiến lòng người giật mình nhận ra: kiên trì chính là thứ duy nhất không bao giờ phản bội lại những ai dám đi đến cùng.

Bởi trên hành trình trưởng thành, đâu phải lúc nào ta cũng gặp trời trong và gió thuận, có những đoạn đường tối đến mức tưởng như bàn tay giơ ra trước mặt cũng không nhìn thấy, có những ngày mỏi đến mức chỉ muốn buông tất cả mà rơi vào khoảng lặng vô cùng, và có những khoảnh khắc ta phải tự thuyết phục mình rằng thêm một bước thôi, chỉ một bước nữa thôi, biết đâu ánh sáng đang chờ ở ngay phía sau.

Sự kiên trì vốn không ồn ào, nó không khoác lên mình màu sắc rực rỡ, không quảng bá, không khoe khoang, mà chỉ âm thầm gầy dựng từng chút một, như chiếc rễ nhỏ xé đất tìm nước, như mầm cây yếu ớt vẫn đâm lên dù đêm lạnh đến mấy. Và chính sự âm thầm ấy mới làm nên sức bền mà người đời gọi là bản lĩnh — thứ không ai trao, không ai dạy, chỉ có thể tự rèn từ những lần ngã, những lần hụt hơi, những lần muốn bỏ cuộc nhưng vẫn đứng dậy đi tiếp.

Ai cũng mơ thành công, nhưng không phải ai cũng chịu bước qua đoạn đường mà thành công yêu cầu; ai cũng muốn đổi đời, nhưng không phải ai cũng chịu đổi mình trước; và rồi ta nhận ra điều đơn giản nhất: người kiên trì không thắng vì họ giỏi nhất, mà vì họ là người duy nhất không dừng lại.

Và khi nhìn lại, ta hiểu một điều mà trước đây chẳng ai đủ sức nói cho mình nghe: con người không trưởng thành trong những ngày dễ dàng, mà trưởng thành trong những ngày phải cắn răng bước tiếp, dù trái tim nặng như đá.

Nước chảy mãi thành suối còn ta, nếu đủ bền bỉ, sẽ thành phiên bản mạnh mẽ nhất của chính mình.

Tạp chí doanh Nhân

Wednesday, December 10, 2025

Câu chuyện Singapore

👉 Khi nói về Singapore, đa số chỉ nhắc đến hai điều:

kỷ luật thép của Lý Quang Diệu và chính sách tài chính – thuế tinh gọn.

Nhưng đó chỉ là “phần nổi” của câu chuyện.

✍️ Sự thật của Singapore nằm sâu hơn – và phức tạp hơn.

Đó là câu chuyện của một vùng đất được hệ thống Anglo-Saxon lựa chọn, và câu chuyện của những tầng lớp tinh hoa di cư đến đảo quốc này đúng vào khoảnh khắc lịch sử bản lề của thế kỷ 20.

Và chính hai yếu tố này kết hợp lại đã tạo nên kỳ tích Singapore.

1. Singapore – vùng đất được Anh và sau đó là Mỹ “chọn”, không phải tự chọn mình

Năm 1965, Singapore tách khỏi Malaysia.

Nhiều người tưởng đó là sự lựa chọn của chính người dân Singapore.

Nhưng sự thật là:

 • Anh rút khỏi Đông Suez nhưng vẫn muốn giữ một “điểm tựa” ở Đông Nam Á.

 • Mỹ cần một trung tâm thương mại – tài chính để đối trọng Trung Quốc và Liên Xô trong khu vực.

Trong mắt Anh – Mỹ, Singapore hội tụ đủ các điều kiện:

 • nhỏ → dễ kiểm soát;

 • vị trí chiến lược → nằm đúng đường thương mại huyết mạch;

 • không có tài nguyên → không có xung đột quyền lợi với cường quốc;

 • không có dân số nông nghiệp lớn → dễ tái thiết theo mô hình phương Tây.

Nói thẳng ra là: Singapore được chọn để trở thành “Hong Kong phiên bản Đông Nam Á”, một điểm cắm quyền lực mềm mới của trật tự Anglo-Saxon.

2. Cuộc di dân tinh hoa sau 1947–1949: mảnh ghép quyết định Singapore hóa rồng

Điều ít ai thấy là:

Sau khi Ấn Độ độc lập năm 1947 và Trung Quốc chuyển sang chế độ mới năm 1949, hàng triệu người thuộc tầng lớp:

 • thương nhân,

 • trí thức,

 • chủ doanh nghiệp,

 • những người giỏi tiếng Anh và quen luật Anh,

 • những người từng hưởng lợi từ mô hình thương mại phương Tây, đã mất chỗ đứng tại quê hương.

Họ sợ bất ổn, sợ tịch thu tài sản, sợ bị xem là “tư sản”, sợ xung đột sắc tộc.

👉 Và họ chạy:

Tất cả họ không phải ai cũng có thể chạy sang Anh hay Mỹ ngay được

Họ không thể quay lại Trung Quốc hay Ấn Độ.

Họ không muốn đến những vùng nông nghiệp truyền thống.

Điểm dừng hoàn hảo lúc đó họ lựa chọn chính là Singapore – nơi Anh vẫn bảo hộ và nơi đang mở ra mô hình mới của thời đại tài chính.

Đó là lý do Singapore hình thành một cơ cấu dân số cực kỳ đặc biệt:

 • 74% người Hoa – phần lớn là thương nhân chạy khỏi biến động 1949

 • 9% người Ấn – đa số là giới trí thức, kế toán, hành chính, nói tiếng Anh

 • 13% người Mã Lai – bản địa, nhưng không chi phối cấu trúc kinh tế

Nói cách khác: Đảo quốc nhỏ bé được “đổ vào” những gene tinh hoa mà lịch sử đương thời tạo ra.

3. Lý Quang Diệu chỉ làm một việc: xây quốc gia trên nền tảng gene thương nghiệp – gene Anglo – gene trí thức Ấn

Lý Quang Diệu là nhà kiến thiết vĩ đại, nhưng ông không tạo ra dân số Singapore.

Ông chỉ nhìn thấy chất liệu đặc biệt mà lịch sử trao cho ông:

 • người Hoa thương nhân

→ giỏi thương mại, kỷ luật, tiết kiệm, thực dụng

 • người Ấn theo mô hình Anh

→ giỏi hệ thống luật, hành chính, kế toán, y khoa

 • di sản Anh để lại

→ luật Common Law (luật thông lệ), tiếng Anh, hệ thống tài chính

Và ông ghép ba thứ này thành mô hình:

 • quốc gia thương mại

 • quốc gia cảng biển

 • quốc gia tài chính – ngân hàng

 • thiên đường thuế hợp pháp

 • trung tâm logistic và vốn quốc tế

Singapore không phát triển vì có nhiều người – mà vì có đúng loại người cho đúng mô hình kinh tế của thời đại.

4. Thiên đường thuế ngày nay chỉ là kết quả cuối của chuỗi biến đổi lịch sử đó

Singapore trở thành thiên đường thuế không phải vì thuế thấp đơn thuần.

Mà vì:

 • luật pháp kiểu Anglo tạo niềm tin;

 • dân cư tinh hoa hiểu văn hoá Anglo – giỏi tài chính;

 • cấu trúc thành phố – quốc gia gọn nhẹ;

 • vị trí địa lý hoàn hảo;

 • dòng vốn phương Tây chọn Singapore thay cho các điểm cũ bị biến động (Hong Kong sau 1997);

 • hệ thống ngân hàng sạch – minh bạch – đáng tin.

Nói cách khác: Thiên đường thuế chỉ là lớp áo mới của quốc gia đã được thiết kế để trở thành trung tâm tài chính từ khi còn chưa độc lập.

🛑 Sự thật ít người biết: 

Singapore không hóa rồng vì tài nguyên thiên nhiên

Không hóa rồng vì dân số đông.

Càng không hóa rồng vì may mắn.

Singapore hóa rồng vì họ là vùng đất được chọn, và vì những người tìm đến đảo quốc nhỏ bé này sau 1949 chính là những tầng lớp tinh hoa phù hợp nhất để vận hành mô hình Anglo-Saxon của thế kỷ 20.

Singapore chỉ là hòn đảo nhỏ.

Nhưng hệ gene của nó – cả về dân cư, văn hóa, luật pháp, dòng vốn – là hệ gene quốc tế hóa, tinh hoa hóa và Anh hóa.

Đó mới là bí mật mà ít ai thấy.

Nguyễn Thế Vĩnh

Tuesday, December 9, 2025

Tính khí đàn ông

NGƯỜI ĐÀN ÔNG BẢN LĨNH THỰC SỰ, LÀM NÊN SỰ NGHIỆP, GÁNH VÁC ĐƯỢC VIỆC LỚN NHẤT ĐỊNH KHÔNG THỂ THIẾU 4 CHỮ "KHÍ"

1. Chí khí

Cổ nhân có câu: “Nhân vô chí bất lập” không có chí hướng thì khó đứng vững ở đời. Mục tiêu chỉ trở thành hiện thực khi đi cùng ý chí mạnh mẽ.

Đời người ai cũng có lúc khó khăn, nhưng người có chí khí sẽ không bỏ cuộc, biết nhẫn nhịn, gánh vác và kiên trì đến cùng. Chính ý chí ấy là thứ quyết định thành bại và làm nên thành tựu xứng đáng.

2. Hòa khí

Hòa khí là sự bao dung, khiêm nhường và tinh thần hợp tác trong cách đối nhân xử thế. Đó là sự tu dưỡng xuất phát từ bên trong mỗi con người. Người có hòa khí dễ chung sống với người khác, hợp tác thuận l:ợi với cộng sự, làm việc gì cũng hanh thông, suôn sẻ hơn.

Học giả Hồng Ứng Minh, Trung Quốc từng có câu: "Người tâm bình, khí hòa thì trăm phúc tự đến". Người có thể giữ vững tâm bình, xử sự khiêm tốn, không tranh giành, nóng giận vô nghĩa thì chắc chắn sẽ có nhiều nhân duyên, mối quan hệ tốt đẹp. Mọi chuyện cũng nhờ đó mà thuận lợi và dễ có thành công hơn.

Mạnh Tử cũng từng khẳng định: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa l:ợi không bằng nhân hòa”. Người có hòa khí thường rộng lượng, biết cảm thông, nhìn thấu nhưng không vạch trần, luôn chừa cho người khác một con đường lui. Họ chân thành mà không giả tạo, nhiệt tình nhưng không vụ lợi. Người như vậy không chỉ được lòng người mà còn sống ung dung, bình an và có hậu vận tốt đẹp.

3. Đại khí

Đại khí là phong thái và khí chất toát ra từ bên trong mỗi con người. Người có đại khí nói năng từ tốn, giao tiếp lịch sự, xử thế hài hòa, không nóng vội cũng không lười biếng. Họ biết khi nào nên im lặng, khi nào cần hành động dứt khoát để người khác nể phục.

Người có đại khí giống như một cuốn sách hay, càng tiếp xúc càng thấy chiều sâu. Họ nhìn vấn đề ở tầm cao hơn, khiến người khác cảm thấy được tôn trọng và tin tưởng. Một người đàn ông có thể không hơn người về bằng cấp hay giao tế, nhưng nếu có đại khí, tầm nhìn xa và bản lĩnh vững vàng, sớm muộn cũng làm nên việc lớn.

Đại khí không phải bẩm sinh mà có, đó là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện qua năm tháng, giúp con người ngày càng chín chắn và thấu hiểu lòng người hơn trong đối nhân xử thế.

4. Dũng khí

Xưa kia có hai người cùng mong muốn đi Nam Hải bái Phật, một người giàu, một người nghèo. Người giàu có tiền bạc, phương tiện nhưng năm này qua năm khác vẫn chỉ dừng ở dự định. Người nghèo thì chẳng có gì trong tay ngoài một bình nước và đôi bàn tay lao động, nhưng vẫn dám lên đường.

Một năm sau, người nghèo đã hoàn thành tâm nguyện trở về, còn người giàu vẫn đang “chuẩn bị”. Người nghèo nói: “Tôi chỉ dựa vào sức mình và từng bước đi mà đến được nơi cần đến”. Lúc ấy, người giàu mới x:ấu h:ổ nhận ra: có đủ điều kiện nhưng lại thiếu dũng khí để bắt đầu.

Lão Tử từng nói: “Hành trình nghìn dặm bắt đầu từ một bước chân”. Trong đời, không thiếu việc đáng làm, chỉ thiếu người dám bắt tay vào làm. Cơ hội luôn có, nhưng người do dự sẽ đứng nhìn nó trôi qua, còn người có dũng khí sẽ nắm lấy và biến nó thành thành tựu.

Chỉ những con ong chăm chỉ hút mật mới xây được tổ lớn. Người thiếu dũng khí, không kiên trì thì khó gánh vác được việc lớn, cũng khó đi được đường dài.

Tạp chí Doanh Nhân

Monday, December 8, 2025

Sống già dặn: Tuổi 70

 Giữa rất nhiều cách sống, chỉ chọn duy nhất cái phù hợp, ko phải cho riêng mình mà còn cả gia đình của mình.

Ko phải cái gì lấp lánh đều là vàng/24 kara. Chỉ khác nhau từ lửa. Nhưng vàng hay đồng, thậm chí cả chì cũng tốt. Quan trọng là xét trong mục đích gì.

Cuối cùng, TỐI GIẢN là câu chuyện thuộc về nguyên lý vững bền để kết hợp với những nguyên lý khác, tạo nên 1 cuộc sống đích thực.

Muốn thế,

- Cần loại bỏ, trước hết, những gì ko phù hợp, ko thuộc về mình.

- Xác định cấu trúc/mô hình cơ bản được định hình bởi những lựa chọn thiết thực nhất.

- Chỉ chọn những cái tối ưu trên nguyên tắc đơn giản: LESS IS MORE.

Hình ảnh: Chọn từ net

Sunday, December 7, 2025

Sống già

 "Càng lớn tuổi, bạn càng tìm kiếm những đôi giày thoải mái hơn. Càng lớn tuổi, bạn càng muốn có sự hiện diện tích cực. 

Càng lớn tuổi, bạn càng ăn uống lành mạnh, tránh rượu bia và đi bộ nhiều hơn. 

Càng lớn tuổi, bạn càng trở nên chọn lọc hơn về con người và mọi thứ xung quanh. 

Càng lớn tuổi, bạn càng ít làm giảm giá trị của sự cô đơn bằng những sự hiện diện không cần thiết. 

Càng lớn tuổi, bạn càng biết khi nào cần im lặng, khi nào cần lên tiếng hoặc bỏ qua. 

Càng lớn tuổi, bạn càng ít phản ứng và thường chọn cách bỏ qua. Càng lớn tuổi, bạn càng chú trọng hơn đến những điều quan trọng. 

Càng lớn tuổi, bạn càng ít thích những cuộc thảo luận, xung đột và thử thách. 

Càng lớn tuổi, bạn càng muốn mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, không quan tâm đến mọi thứ và chỉ sống trọn vẹn từng ngày. 

Càng lớn tuổi, bạn càng yêu bản thân mình và yêu sự bình yên, tĩnh lặng."

TnBS

Saturday, December 6, 2025

LÀNG VÔ THẦN

Sau bốn mươi lăm năm xa xứ, ông trở về thăm làng lần đầu. Nghe nói là Việt kiều Mỹ rất giàu và đang có ý định làm từ thiện lớn nên người ta quan tâm và chào đón thái quá, khiến ông thấy bất tiện.

Ngay trong buổi tiếp đầu tiên do trưởng thôn tổ chức, có cả bí thư chi bộ và đại diện thanh niên, phụ nữ, ông bí thư đảng nói không úp mở:

“Trước làng ta có cái chùa, chắc bác còn nhớ chứ? Chiến tranh phá mất rồi. Mà đền chùa là cái mặt văn hóa của làng. Giờ có điều kiện xây lại thì tốt quá.”

Ông còn nhớ không ư? Vì nó mà ông phải xa làng chừng ấy năm. Số là thời ấy, tức giữa những năm sáu mươi, ông là bí thư xã đoàn. Một hôm, người ta đi họp trên huyện về, giao cho thanh niên phá chùa. “Làng đã lên hợp tác xã, ruộng đất và tư liệu sản xuất trở thành của chung. Nay đến lượt xây dựng văn hóa mới. Nhà nước vô sản thì làng phải là làng vô thần. Không thể để cái chùa mê tín dị đoan ấy đứng mãi thế được”. “Nhưng đó là chỗ lễ bái, tín ngưỡng của dân làng?” ông rụt rè lên tiếng. “Vả lại, có để cũng chẳng hại gì”. “Không được. Đồng chí nói thế là chưa quán triệt tinh thần của trên. Người cộng sản vô thần, nên không thờ bất kỳ ai ngoài các lãnh tụ của mình!”

Một tuần sau ông lên đường vào Nam, dù không thuộc diện nhập ngũ vì là cán bộ cốt cán và là con một trong gia đình. Trước đó mấy ngày người ta bắt đầu đập phá Chùa Mít, có cả lễ ra quân và cờ trống rầm rộ. Ở mặt trận Tây Nam năm 1972 ông bị quân Sài Gòn bắt nhưng trốn được qua Cămpuchia, rồi Thái Lan và năm 76 thì được sang Mỹ định cư. Trước khi có thư từ Mỹ về, mọi người trong làng nghĩ ông đã chết, nhưng do không xác định được cụ thể, người ta không coi ông là liệt sĩ, có thể là một tên đào ngũ phản bội. Còn nay đổi mới, trong con mắt của mọi người, ông là Việt Kiều yêu nước.

Bố mẹ chết từ lâu, bà con thân thích hầu như chẳng còn ai nên ông ở trong cái nhà nghỉ mới xây của xã bên, rất gần làng. Ở đấy cậu nhân viên nháy mắt bảo ông có cần gì nữa không. Mấy ngày sau ông còn nghe nói làng có dịch vụ tươi mát, đến mùa gặt mới phải thanh toán. Bằng thóc.

Làng ông bây giờ quả nhiều cái mới. No đủ hơn. Nhiều nhà ngói, thậm chí có vài nhà hai ba tầng, bắt chước kiểu biệt thự Pháp nhưng quét vôi màu lòe loẹt. Đường làng và các ngõ ngách đều đổ xi măng. Đình làng xưa cổ kính giờ được thay bằng Nhà Văn Hóa mái lợp fibrô xi măng. Trên nền ngôi chùa cũ đầu làng cỏ mọc um tùm, lổn nhổn những phiến đá lớn người ta không bê đi được. Có cả một khối đá tròn, phần sót lại của bức tượng Phật, nay làm nơi ngồi tình tự của đám thanh niên mới lớn. Dân làng bây giờ cũng khác lắm. Khác cả cách ăn mặc, đi đứng và nói năng. Có vẻ hiện đại hơn, tốt hơn, thế mà ông vẫn thấy trơ trơ thế nào, cứ như thiếu cái gì đó. 

Ở thêm mấy ngày nữa, ông hiểu cái đó là gì. Khuôn mặt của làng. Thì ngay từ đầu người ta chẳng bảo ông: “Đền chùa là cái mặt văn hóa của làng” đó sao? Chính xác hơn là thiếu hồn. Các tấm áp phích to và những câu khẩu hiệu chính trị viết cũng như nói không lấp nổi sự trống vắng tâm linh mà bây giờ đã không còn chỗ thể hiện. Trước kia ngày rằm và đầu tháng người ta vào chùa thắp hương, sắm lễ. Giờ chỗ lui tới là quán rượu của mụ Bốn, người kiêm cả nghề ghi số đề cho mấy đại gia ngoài phố huyện. 

Ông đi một vòng quanh làng với tâm trạng buồn buồn khó tả, rồi mỏi chân, ngồi xuống tảng đá, phần thân còn lại của Đức Phật trên nền ngôi chùa.

Mặt trời sắp lặn. Một chiếc xe Công Nông đang lại gần, kêu tành tạch từng tràng như tiếng súng đại liên. Kế đến là chiếc xe tải loại lớn chạy về phía xã trên. Mấy bà đi làm về, chiếc gánh tòng teng trên vai. Trai làng phóng xe máy vù vù.

Vậy là cái chủ trương xây làng vô sản đã không thành. Nhưng làng vô thần thì thành. Không chỉ không thờ Phật, giờ người ta cũng chẳng thờ các lãnh tụ cộng sản, không cần biết ai, sợ ai ngoài cái dạ dày của mình. Thêm một cái “vô” nữa là vô danh. Trước xã ông có bảy làng với bảy cái tên dung dị dễ thương từ xa xưa, sau khi thành lập hợp tác xã, chúng được thay bằng các con số đội sản xuất từ một đến bảy. Làng ông được gọi là Đội Bảy. Hợp tác xã giải tán cả chục năm nay mà cái tên khô khốc, vô hồn ấy vẫn không thay đổi.  

Ông ngồi lặng người hồi lâu giữa nền ngôi chùa Đội Bảy. Bây giờ người ta xin ông tiền dựng lại nó, tức là để phục lại phần nào thần linh và “mê tín dị đoan”, cái người ta một thời dứt khoát phá bỏ và đẩy ông ra nơi súng đạn. Nhưng liệu có chùa rồi, cái hồn thật của làng có trở lại không, khi tư tưởng vô thần và những người nghĩ ra chúng vẫn còn?

Trời tối lúc nào không biết. Có ai đó đang lại gần. Ông giáo Hoàn. Ông đang dắt con nghé con từ Đồng Chùa về. Ông giáo trạc tuổi ông, về hưu đã lâu và trước cùng học trường làng. Hôm mới về hai người đã gặp nhau và nói chuyện một lúc. Ông này thời cải cách có bố bị treo cổ oan.

“Vẫn chưa quyết định nên giúp làng xây lại chùa không à?” ông giáo hỏi như đoán được ý nghĩ ông.

 “Theo ông thì thế nào?”

“Thì kệ nó. Ai phá, người ấy phải xây lại”. 

“Nhưng họ biết lấy đâu ra tiền?”

“Đó là việc của họ. Rồi có ngày người ta sẽ bắt họ chịu trách nhiệm về chuyện này. Không người thì thần linh, mà cũng chẳng lâu nữa đâu. Một lũ ngu dốt và độc ác!”

Ông giáo về hưu nói một cách giận dữ. Rồi ông hạ giọng nói thêm:

“Nếu bác định giúp làng thì làm ơn sửa lại cái trường cấp một. Bảy tám chục đứa trẻ bị nhét vào môt phòng tranh tre và dột nát như bác thấy. Chứ không thì cái làng này chẳng mấy chốc mà thành vô học.”

Hai hôm sau ông lên đường về Mỹ, để lại phía sau ngôi ngôi làng của ông - vô danh, vô thần và gần như vô học. Có thể cả vô đạo đức và văn hóa nữa, dẫu hai đầu làng có hai tấm biến rất to “Làng văn hóa mới”, và nhà nào trong làng cũng có tờ giấy chứng nhận “Gia đình văn hóa”.

“Thì ra cái ‘văn hóa mới’ là tập hợp tất cả các cái ‘vô’ ấy lại mà thành,” ông nghĩ và khẽ rùng mình.

Thái Bá Tân

23. 8. 2011

Friday, December 5, 2025

Khí chất con người

KHÍ CHẤT CỦA MỘT NGƯỜI ĐÁNG NỂ – KHÔNG NẰM Ở LỜI NÓI MÀ Ở CÁCH HỌ SỐNG

Có người chỉ nhẹ bước vào phòng, ai nấy tự khắc im lặng.

Cũng có người nói mãi… chẳng ai thèm để tâm.

Vì khí chất thật sự không nằm ở tiếng ồn, mà nằm ở chiều sâu của con người.

Vậy điều gì làm nên một con người đáng nể?

Không phải vẻ ngoài.

Không phải tiền tài.

Không phải danh tiếng.

Mà là 6 điều này…

1. BÌNH THẢN

Không nổi nóng trước mọi kích động.

Không cần gân cổ chứng minh mình đúng.

Giữa khen chê – được mất, họ vẫn vững như nước sâu: lặng – mà thấu.

2. CẨN TRỌNG

Làm gì cũng có tâm – có tầm.

Không ồn ào, không vội vàng, nhưng luôn đúng hẹn – đúng lời – đúng việc.

Giao việc cho họ, lòng ta an. Hợp tác với họ, lòng ta vững.

3. CAN ĐẢM

Dám nhận sai. Dám đối diện nỗi sợ. Dám chịu trách nhiệm.

Không cần “hơn ai” – chỉ cần không bỏ cuộc.

Bản lĩnh thật sự không cần ồn ào.

4. RỘNG LƯỢNG

Tha thứ – không phải vì yếu đuối, mà vì đã đủ mạnh để buông bỏ.

Họ biết thắng bằng sự bao dung, không cần hằn học trả đũa.

5. THÀNH THẬT

Không hứa nếu không chắc. Không nói nếu không làm.

Vì họ hiểu: lời nói chỉ là gió, hành động mới là trọng lượng.

6. BIẾT GÁNH VÁC

Không hô hào ""anh lo được"", mà khi cần, luôn có mặt.

Không hy sinh lặng lẽ, mà biết sống có trách nhiệm với chính mình và người bên cạnh.

KẾT LUẬN

Người đáng nể – không phải người khiến ta sợ.

Mà là người khiến ta kính trọng trong im lặng.

Không cần nổi bật – chỉ cần đáng tin, đáng nhớ và đáng để học theo.

TnBS

Thursday, December 4, 2025

Robert De Niro: Cuộc đời & điện ảnh

Robert Anthony De Niro chào đời tại New York năm 1943, giữa một thành phố nơi nghệ thuật đường phố, những nhà hát cũ và những giấc mơ chưa bao giờ ngủ yên tạo nên thứ không khí nuôi dưỡng những tài năng táo bạo nhất của điện ảnh Mỹ. Ông lớn lên giữa hai người cha mẹ đều là nghệ sĩ, trong một môi trường nơi mọi cảm xúc đều có chỗ đứng, nơi sự nhạy cảm trở thành một phần của đời sống hằng ngày. Chính không khí ấy đã dệt nên tâm hồn của một diễn viên có khả năng hóa thân đến mức khiến khán giả quên mất người đang đứng trước họ là ai.

Thập niên 1970, khi điện ảnh Hollywood đang bước sang kỷ nguyên mới, De Niro xuất hiện như một làn gió mạnh mẽ. Sự kết hợp giữa trực giác diễn xuất và lao động khổ luyện đưa ông đến với những vai diễn làm thay đổi lịch sử điện ảnh: Travis Bickle trong Taxi Driver, Vito Corleone trẻ tuổi trong The Godfather Part II, Jake LaMotta của Raging Bull. Ông sẵn sàng tăng cân, giảm cân, học nghề, quan sát đời sống thực, đi sâu vào tâm lý nhân vật bằng cách mà giới phê bình gọi là “độ chính xác đáng sợ”. Vai diễn của ông không dựng lên bằng kỹ thuật, mà bằng sự đắm mình tuyệt đối vào thế giới bên trong mỗi con người.

Qua từng thập kỷ, De Niro không ngừng mở rộng biên độ sáng tạo. Khi thì là tay lưu manh đầy bản năng trong Mean Streets, khi lại là người cha với nỗi đau thầm lặng trong Awakenings, lúc khác trở thành gã gangster cô độc trong Heat hay ông trùm lạnh lùng trong Casino. Mỗi nhân vật tựa như một bức chân dung sống động của xã hội Mỹ qua từng giai đoạn. Ông góp phần định hình phong cách của đạo diễn Martin Scorsese, đồng thời trở thành một trong những diễn viên đầu tiên khiến Hollywood nhìn nhận diễn xuất như một nghệ thuật đòi hỏi sự rèn luyện nghiêm túc và chiều sâu nội tâm.

Đi qua tám mươi năm cuộc đời, gương mặt De Niro vẫn mang nguyên nét từng trải của một người đã sống trọn trong điện ảnh. Ông không chỉ để lại dấu ấn bằng những vai diễn lừng lẫy, mà còn bằng lòng kiên định với nghề trong suốt hơn nửa thế kỷ. Dù bước sang tuổi 80, ông vẫn xuất hiện trong các dự án mới, vẫn thử nghiệm, vẫn sống với điện ảnh bằng sự bền bỉ ít ai có được. Sự trưởng thành của ông không nằm trong hào quang, mà trong bước đi âm thầm của người nghệ sĩ biết rằng thời gian là người cộng sự lớn nhất để tạo ra chiều sâu.

Robert De Niro tròn 80 tuổi — một hành trình dài được viết bằng tài năng, sự tận hiến và khả năng nhìn thấy vẻ đẹp trong những nhân vật tưởng chừng khó nắm bắt nhất. Và dù điện ảnh thế giới luôn đổi thay, cái tên De Niro vẫn giữ sức hút đặc biệt như ngày ông mới bước qua sân khấu năm nào.

Pane e Vino - 3 Nguyễn Khắc Cần

Wednesday, December 3, 2025

Tư tưởng ở trên tất cả

Trong cuốn Sapiens - Lược sử loài người, Harari coi tôn giáo là "một hệ thống các quy chuẩn và giá trị con người được xây dựng dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu nhiên." Lịch sử tôn giáo và những vị thần trong thần thoại cổ đại đều cho thấy ảnh hưởng của tín ngưỡng với con người, từ thời tiền sử cho đến nay.

Phương Tây có câu: "Cái áo không làm nên thầy tu". Tuy nhiên, nếu ví mỗi cái áo là 1 tôn giáo/tín ngưỡng tôn thờ mới thấy: con người có thể mặc nhiều cái áo khác nhau, như trong tôn giáo đa thần vậy.

Có những cái áo gần giống nhau như Công giáo và Tin Lành, nhưng vẫn nổ ra những cuộc chiến trong thế kỷ 16 và 17 giữa 2 tôn giáo này.

Gần với đa thần giáo, thuyết nhị nguyên tán thành sự tồn tại của 2 sức mạnh đối lập: Thiện và ác. Thế giới là chiến trường giữa 2 thế lực này.

Gần với quy luật tự nhiên hơn cả là Phật giáo, 1 tín ngưỡng lớn, "Phật" có nghĩa là "Người giác ngộ". Tuy nhiên, 99% Phật tử ko thể tới được niết bàn.

Chủ nghĩa thế tục đã đẩy lùi vai trò quan trọng của tôn giáo, nhưng thời hiện đại là lúc con người thể hiện lòng nhiệt thành mãnh liệt với những chiếc áo mới. Chẳng hạn như chủ nghĩa tự do, CNTB, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phát xít. Những tín ngưỡng này ko muốn gọi là tôn giáo, vì tự cho đó là hệ tư tưởng. Nhưng bản chất thì ko khác với tôn giáo về niềm tin.

Do bản chất luôn biến đổi, sapiens là loài vô cùng phức tạp với nhiều tín ngưỡng khác nhau, ngay cả trong 1 cá nhân cũng vậy. Chẳng hạn như những người theo chủ nghĩa nhân văn, họ tôn thờ nhân loại nhưng ko đồng ý với định nghĩa của nó. Trong niềm tin của mình, những người nhân văn chủ nghĩa (gồm 3 nhóm đối thủ) vẫn còn "tranh cãi về định nghĩa chính xác của từ 'nhân loại', giống như các giáo phái Ki-tô chiến đấu về định nghĩa chính xác của Thiên Chúa."*

Khi con người ko tin vào cùng 1 Đấng tối cao, trong 1 thế giới bị chi phối bởi vô số yếu tố có tính hỗn độn, thế giới ở thế kỷ 20, là thời kỳ CNTB thành công nhất với vai trò của Mỹ, và cũng là tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất của lịch sử hiện đại.

(*): Sapiens - Lược sử loài người, trang 288

Hình ảnh (chọn từ net): Ngôi sao David, biểu tượng của Do Thái giáo

Tuesday, December 2, 2025

Những nguyên tắc sống và khái niệm về con người

ĐỪNG ĐỂ "ĐỜI" HẠ GỤC ĐƯỢC BẠN

1. Cuộc sống cũng giống như đi xe đạp, nếu muốn thăng bằng bạn phải tiếp tục di chuyển.
2. Xuất phát điểm của bạn có thể sẽ thấp hơn rất nhiều so với mọi người xung quanh. Nhưng thành công sẽ phụ thuộc vào thần thái và tâm thế cầu tiến của bạn.
3. Trên thế giới này, cơ bản không tồn tại những việc "không thể". Khi bạn mất đi tất cả, chẳng còn nơi nào để dựa dẫm, tự nhiên với bạn, mọi việc đều trở nên "có thể". Không ép bản thân, bạn mãi mãi chẳng thể phát hiện ra mình ưu tú đến mức nào.
4. Cuộc đời vẫn vậy, nếu nó lấy đi của bạn thứ gì, thế nào nó cũng bù lại cho bạn thứ khác, chỉ là bạn có chịu đi tìm hay chọn lựa hay không mà thôi.
5. Bạn có thể nhớ “chẳng có niềm vui nào kéo dài được mãi”. Cũng đừng quên: Nỗi đau và thử thách cũng đều tuân theo quy luật này.
6. Đừng bao giờ ghét những người hay đố kị với bạn. Hãy chấp nhận sự đố kị đó. Những người ấy là người nghĩ rằng bạn giỏi hơn họ.
7. Nếu bạn luôn buồn phiền, hãy dùng hy vọng để chữa trị. Hạnh phúc lớn nhất của nhân loại chính là biết hy vọng.
8. Nếu bạn không tự xây ước mơ của mình thì người khác sẽ thuê bạn xây giấc mơ của họ.
9. Bạn phải tự cứu lấy mình, nhưng không có nghĩa là bạn chỉ biết đến mỗi mình.
10. Khái niệm "thành công" của người này có thể sẽ khác người kia, đừng để sự so sánh giết chết nhiệt thành của bạn.
11. Đôi khi bạn phải im lặng, nuốt cái tôi vào trong và chấp nhận rằng bạn "sai". Đó không phải là bỏ cuộc, đó là TRƯỞNG THÀNH.
12. Đừng nên lục lọi tìm hiểu những thứ không nên biết. Bởi đôi khi biết rồi, bạn sẽ thấy giá như mình không biết thì tốt hơn.
13. Đừng bao giờ lừa dối những người tin tưởng bạn và đừng bao giờ tin tưởng những người từng lừa dối bạn.
14. Nếu bạn muốn có được thứ bạn chưa từng có. Bạn phải làm những việc bạn chưa từng làm.
15. Nếu bạn muốn làm gì, hãy làm ngay. Đã quá nhiều "ngày mai" rồi.
16. Đừng bao giờ tiết kiệm nụ cười kể cả khi buồn, bởi không bao giờ bạn biết được, có thể có ai đó sẽ yêu bạn vì nụ cười ấy.
17. Đừng bao giờ đặt giới hạn cho bản thân. Cuộc đời sẽ đẹp hơn nếu như mình vượt qua chính bản thân mình.
18. Đừng bao giờ quên 5 nguyên tắc "Hạnh phúc" đó là: Yêu bản thân - Làm việc tốt - Luôn tha thứ - Không làm tổn thương ai - Sống tích cực.
19. Bạn sinh ra không phải để làm hài lòng người khác. Cố gắng làm hài lòng người khác là việc tốn công vô ích.
20. Những điều tốt đẹp không bao giờ xuất hiện qua một đêm. Một câu nói về sự thành công có thể được đọc, hiểu, và thấm trong chưa đầy 1 phút. Nhưng cuộc sống thực thì khái niệm thời gian hoàn toàn khác. Tất cả đều phải được nỗ lực trong thời gian dài, lượng đổi chất mới đổi.
21. Nếu như bạn mong đợi người đời sẽ tử tế với bạn chỉ vì bạn tử tế với họ, thì cũng giống như việc bạn trông chờ một con sư tử không ăn thịt mình chỉ vì mình không ăn thịt nó. Cuộc sống vốn dĩ không công bằng, hãy học cách thích ứng đi.
22. Đôi khi, không phải là một người đã thay đổi, chỉ là mặt nạ của họ đã rơi xuống mà thôi.
23. Khi chúng ta mong ước cuộc đời không nghịch cảnh, hãy nhớ rằng cây sồi trở nên mạnh mẽ trong gió ngược, và kim cương hình thành dưới áp lực.
24. Khi cuộc sống dồn bạn vào bước đường cùng, đừng hỏi: Tại sao là tôi? Mà hãy nói rằng: Cứ thử tôi đi!
25. Và cuối cùng, hãy luôn lạc quan, dù chuyện gì xảy ra đi nữa.

👉 Thay đổi bản thân chính là bước đầu tiên để mở ra cánh cửa dẫn đến một cuộc sống mới. Nếu bạn không dám đi bước này, thì mọi ước mơ chỉ mãi là… ước mơ.

Nguồn: Awake Your Power

Monday, December 1, 2025

Tháng cuối năm

⏳ 31 ĐIỀU CẦN LÀM TRƯỚC KHI NĂM 2025 KẾT THÚC

Năm cũ sắp khép lại - đây là lúc nhìn lại, hoàn thiện những điều còn dang dở và chuẩn bị nhẹ nhàng cho một năm mới bình yên hơn, mạnh mẽ hơn. Bạn đã sẵn sàng tick từng ô trong “Danh sách chia tay 2025” chưa?

1. Dọn lại album ảnh trong điện thoại và chọn ra một bộ “ảnh của năm” cho riêng bạn.

2. Sắp xếp lại các file rải rác trên màn hình máy tính, phân loại và lưu trữ gọn gàng.

3. Tổng hợp một danh sách đọc/xem của năm: những cuốn sách bạn đã đọc, những bộ phim và series bạn đã xem.

4. Dọn lại ghi chú trong điện thoại, hệ thống hóa những mảnh kiến thức rời rạc.

5. Tạo một “thư mục ký ức” để lưu lại những món đồ kỷ niệm ý nghĩa như vé concert, postcard…

6. Dọn bỏ 10 món đồ bạn không cần nữa hoặc đã hết hạn sử dụng.

7. Vệ sinh những góc thường bị bỏ quên trong nhà, như nóc tủ quần áo hoặc gầm giường.

8. Nhìn lại những việc trong năm chưa kịp làm hoặc những nơi chưa kịp đặt chân tới.

9.Liệt kê 10 điều khiến bạn cảm thấy tự hào nhất trong năm, dù lớn hay nhỏ đều đáng được ghi nhận.

10. Viết những điều tiếc nuối ra giấy, buông xuống “gánh nặng trong lòng” thì bạn mới có thể bước tiếp nhẹ nhàng hơn.

11. Trước khi ngủ, đừng lướt điện thoại nữa, hãy đọc vài trang sách để thay thế.

12. Thử dậy sớm hơn một tiếng và dùng khoảng thời gian đó để vận động nhẹ.

13. Ra khỏi nhà sớm hơn 5 phút, đừng cho sự trì hoãn bất kỳ cơ hội nào.

14. Đừng mãi ở lì trong nhà, hãy ra công viên gần đó đi dạo một chút.

15. Dành chút thời gian ở một mình để lắng nghe bản thân và hiểu rõ bạn thực sự muốn gì. 

16. Chủ động liên lạc với một người bạn quan trọng và trò chuyện thật chân thành.

17. Làm một việc nhỏ mà bạn muốn làm từ đầu năm nhưng vẫn chưa hoàn thành.

18. Xem một bộ phim bạn đã lưu vào danh sách từ lâu.

19. Bắt đầu đọc một cuốn sách bạn đã mua nhưng chưa từng mở ra.

20. Bỏ thói quen “để mai tính”, muốn làm gì thì hãy bắt đầu ngay hôm nay.

21. Ngày 21/12 là tiết Đông Chí, ăn một miếng bánh bao hoặc chè trôi nước nóng, rồi ước một điều nho nhỏ cho mình.

22. Tặng bản thân một cuốn lịch năm 2026. 

23. Viết ra ba “từ khóa 2026” để làm kim chỉ nam hành động cho năm mới.

24. Lên kế hoạch cho một hoạt động đón năm mới thật ý nghĩa.

25. Viết một bức thư gửi chính mình của năm 2026.

26. Mua một món quà nhỏ dành tặng đứa “mình của năm nay đã rất cố gắng”.

27. Ghi lại 10 điều nhỏ mà bạn muốn làm nhất trong năm 2026.

28. Gửi lời cảm ơn đến những người đã giúp đỡ mình rất nhiều trong năm qua.

29. Trò chuyện với người thân, bạn bè, chia sẻ cảm xúc và kỳ vọng cho năm tới.

30. Tạo một “sổ tay cảm hứng” cho riêng mình, để không bỏ lỡ bất kỳ ý tưởng thú vị nào trong năm 2026. 

31. Ngày 31/12, cùng người thân, bạn bè đón năm 2026.

TnBS

Friday, November 28, 2025

Quyền tồn tại của Israel và Nhà nước DT trên vùng đất của mình

29/11: Câu chuyện của hai lựa chọn

78 năm trước, vào ngày 29/11/1947, Liên Hợp Quốc đã bỏ phiếu công nhận quyền của người Do Thái được tái lập một Nhà nước tại Vùng đất Israel. Quyết định này, được biết đến với tên gọi Kế hoạch Phân chia của Liên Hợp Quốc, đã mang đến cho người Do Thái và người Ả Rập một con đường hướng tới quyền tự quyết. Phía Do Thái thừa nhận kế hoạch như một sự thỏa hiệp mang tính đột phá và là sự công nhận về mặt đạo lý đối với quyền độc lập của dân tộc Do Thái trên quê hương lịch sử của họ. Phía Ả Rập bác bỏ hoàn toàn, thay vào đó chọn con đường đối đầu.

Cộng đồng Do Thái tại Vùng đất Israel, khi đó còn nhỏ bé và dễ tổn thương, đã nắm lấy cơ hội với sự khẩn trương và quyết tâm. Nhà nước Israel hiện đại đã trở thành một nền dân chủ thịnh vượng, một trung tâm toàn cầu về đổi mới, khoa học và nghệ thuật, và là một quốc gia cung cấp viện trợ nhân đạo trên khắp thế giới.

Ngược lại, thế giới Ả Rập đã phản ứng trước ngã rẽ lịch sử ấy bằng cách từ chối thỏa hiệp. Việc người Ả Rập bác bỏ kế hoạch phân chia không dẫn đến việc hình thành một nhà nước Palestine, mà là những cuộc chiến tranh, sự di dời của cả người Do Thái và người Ả Rập, và hàng thập kỷ cơ hội bị bỏ lỡ. Năm 1947, người Palestine đã có thể có một nhà nước của riêng họ bên cạnh Israel. Họ đã chọn chiến tranh thay vì điều đó. Hệ quả của lựa chọn ấy vang vọng cho đến tận ngày nay. Các lãnh đạo Palestine đã dành hàng thập kỷ và nguồn lực to lớn để cố gắng phá hủy sự tồn tại của Israel, thay vì thúc đẩy chung sống hòa bình.

Câu chuyện của Israel kể từ năm 1947 là câu chuyện về phát triển thành công thông qua sự kiên cường và bền bỉ—bằng chứng rằng sự sáng suốt về đạo đức và tinh thần thỏa hiệp thực tế có thể song hành. Israel luôn tuyên bố và thể hiện thiện chí sống trong hòa bình với các nước láng giềng Ả Rập, tìm kiếm các thỏa thuận và quan hệ hợp tác với những bên sẵn sàng lựa chọn con đường tương tự.

Ngày nay, sự tương phản trở nên rõ rệt. Israel, nhỏ bé hơn nhiều quốc gia láng giềng, đứng vững như một trung tâm công nghệ, một nền kinh tế mở. Trong khi đó, nhiều chế độ từng tuyên bố sẽ tiêu diệt Israel đã phải đối mặt với biến động chính trị, nghèo đói và xung đột nội bộ. Những ai từ chối chung sống cũng thường là những người từ chối tiến bộ.

Sự khác biệt này đặc biệt thể hiện rõ trong sự trỗi dậy của Hamas tại Dải Gaza, với hệ tư tưởng thánh chiến và cam kết công khai trong việc hủy diệt Israel. Hamas không chỉ đe dọa sự tồn vong của dân thường Israel mà còn đe dọa mọi hy vọng về chung sống hòa bình. Việc Hamas từ chối thỏa hiệp, tôn vinh bạo lực và lợi dụng người dân Palestine đã kéo dài đau khổ và cản trở mọi nỗ lực xây dựng một tương lai tích cực. Hành động của họ phản ánh phiên bản cực đoan nhất của chủ nghĩa phủ nhận bắt đầu từ năm 1947: sự từ chối hoàn toàn việc công nhận tính chính danh của Nhà nước Israel.

Di sản của ngày 29 tháng 11 nhắc nhở thế giới, đặc biệt là Trung Đông, rằng tương lai được định hình bởi những lựa chọn. Người Do Thái đã chọn sự chấp nhận, thỏa hiệp và xây dựng. Lãnh đạo Palestine đã chọn sự từ chối, phủ nhận và hủy diệt. Bảy mươi tám năm sau, kết quả của hai con đường ấy đã trở nên rõ ràng.

Sự tồn tại của Israel ngày nay không chỉ là một thực tế chính trị. Đó là một chiến thắng đạo lý, minh chứng cho sức mạnh của niềm tin, sự kiên cường và quyền tồn tại lâu đời của người dân bản địa Israel đối với Nhà nước của họ trên Vùng đất Israel. Hy vọng vẫn còn rằng một ngày nào đó, những người láng giềng Palestine sẽ đưa ra lựa chọn giống như Israel đã làm vào năm 1947: chấp nhận tính chính danh của bên kia và xây dựng một tương lai đáng để cùng nhau chia sẻ.

Đại sứ Israel tại Việt Nam

Yaron Mayer

Wednesday, November 19, 2025

Chủ nghĩa Zion và vai trò của nhà nước Israel ngày nay (2)

BỐI CẢNH LỊCH SỬ (tiếp theo)

Spinoza và Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái

Tôn giáo của quốc gia Israel, Do Thái giáo, đã hoàn toàn đồng nhất với người dân, đến nỗi hầu như không còn chút ý thức dân tộc hay quốc gia nào còn sót lại. Thật vậy, ở châu Âu thời Trung cổ, "dân tộc" không thực sự tồn tại, và rất ít người thừa nhận mình không theo tôn giáo nào. Một trong những người Do Thái đầu tiên có thể được nghiên cứu như một "trường hợp thử nghiệm" về bản chất của Do Thái giáo là Baruch Spinoza (Baruch d'Espinoza 1632-1677). Spinoza là một người tị nạn khỏi Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha và sống ở Hà Lan. Ông bắt đầu từ bỏ những niềm tin mà các bô lão trong giáo đoàn cho là không phù hợp với tôn giáo Do Thái. Spinoza không tin vào tôn giáo truyền thống và cầu nguyện, và ông khẳng định rằng Chúa hiện hữu trong mọi thứ và mọi nơi. Ông bị khai trừ khỏi giáo đoàn Do Thái. Do đó, ông không còn là thành viên của Do Thái giáo nữa. Tuy nhiên, rõ ràng là mọi người đều coi ông là người Do Thái theo một nghĩa nào đó. Do đó, rõ ràng là ngay cả trước thế kỷ 19, người Do Thái và thế giới đã hiểu rằng "Do Thái" không chỉ là một tôn giáo. Spinoza không thể được coi là một người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, nhưng đạo đức và cách tiếp cận của ông đối với lịch sử Do Thái và tôn giáo Do Thái đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái thế tục sau này. (xem Yovel, Yirmiyahu, Spinoza và những người dị giáo khác, The Marrano of Reason, Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1989).

Giải phóng và Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái

Cách mạng Pháp và sự trỗi dậy của Napoleon đã thúc đẩy quá trình giải phóng người Do Thái châu Âu, những người không còn bị bó buộc trong các khu ổ chuột ở các thành phố châu Âu nữa, và trở thành công dân như bao người khác. Cuối cùng, quá trình tự do hóa cũng lan rộng đến Đông Âu và Nga. Thời kỳ Khai sáng của thế kỷ 18 và sự giải phóng của thế kỷ 19 là một cú sốc lớn đối với văn hóa và bản sắc Do Thái. Người Do Thái chia thành nhiều nhóm trong thế kỷ 19. Những người Do Thái cực đoan vẫn trung thành với văn hóa khu ổ chuột, điều này loại trừ khả năng hòa nhập vào xã hội hiện đại hoặc tiếp cận nền giáo dục hiện đại. Một nhóm thứ hai cố gắng hòa nhập hoàn toàn vào xã hội châu Âu, cải đạo sang Cơ đốc giáo và đánh mất bản sắc Do Thái của mình. Nhóm thứ ba tin rằng họ có thể hòa nhập với tư cách là công dân hiện đại, với các quyền bình đẳng và vẫn duy trì đức tin Do Thái của mình, đồng thời từ bỏ bất kỳ sự trung thành nào về văn hóa hay nhóm với Do Thái giáo. Trên thực tế, Do Thái giáo của họ trở nên giống như một nhánh của Tin Lành. Họ tìm thấy nhiều cách nói giảm nói tránh cho bản sắc của mình, chẳng hạn như người Do Thái hoặc người Đức theo đức tin Mosaic. Nhóm này đã sáng lập nên phong trào Do Thái giáo Cải cách. Quan điểm đồng hóa cho rằng một khi người Do Thái "trở nên giống như mọi người khác", họ sẽ được xã hội chấp nhận như những người bình đẳng, và sẽ trở thành người Đức, người Ý, người Anh hoặc người Pháp. Tuy nhiên, trong thế kỷ 19, nhiều người ngày càng nhận thấy rõ ràng rằng việc đồng hóa không nhất thiết là điều mong muốn. Có lẽ điều đó cũng là bất khả thi, vì tâm lý bài Do Thái vẫn không hề suy giảm. Những người theo đạo Thiên Chúa mới được gọi là "Người Đức theo Đức tin Mosaic" đã trở thành đối tượng của làn sóng bài Do Thái ngày càng gia tăng, được gọi là "chủ nghĩa bài Do Thái" ở Đức vào thế kỷ 19.

Sự lên men và hỗn loạn văn hóa do cuộc giải phóng nô lệ gây ra đã tạo ra một loạt các phong trào cải cách tôn giáo, trí tuệ và văn hóa đa dạng trong cộng đồng Do Thái, và chúng cũng phát triển theo nhiều hướng. "Haskalah" hay Khai sáng Do Thái là một phong trào hiện đại hóa Do Thái giáo. Một phần là chủ nghĩa đồng hóa, nhưng một số lãnh đạo Haskalah tin vào văn hóa Do Thái, và một số khác cuối cùng chuyển sang chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phục quốc Do Thái, gây ra sự chia rẽ trong phong trào.

Thách thức đầu tiên của việc giải phóng Do Thái giáo là mặc dù người Do Thái dường như có thể sống như những công dân bình đẳng trong xã hội hiện đại, nhưng rõ ràng là nếu họ thực sự hòa nhập vào các nền dân chủ thế tục hiện đại, người Do Thái sẽ không còn là người Do Thái nữa, và do đó ý tưởng về "quyền bình đẳng cho người Do Thái" sẽ trở nên vô nghĩa.

Hình ảnh (chọn từ net): Cuộc cm Pháp

Thời kỳ nguyên thủy của chủ nghĩa Phục quốc DT/Proto-Zionism

Trong giai đoạn này, sau Cách mạng Pháp và sự giải phóng của người Do Thái châu Âu, những ràng buộc tinh thần mơ hồ của người Do Thái với Israel bắt đầu thể hiện theo những cách cụ thể hơn, mặc dù không phải lúc nào cũng thực tế. Khoảng năm 1808, các nhóm người Do Thái Litva, những người theo Vilna Gaon (một giáo sĩ Do Thái nổi tiếng và là người phản đối Hassidism) đã đến Palestin và mua đất để bắt đầu một khu định cư nông nghiệp. Năm 1836, Rabbi Tzvi Hirsh Kalischer đã kiến ​​nghị Anschel Rothschild mua Palestin hoặc ít nhất là Núi Đền cho người Do Thái. Năm 1839-1840, Sir Moses Montefiore đã đến thăm Palestin và đàm phán với Khedive của Ai Cập để cho phép người Do Thái định cư và mua đất ở Palestin. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán không đi đến đâu, có thể là do sự bùng nổ của một vụ phỉ báng đẫm máu bài Do Thái ở Damascus. Sau đó, Montefiore tiếp tục với các chương trình từ thiện ít tham vọng hơn ở Palestin và ở Argentina. Vào những năm 1840, Rabbi Kalischer ở Ba Lan và rabbi Yehudah Alkalai, một người Do Thái gốc Sephardic, đã viết các bài báo kêu gọi các bước thiết thực để đẩy nhanh quá trình cứu chuộc bằng cách định cư tại Đất Thánh, được tài trợ bởi những nỗ lực của các nhà từ thiện.

Các tác phẩm và phong trào đầu thế kỷ 19 ủng hộ việc đưa người Do Thái trở về đất Israel mà không cần chờ đợi Đấng Messiah. Điều này bao gồm chủ nghĩa phục quốc Do Thái của giáo sĩ Yehudah Alkalai và giáo sĩ Tzvi Hirsh Kalischer, cũng như chủ nghĩa phục quốc Do Thái thực tiễn và thế tục hơn một chút của Moses Hess, Leon Pinsker và những người khác.

Rabbi Tzvi Hirsh Kalischer (1795-1874)

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái của Anh 

Ý tưởng về một cuộc phục hưng Do Thái cũng được giới trí thức Anh ưa chuộng vì những lý do tôn giáo và thực tiễn. Sự ủng hộ tôn giáo của Anh đối với việc phục hưng Do Thái có thể bắt nguồn từ những người Thanh giáo và xa hơn nữa. Nó được đổi mới trong thần học của Hội Anh em Plymouth do J.N. Darby thành lập vào đầu thế kỷ 19. Phong trào phục hưng được các Lãnh chúa Shaftesbury và Palmerston ủng hộ vào những năm 1840. Ngoài động cơ tôn giáo, họ cho rằng một thuộc địa Do Thái ở Palestin sẽ giúp ổn định và phục hồi đất nước. Các nhà văn và tiểu thuyết gia như Lord Byron, Benjamin Disraeli, George Eliot và Walter Scott cũng lên tiếng về những hoạt động dân tộc của người Do Thái.

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái của Cơ Đốc giáo

Sự ủng hộ của Cơ Đốc giáo Hoa Kỳ đối với việc khôi phục người Do Thái

Sự ủng hộ của Thanh giáo đối với việc khôi phục người Do Thái đã được chuyển giao sang Hoa Kỳ với sự xuất hiện của những người Thanh giáo. Increase Mather và nhiều người khác là những người tiên phong trong việc khôi phục người Do Thái tại Hoa Kỳ vào thế kỷ 17. Ý tưởng này đã hòa nhập vào dòng tư tưởng và văn hóa chính thống của Hoa Kỳ và được các Tổng thống ủng hộ, bắt đầu từ John Adams. Gần đây, nó cũng trở thành dự án của các giáo phái chính thống, bao gồm cả những giáo phái bắt nguồn từ học thuyết phân kỳ.

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái của người Do Thái Sephardic

Do một sự tình cờ của lịch sử, người Do Thái châu Âu (Ashkenazy) đã dẫn đầu chủ nghĩa Phục quốc Do Thái có tổ chức trong nhiều năm. Tuy nhiên, người Do Thái Sephardic (Tây Ban Nha) và người Do Thái ở các vùng đất Ả Rập vẫn duy trì mối liên hệ thực tế chặt chẽ hơn với vùng đất thánh và tiếng Hebrew so với người Do Thái Ashkenazy, và cũng có ảnh hưởng và tham gia vào phong trào Phục quốc Do Thái ngay từ khi nó mới ra đời. Judah ben Solomon Hai Alkalai (1798-1878), sinh ra ở Sarajevo, được coi là một trong những tiền thân quan trọng của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hiện đại. Alkalai tin rằng việc trở về đất Israel là điều kiện tiên quyết cho sự cứu rỗi của người Do Thái. Tư tưởng của Alkalai đã ảnh hưởng rất lớn đến người Ashkenazy đương thời của ông, Rabbi Tsvi Hirsch Kalischer. Alkalai cũng là bạn của ông nội Theodor Herzl, người sáng lập Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái hiện đại. Một người Do Thái Sephardi khác, David Alkalai, cháu trai của Judah Alkalai, đã thành lập và lãnh đạo phong trào phục quốc Do Thái ở Serbia và Nam Tư, và đã tham dự Đại hội phục quốc Do Thái đầu tiên ở Basel (năm 1897).

(còn nữa)

Tuesday, November 18, 2025

Chủ nghĩa Zion và vai trò của nhà nước Israel ngày nay (1)

Thế giới ko có người DT chắc chắn sẽ là 1 nơi hoàn toàn khác

----------

Giới thiệu - Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là gì?

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là phong trào giải phóng dân tộc Do Thái. Tên gọi "Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái" bắt nguồn từ "Zion" (phát âm là "Tzyion" trong tiếng Do Thái), một ngọn đồi ở Jerusalem. Từ này có nghĩa là "dấu mốc" hoặc kỷ niệm. "Shivath Tzion" là một trong những thuật ngữ truyền thống dùng để chỉ sự trở về của những người Do Thái lưu vong. "Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái" không phải là một phong trào tư tưởng duy nhất. Nó bao gồm, ví dụ, những người theo chủ nghĩa Phục quốc xã hội chủ nghĩa như Ber Borochov, những người theo chủ nghĩa Phục quốc tôn giáo như các giáo sĩ Do Thái Kook và Reines, những người theo chủ nghĩa dân tộc như Zeev Jabotinsky và những người theo chủ nghĩa Phục quốc văn hóa, tiêu biểu là Asher Ginsberg (Ahad Ha'am). Tư tưởng Phục quốc Do Thái phát triển theo thời gian và chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng như các phong trào xã hội và văn hóa phổ biến ở châu Âu vào các thời điểm khác nhau, bao gồm chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thực dân, và mang những "hương vị" khác nhau tùy thuộc vào quốc gia xuất xứ của các nhà tư tưởng và các trào lưu trí thức đương đại thịnh hành. Theo đó, không một cá nhân, ấn phẩm, trích dẫn hay tuyên bố nào nên được coi là hiện thân của hệ tư tưởng Phục quốc Do Thái "chính thức".

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là câu chuyện thành công về mặt tư tưởng của thế kỷ 20. Nó đã vượt qua những trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua để hiện thực hóa một giấc mơ bất khả thi. Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái không phải là một âm mưu độc hại, nhưng nó đã gây ra sự phản đối vì thành công của nó. Bài phân tích ngắn gọn này sẽ thảo luận về lịch sử của phong trào Phục quốc Do Thái, và cho thấy cách nó đã tạo ra Israel hiện đại và đến lượt nó được định hình lại bởi thực tế mới mang tính cách mạng mà nó đã tạo ra.

Hình ảnh: Getty Images

BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Quá trình phát triển của chủ nghĩa phục quốc Do Thái gồm nhiều giai đoạn với nhiều khác biệt, chịu ảnh hưởng từ diễn biến của các sự kiện bên ngoài cũng như những thay đổi mà chính chủ nghĩa phục quốc Do Thái mang lại.
---------
Thời kỳ Tiền chủ nghĩa Phục quốc Do Thái/Pre-Zionism

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là sản phẩm tự nhiên của nền văn hóa Do Thái lưu vong. Nó không xuất hiện một cách trọn vẹn từ hư không với sự ra đời của phong trào Phục quốc Do Thái vào năm 1897. Tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, bị những người chống chủ nghĩa Phục quốc Do Thái phản đối, người Do Thái là một dân tộc, một quốc gia gắn liền với một vùng đất cụ thể, chứ không chỉ là một tôn giáo. Thật sai lầm khi nghĩ rằng tư tưởng này ra đời vào thế kỷ 19. Kể từ khi người La Mã lưu đày người Do Thái khỏi vùng đất mà người Do Thái gọi là Judea và người La Mã gọi là Palestin, người Do Thái đã gọi những vùng đất bên ngoài Judea hay Israel là Gola, nghĩa là "lưu đày" thay vì "Diaspora" (nghĩa là phân tán), và gọi tình trạng của họ là "Galut". Cả hai đều là những thuật ngữ mang hàm ý tiêu cực và cay đắng. Do đó, ngầm hiểu rằng có một vùng đất mà người Do Thái đã bị lưu đày và họ hiểu rằng mình thuộc về nơi đó.

Người Do Thái đã sống ở "Eretz Yisrael" (vùng đất Israel, được người La Mã và Hy Lạp gọi là "Palestin") từ khoảng năm 1200 TCN. Vùng đất Israel nằm ở ngã ba đường giữa Trung Đông và Địa Trung Hải, và do đó đã bị chinh phục nhiều lần: bởi người Ai Cập, người Hittite, người Assyria, người Babylon, người Ba Tư, người Seleucid Hy Lạp và người La Mã, cũng như người Philistine xâm lược. Trong số đó, chỉ có người Do Thái mới biến vùng đất này thành quê hương của họ. Văn hóa dân tộc Do Thái, hòa quyện với tôn giáo, xoay quanh địa lý, mùa màng và lịch sử của vùng đất và của người Do Thái trên mảnh đất đó. Người Do Thái đã tạo ra Kinh Thánh Cựu Ước - Tanach, mô tả lịch sử của họ, lịch sử của vùng đất, và mối liên hệ của họ với nó. Kinh Thánh đã hình thành nên xương sống của văn hóa Do Thái và sau này trở thành xương sống của văn hóa Kitô giáo phương Tây, để cả thế giới nhận ra mối liên hệ giữa người Do Thái và vùng đất của họ. Khi người La Mã chinh phục Palestin, và người Do Thái bị lưu đày đến các vùng đất lưu vong, mối liên hệ với vùng đất này đã được lưu giữ trong Kinh Thánh, và trong những lời cầu nguyện hàng ngày kêu gọi xây dựng lại Jerusalem, và điều này được thể hiện trong các tác phẩm của các nhà thơ thời trung cổ.

Trong thời gian lưu vong, tôn giáo đã trở thành phương tiện để bảo tồn văn hóa Do Thái và mối liên hệ của người Do Thái với vùng đất cổ xưa của họ. Người Do Thái cầu nguyện nhiều lần trong ngày để xây dựng lại đền thờ, tổ chức các lễ hội nông nghiệp và cầu mưa theo mùa của vùng đất Israel cổ đại, đầy nắng ở Đông Địa Trung Hải, ngay cả ở những vùng đất băng giá xa xôi nhất của Nga. Các loại cây nghi lễ của Sukkoth được nhập khẩu từ Đất Thánh với chi phí rất lớn. Một truyền thống lấy Đất Thánh làm trung tâm vẫn tồn tại trong tư tưởng và văn chương của người Do Thái lưu vong. Truyền thống này có thể được gọi là "chủ nghĩa dân tộc nguyên thủy" bởi vì thời đó chưa có chủ nghĩa dân tộc theo nghĩa hiện đại. Nó không chỉ mang tính tôn giáo hay giới hạn trong niềm hy vọng về sự cứu chuộc của Đấng cứu thế, mà còn bao gồm nỗi khao khát về vùng đất Israel. Điều này được lưu giữ trong thơ ca của Yehuda Halevi, một bác sĩ, nhà thơ và triết gia Do Thái người Tây Ban Nha, người đã di cư đến "Đất Thánh" và qua đời tại đó vào năm 1141.

Người Do Thái vẫn duy trì mối liên hệ với Palestin, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Điều này vẫn tiếp tục ngay cả sau cuộc nổi loạn Bar Kochba năm 135, khi một lượng lớn người Do Thái bị trục xuất khỏi Palestin thuộc La Mã. Cộng đồng Do Thái ở Palestin đã hồi sinh trong những năm tiếp theo. Dưới sự cai trị của người Hồi giáo, ước tính có tới 300.000 người trước các cuộc Thập tự chinh, khoảng năm 1000 SCN. Quân Thập tự chinh đã giết hại hầu hết dân số Do Thái ở Palestin hoặc buộc họ phải lưu vong, vì vậy chỉ còn lại khoảng 1.000 gia đình sau khi Saladin tái chiếm Palestin. Cộng đồng Do Thái ở Palestin lúc thịnh lúc suy cùng với những thăng trầm của cuộc chinh phạt và khó khăn kinh tế. Một số ít người Do Thái đến đây vì tình yêu dành cho Israel, và đôi khi được khích lệ bởi lời mời của các nhà cai trị Thổ Nhĩ Kỳ khác nhau dành cho những người Do Thái châu Âu di cư đến định cư ở Tiberias và Hebron. Vào những thời điểm khác nhau, có những cộng đồng Do Thái đáng kể ở Tiberias, Safed, Hebron và Jerusalem, cùng với một số lượng lớn người Do Thái sống ở Nablus và Gaza. Một số ít người Do Thái gốc vẫn ở lại thị trấn Peki'in, những gia đình đã sống ở đó liên tục từ thời cổ đại.

Thỉnh thoảng, một số lượng nhỏ người Do Thái đến định cư tại vùng đất Israel để đáp lại lời kêu gọi của các giáo sĩ Do Thái hoặc những người theo đạo Messiah, hoặc chạy trốn khỏi sự đàn áp ở châu Âu. Bắt đầu từ khoảng năm 1700, các nhóm tín đồ do các giáo sĩ Do Thái dẫn đầu đã đến Palestin từ châu Âu và đế chế Ottoman với nhiều chương trình khác nhau. Ví dụ, Rabbi Yehuda Hehasid và những người theo ông đã định cư tại Jerusalem vào khoảng năm 1700, nhưng vị giáo sĩ đột ngột qua đời, và cuối cùng, một đám đông người Ả Rập, tức giận vì những khoản nợ chưa trả, đã phá hủy giáo đường Do Thái mà nhóm này đã xây dựng và cấm tất cả người Do Thái châu Âu (Ashkenazy) khỏi Jerusalem. Rabbi Luzatto và Ben-Attar đã dẫn đầu một cuộc di cư tương đối lớn vào khoảng năm 1740. Các nhóm và cá nhân khác đến từ Litva, Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia khác nhau ở Đông Âu.

Giữa thời kỳ lưu đày của người La Mã và sự trỗi dậy của chủ nghĩa phục quốc Do Thái hiện đại, chưa hề có một phong trào định cư trên vùng đất thánh nào thu hút được đông đảo người Do Thái châu Âu hoặc Đông phương, mặc dù nhiều người bị thu hút bởi những vị cứu tinh giả mạo như Shabetai Tzvi, người đã hứa sẽ đưa người Do Thái trở về quê hương. Đối với hầu hết người Do Thái, mối liên hệ với quê hương cổ xưa và với Jerusalem chủ yếu vẫn mang tính văn hóa và tâm linh. Trở về quê hương là một sự kiện giả định sẽ xảy ra khi Đấng cứu thế xuất hiện vào một thời điểm chưa xác định trong tương lai xa. Người Do Thái châu Âu phần lớn sống trong các khu ổ chuột. Họ không được giáo dục phổ thông, và phần lớn không tham gia vào các ngành nghề thực tế có thể chuẩn bị cho họ cuộc sống ở Palestin. Hầu hết các cộng đồng do những người định cư đầu tiên này thành lập đều gặp phải thảm họa kinh tế, hoặc bị giải tán sau động đất, bạo loạn hoặc dịch bệnh bùng phát. Các cộng đồng Do Thái ở Safed, Tiberias, Jerusalem và Hebron thường bị phá hủy bởi thiên tai và thảm họa nhân tạo, và được tái định cư nhiều lần, mỗi cộng đồng chưa bao giờ nuôi sống quá vài nghìn người vào thời kỳ đỉnh cao. Người Do Thái ở Palestin, với dân số khoảng 17.000 người vào giữa thế kỷ 19, chủ yếu sống nhờ vào sự từ thiện - tiền quyên góp của Halukka, chỉ có rất ít người tham gia vào nghề thủ công hoặc công việc sản xuất.

Hình ảnh (chọn từ net): Núi Nebo, (cao khoảng 1000 mét), chỉ cách Madaba sáu dặm về phía tây bắc Jordan, theo Kinh Thánh, là ngọn núi mà từ đó Chúa đã chỉ cho Moses Đất Hứa trước khi ông qua đời (Phục Truyền Luật Lệ Ký 34). Núi Nebo theo truyền thống là một địa điểm quan trọng cho những người theo đạo Thiên Chúa đến Đất Thánh, và là điểm dừng chân phổ biến cho các tour du lịch từ Israel đến Jordan.

(còn nữa)