Wednesday, September 30, 2020

Cõi già

 NHÂN NGÀY NGƯỜI CAO TUỔI 1-10-2020 đọc bài của Andrew Lâm "Cõi Già Trên Đất Lạ" ( Aging in a Foreign Land ) viết lại theo lời kể của Cụ Bà thân sinh "... cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa." _ 031020 🌐 INTL DAY OF THE OLDER PEOPLE is on 1st of October. From the "Aging in a Foreign Land" : ... America is paradise for the young, but hell for the old ...  America has all these products that cater to children ... For the old there’s only isolation and loneliness. I think of how the whole world I once knew is all gone now, like incense smoke. I think of the old country  … and I feel this deep yearning for the distant past. 🤗  

☯️ GIÀ TRÊN ĐẤT LẠ (Aging in a Foreign Land) by Andrew Lâm 

Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.

Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.

Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa. Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, và chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.

Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.

Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả đến ai bây giờ.

Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.

Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và bổ xua lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi.

Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?

Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự cô đơn!

Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.

Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đìn h, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa. 

Các DA thua lỗ/đắp chiếu của Bộ CT

 Anh Lê Phúc Hải: CẦN TRUY TỚI CÙNG NHỮNG KẺ GÂY RA HẬU QUẢ MẤT TIỀN KHỔNG LỒ THẾ NÀY.

TRÁCH NHIỆM KHÔNG THỂ QUY HẾT CHO ÔNG CỰU BỘ TRƯỞNG VŨ HUY HOÀNG.

-----------

12 đại dự án thua lỗ: Nợ 63 nghìn tỷ, không biết bao giờ trả hết

Dự án đạm Hà Bắc vẫn ngập trong thua lỗ

Tổng tài sản của 12 dự án yếu kém ngành Công Thương là trên 59.100 tỷ đồng. Trong khi đó, tổng nợ phải trả lên đến hơn 63.300 tỷ đồng.

Âm vốn 7.200 tỷ, nợ 63.300 tỷ

Báo cáo của Chính phủ gửi các Đại biểu Quốc hội ngày 5/10 đã cập nhật việc xử lý 12 dự án kém hiệu quả ngành Công Thương.

Liên quan đến thiệt hại kinh tế cho Nhà nước của các doanh nghiệp/dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành Công Thương, báo cáo của Chính phủ cho biết: Đến nay, số liệu thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước của 12 doanh nghiệp/dự án thuộc Đề án xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành Công thương chưa được xác định đầy đủ.

Lý do là có 5/12 dự án còn tranh chấp, vướng mắc hợp đồng EPC. Do đó, chưa hoàn thành quyết toán và xác định chính xác giá trị các dự án nêu trên.

Theo số liệu, ước tính 6 tháng đầu năm 2020, tình hình tài chính của 12 dự án/doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành công thương vẫn khá ảm đạm.

Trong đó, vốn chủ sở hữu bị âm hơn 7.200 tỷ đồng. Tổng tài sản là trên 59.100 tỷ đồng. Trong khi đó, tổng nợ phải trả lên đến hơn 63.300 tỷ đồng.

Đáng nói, lỗ lũy kế của các dự án này lên đến trên 26.300 tỷ đồng.

Báo cáo của Chính phủ cũng đề cập đến thời hạn hoàn thành xử lý các doanh nghiệp/dự án này. Tại Văn bản số 90/TB-VPCP ngày 11/7/2020 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ với Ban chỉ đạo xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành công thương, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ban chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu hoàn thành xử lý trong năm 2020, nếu phải chậm hơn, không kéo dài quá nửa đầu năm 2021.

Bế tắc xử lý dự án giấy nghìn tỷ đắp chiếu

Báo cáo của Chính phủ nêu rõ việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại Tổng Công ty Giấy Việt Nam (Vinapaco) trong công tác xử lý Dự án Nhà máy bột giấy Phương Nam. Đây là dự án đầu tư hơn 3.000 tỷ đồng nhưng đã đắp chiếu hàng chục năm và bế tắc chưa có lối ra khi “bán không ai mua”.

Năm 2017, Vinapaco đã triển khai tổ chức bán đấu giá dự án lần 1 nhưng không thành công. Sau khi chứng thư thẩm định giá lần thứ nhất hết hiệu lực, Công ty đã tiến hành thẩm định giá tài sản và hàng tồn kho của dự án lần thứ hai; Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã đề nghị Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán kết quả định giá lần thứ 2 của Vinapaco, tuy nhiên sau khi Kiểm toán nhà nước bổ sung kế hoạch kiểm toán năm 2019, chứng thư thẩm định giá lần 2 hết hiệu lực (chứng thư chỉ có hiệu lực 6 tháng kể từ ngày ban hành).

Ngày 22/10/2019, Bộ Công Thương có Văn bản số 7970/BCT-TC đề nghị Tổng công ty thuê tư vấn định giá toàn bộ tài sản và hàng hóa tồn kho của dự án tại thời điểm 0h ngày 1/10/2019.

Tổng công ty Giấy Việt Nam đang xem xét dự thảo Hồ sơ thẩm định giá do tư vấn định giá lập trước khi phát hành chính thức, sau khi có kết quả thẩm định giá, Vinapaco sẽ chuyển kết quả định giá cho Kiểm toán Nhà nước để kiểm toán theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình.

Đến thời điểm 31/12/2019, tổng nợ phải trả của Dự án là hơn 3.000 tỷ đồng.

Không chỉ “bán không ai mua”, khó khăn vướng mắc của dự án này hiện nay còn liên quan đến vụ kiện giữa Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PvcomBank) và Vinapaco.

Theo báo cáo của Vinapaco tại Văn bản số 247/BC-GVN.HN ngày 31/10/2019, Ngân hàng PVcomBank đã khởi kiện Vinapaco, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Vinapaco phải trả cho PVcomBank tổng số tiền là 592,3 tỷ đồng (theo các hợp đồng tín dụng giữa TRACODI - chủ đầu tư của Dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam trước đây - và Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam chi nhánh Vũng Tàu (PVFC-VT).

Báo cáo của Chính phủ cho rằng: Vinapaco hiện rất khó khăn về tài chính, không đảm bảo chi trả các khoản nợ gốc và lãi nêu trên cho PvcomBank; vụ kiện của PVcomBank liên quan khoản vay của Vinapaco có thể dẫn đến việc không thể tiến hành bán đấu giá tài sản cố định và hàng tồn kho của Dự án theo chỉ đạo của Chính phủ.

Bộ Công Thương đã có báo cáo về sự việc này lên Ban chỉ đạo. Thực hiện chỉ đạo của Trưởng Ban chỉ đạo, trong tháng 9/2020, Bộ Công Thương đã chủ trì buổi làm việc giữa PVcombank và Vinapaco để thống nhất phương án xử lý đối với vụ kiện. Hai bên đang trong quá trình rà soát và tiến hành đàm phán xử lý.

Danh sách 12 dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương gồm 4 dự án sản xuất phân bón, 3 dự án sản xuất nhiên liệu sinh học, 2 dự án sản suất thép, 1 dự án sản xuất sơ xợi polyester, 1 dự án sản xuất bột giấy và 1 doanh nghiệp công nghiệp tàu thủy.

Cụ thể gồm: 

1. Dự án nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình

2. Dự án cải tạo, mở rộng nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc

3. Dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP số 1 - Hải Phòng 

4. Dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai

5. Dự án nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Quảng Ngãi

6. Dự án nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Phú Thọ

7. Dự án nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Bình Phước

8. Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên

9-10. Dự án khai thác và tuyển quặng sắt mỏ Quý Xa và Dự án nhà máy gang thép Lào Cai (Dự án Nhà máy thép Việt Trung)

11. Dự án nhà máy sản xuất xơ sợi polyester Đình Vũ

12. Dự án nhà máy bột giấy Phương Nam

Công ty TNHH một thành viên công nghiệp tàu thủy Dung Quất (Công ty DQS). 

Tuesday, September 29, 2020

NỖI SỢ HÃI TRANH CỬ

 1. THÌ HOÁ RA VẪN CÓ “TỰ ỨNG CỬ VÀ ĐỀ CỬ VÀO CHỨC CHỦ TỊCH UBND TP HÀ NỘI”?

Nhiều tháng trước, trong xã hội đã lan tin là ông Chu Ngọc Anh được Bộ Chính Trị (BCT) điều về làm Chủ tịch UBND TP Hà Nội. Ông Chu Ngọc Anh đang là Bộ trưởng Bộ KH&CN mà BCT điều đi nhận công tác mới không cần biết đến ý kiến của Quốc Hội. Các ĐBQH ít hôm nữa phải làm cái điều không tí nào đẹp mặt khi phải bỏ phiếu bãi nhiệm ông Chu Ngọc Anh khỏi cái chức bộ trưởng mà ông ấy đã rũ bỏ trên thực tế. Ngày 25/9/2020 HĐND TP Hà Nội đã họp để hình thức hoá quyết định của BCT điều chuyển ông Chu Ngọc Anh làm Chủ tịch UBND TP Hà Nội.

Điều ngạc nhiên là “Tại kỳ họp, không có đại biểu nào đề cử và tự ứng cử chức danh chủ tịch UBND TP Hà Nội. HĐND TP Hà Nội thống nhất nhân sự bầu ông Chu Ngọc Anh vào chức danh UBND TP Hà Nội với hình thức bỏ phiếu kín” (https://tuoitre.vn/ong-chu-ngoc-anh-lam-chu-tich-ubnd-tp...).

Thì hoá ra vẫn có “TỰ ỨNG CỬ VÀ ĐỀ CỬ VÀO CHỨC CHỦ TỊCH UBND TP HÀ NỘI” mà toàn thể nhân dân Hà Nội không được biết. Để chỉ mỗi một mình ông Chu Ngọc Anh được đề cử vào chức Chủ tịch UBND TP Hà Nội!

2. BẦU CỬ HÌNH THỨC ĐỂ LÀM GÌ?

Trong ngày 25/9/2020, không chỉ một mình ông Chu Ngọc Anh nhận được 100% phiếu bầu. Bà Đào Hồng Lan cũng trong ngày 25/9/2020 nhận được 100%  phiếu bầu vào chức Bí thư Tỉnh uỷ Bắc Ninh. Trước đó, ngày 24/9/2020 ông Đỗ Đức Duy cũng nhận được 100% phiếu bầu cho chức Bí thư Yên Bái.

Tất cả nhân sự giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ đều do BCT quyết định. Trước kỳ đại hội, phương án nhân sự của các tỉnh đều phải thông qua bởi BCT. Vậy tổ chức bầu cử hình thức để làm gì cho tốn thời gian và tiền bạc?

Trong thời gian gần đây BCT đã điều chuyển 12 bí thư và chủ tịch tỉnh về các ban ngành trung ương. Nghĩa là sẽ có ít nhất là 24 cuộc bầu cử hình thức cho 12 vị trí thế chỗ trống và 12 vị trí mới đến. Trong năm 2020 có đến cả ngàn cuộc bầu cử hình thức.

https://vietnamnet.vn/.../12-bi-thu-chu-tich-tinh-dieu...).

Nhìn vào dàn nhân sự mà BCT đã duyệt vào các chức vụ Bí thư Tỉnh, Chủ tịch Tỉnh và các Bộ Ban Ngành ở Trung ương, thì không trông chờ gì ở Đại hội XIII. Đó toàn là những người nghe theo. Họ lọt ra từ bầu cử hình thức. 

3. NỖI SỢ HÃI TRANH CỬ 

Trong quản trị quốc gia, không có tranh cử công khai thì không chọn được người tài. Và như vậy, không có tranh cử công khai là kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Tại sao tất cả các cuộc bầu cử cho các chức vụ Bí thư và Chủ tịch Tỉnh đều chỉ có 1 đề cử duy nhất? 

Đó là vì bầu Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc Hội đều chỉ có 1 đề cử duy nhất.  

Nỗi sợ hãi tranh cử bắt đầu từ trên cao nhất, chứ không phải ở cấp tỉnh, huyện, xã. Sợ đến nỗi không cho xã, huyện, tỉnh tự do tranh cử. Vì nó sẽ cháy lan đến chức vụ cao nhất. Tất cả các tiêu chuẩn dài cả trang dành cho các chức vụ Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc Hội cuối cùng chỉ là để trốn chạy tranh cử.

Đứng ở vị trí cao nhất mà sợ tranh cử công khai thì làm sao đủ năng lực dẫn dắt?

Nguyễn Ngọc Chu

VN đất nước con người: CHÚNG TA ĐANG Ở THỜI ĐẠI NÓI LÁO

 Không biết lịch sử ghi lại các triều đại phong kiến đúng sai như thế nào, cũng chẳng có cách nào để kiểm chứng. Thế nhưng, thời đại ta đang sống hoá ra toàn láo cả. Rồi lịch sử thời hiện đại sẽ viết sao đây?

Thằng doanh nhân bán đồ giả làm giàu, cứ tưởng nó giỏi, hoá ra chẳng phải thế. Nó chỉ là kẻ “Treo dê bán chó”, mua 30.000 bán 600.000 không giàu sao được, thế rồi lúc giàu lên, hàng ngày lên mạng truyền thông dạy đạo đức, dạy bí quyết, dạy cách cư xử.

Kẻ thì đem hoá chất trộn vào thức uống, khiến người ta nghiện chất độc, tạo thành thói quen nguy hiểm cho người dùng. Thế rồi khi có nhiều tiền, anh ta in sách dạy người ta tư duy, dạy cho tuổi trẻ cách sống. Nuôi đội ngũ nhà văn nhà báo tung hô mình như thánh sống, tuyên bố như đấng khải đạo.

Một ông chuyên làm thép, nghĩ toàn chuyện xây dựng những công trình có hại cho dân, nhưng lúc nào cũng mặc áo lam, đeo tràng hạt, nói toàn chuyện Phật pháp.

Một tập đoàn làm nước mắm giả, toàn hoá chất, bỏ biết bao tiền để quảng cáo lừa dân, bỏ tiền đầy túi. Một tập đoàn khác mua hoá chất quá hạn để sản xuất nước uống, lừa những kẻ phát hiện sai sót của sản phẩm mình để đưa họ vào tù, lại chuyên nói lời có cánh..... Kẻ buôn gian bán lận lại dạy cho xã hội đạo đức làm người.

Thời đại đảo lộn tất! Hài thế, mà vẫn không thiếu kẻ tôn sùng, xem các ông ấy như tấm gương sáng để noi theo. Khi vỡ lở ra, chúng toàn là kẻ nói láo.. Tất cả đều chỉ tìm cách lừa đảo nhau.

Toàn xã hội rặt kẻ nói láo, ca sĩ nói láo theo kiểu ca sĩ, đạo diễn nói láo theo kiểu đạo diễn, diễn viên nói láo theo kiểu diễn viên. Ừ thì họ làm nghề diễn, chuyên diễn nên láo quen thành nếp, lúc nào cũng láo. Thế nhưng có những kẻ chẳng làm nghề diễn vẫn luôn mồm nói láo. 

Thi gì cũng láo, từ chuyện thi hát đến thi hoa hậu, chỉ là một sắp đặt láo cả... Ngay chuyện từ thiện cũng rặt chi tiết láo để mua nước mắt mọi người. Cứ có chuyện là loanh quanh láo khoét. Kẻ buôn lớn láo, kẻ bán hàng rong ở bên đường cũng lừa đảo, láo liên tục. Mỗi ngày mở truyền hình toàn nghe nói láo từ tin tức cho đến quảng cáo, rặt láo. Nhưng cả nước đều hàng ngày nghe láo mà chẳng phản ứng gì lại cứ dán mắt mà xem.

Thằng đi buôn nói láo đã đành, vì họ lừa lọc để kiếm lời. Thế mà cô hiệu trưởng nhà trẻ, anh hiệu trưởng trường cấp ba, ông hiệu trưởng trường đại học cũng chuyên nói láo. Thực phẩm cho các cháu có giòi, cô hiệu trưởng chối quanh... Các cháu học sinh đánh nhau như du côn, làm tình với nhau trong nhà trường, anh hiệu trưởng bảo là không phải, tảng bê tông rớt chết sinh viên, ông hiệu trưởng bảo là tự tử. Thế rồi tất cả đều chìm, đều im im ỉm. Người ta đồn tiền hàng đống đã lót tay bộ phận chức năng để rồi để lâu cứt trâu hoá bùn.

Mấy ngài lãnh đạo lại càng nói láo tợn Chỉ kể vài chuyện gần đây thôi, chứ kể mấy sếp nhà ta phát biểu láo thì thành truyện dài nhiều tập. Từ chuyện quốc gia đại sự cho đến chuyện hưng vong của tổ quốc, toàn chuyện quan trọng đến vận mệnh quốc gia thế nhưng dân toàn nghe láo. Kẻ thù mang tham vọng, âm mưu để biến nước ta thành chư hầu, chuyện này rõ như ban ngày, ai cũng thấy, ai cũng hiểu, thế mà các quan toàn nói tào lao, láo lếu. 

·        Đến chuyện Formosa, khi biển nhiễm độc, cá chết, các quan bày lắm trò láo để mị dân, lấp liếm tội ác của thủ phạm, tuyên bố, họp báo, trình diễn ăn hải sản, ở trần tắm biển...tất cả đều rặt láo. 

·        Đến chuyện BOT với các trạm đặt không đúng chỗ cho đến mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất, các quan ở Bộ Giao thông lại được dịp nói láo, tuyên bố rùm beng để bênh vực những tập đoàn và cá nhân vi phạm. 

·        Khi vụ thuốc giả của VN Pharma nổ ra, cả một hệ thống truyền thông của Bộ Y tế kể cả các quan chức cấp bộ đều tuyên bố láo, tìm mọi cách che dấu tội ác của những tên buôn thuốc giả. 

·        Rừng Sơn Trà quý hiếm, các ông vì tư lợi cá nhân, ra lệnh xây cất, chấp nhận nhiều dự án khai thác, các nhà chuyên môn, nhân dân phản ứng dữ quá,các ông bắt đầu chiến dịch nói láo, chạy quanh tìm kế hoãn binh.

Đến chuyện cá nhân của các quan thì lại càng nói láo tợn... Ông bí thư xây biệt phủ như cung điện của vua chúa ở xứ nghèo phải sống nhờ trợ cấp của chính phủ cho đến ông giám đốc môi trường xây biệt phủ mênh mông ở xứ lắm rừng, rồi đến ông lãnh đạo ngành ngân hàng với những dãy nhà hoành tráng  trên miếng đất hàng ngàn thước vuông. Tất cả đều cho rằng do sức lao động cật lực mà có. Kẻ thì do nuôi gà, trồng cây, anh thì bảo chạy xe ôm đến khốc cả người, người thì nhờ bán chổi, trồng rau, kẻ khác thì bảo nhờ tiền của con dù con chẳng làm gì ra tiền và có đứa thì mới mười chín tuổi. 

Lương thì chẳng bao nhiêu mà quan nào cũng vi la trong và ngoài nước, nhà nghỉ trên núi, nhà mát dưới biển, lâu đài, nhà to ở nước ngoài. Con cái ăn chơi như các công tử, tiểu thư quý tộc. Các bà vợ thì như các mệnh phụ, chỉ xài đồ dùng ở nước ngoài, đi shopping các mall lớn ở nước ngoài như đi chợ... Thế nhưng các ngài luôn phát biểu yêu dân, thương nước, yêu tổ quốc, đồng bào, và luôn nhắc nhở đất nước còn nghèo phải học tập ông này, cụ nọ để có đạo đức sáng ngời.

Các lãnh đạo xem rừng như sân nhà mình, phá nát không còn gì.. Một cây có đường kính 1m phải mất trăm năm mới hình thành, lâm tặc chỉ cần 15 phút để đốn hạ. Hàng trăm chiếc xe chạy từ rừng chở hàng mét khối gỗ chỉ cần đóng cho kiểm lâm 400.000 đồng một chiếc là qua trạm. Rừng không nát mới lạ. Khi rừng không còn, lệnh đóng rừng ban ra, các lãnh đạo địa phương toàn báo cáo láo với chính phủ và có nơi tìm cách tiếp tục vét cú chót bằng cách làm trắng những cánh rừng còn lại..

Rừng bị tận diệt vì nạn phá rừng, rừng còn bị huỷ diệt bởi những dự án thuỷ điện. Tất cả đều có sự tiếp tay của các quan và ban ngành chức năng của địa phương. Rừng không còn, lũ về gây tang thương chết chóc, đê vỡ khiến nhà cửa tài sản trôi theo dòng nước, các quan cho là xả lũ đúng quy trình. 

Bão chưa tới, lũ chưa về, các quan tỉnh đã ngồi với nhau viết báo cáo thiệt hại để xin trợ cấp. Một anh từng là tổng biên tập tờ báo lớn, sau khi thu vén được hàng triệu đô la bèn đưa hết vợ con qua Mỹ, sắm nhà to, xe đẹp còn anh thì qua lại hai nước, lâu lâu viết bài biểu diễn lòng yêu nước thương dân, trăn trở với tiền đồtổ quốc, khóc than cho dân nghèo, kinh tế chậm lớn, đảng lao đao…

Còn biết bao chuyện láo không kể xiết: Ngay cả thầy tu, các bậc tu hành cũng làm trò láo để quảng cáo chùa của mình, để thêm nhiều khách cúng bái, để thùng phước sương thêm đầy, để nhà thờ của mình thêm tín hữu. Chúa, Phật đành bỏ ngôi cao mà đi khi thấy những kẻ đại diện mình đến với mọi người bằng những điều xảo trá..

Chúng ta đang ở một thời đại láo toàn tập, láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội. Tất cả đều bị đồng tiền sai khiến, bị danh lợi bám quanh. Hơn nữa vì sự thật bi đát quá, đành láo để khoả lấp, hi vọng sẽ an dân. Nhưng thời đại bùng nổ thông tin, dân biết hết nên chuyện láo trở thành trơ trẽn.

Nghe láo quen, chúng ta lại tự láo với nhau và chuyện láo trở thành bình thường, láo để tồn tại, để phấn đấu, để thêm lợi thêm danh, và rồi láo đã trở thành một nếp sống.

Trẻ con học người lớn nói láo rồi tiếp tục những thế hệ nói láo. Ở nhà trường nghe cô thày nói láo, ra đời nghe thiên hạ nói láo, về nhà lại được nghe nói láo từ cha mẹ, mở máy nghe, nhìn cũng rặt điều láo.

Một nền văn hoá láo đã nẩy sinh và phát triển.

Hỏi sao trẻ con không láo và tương lai lại tiếp tục láo. Nghĩ cũng buồn!

Ngày cuối tháng 10.2017

Bs Đỗ Duy  Ngọc

Monday, September 28, 2020

Vấn đề hàng đầu của 1 quốc gia

Nếu muốn Hưng thịnh và trở thành 1 đất nước văn minh, hạnh phúc.

CUỘC CHIẾN TÀN BẠO NHẤT- ĐÂU CẦN ĐẾN BOM ĐẠN...

Tuyên bố nổi tiếng của Nelson Mandela được viết tại cổng trường Đại học Nam Phi:

« Để phá hủy bất kỳ quốc gia nào không cần phải sử dụng đến bom nguyên tử hoặc tên lửa tầm xa. Chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục và cho phép gian lận trong các kỳ thi của sinh viên. »

« Bệnh nhân chết dưới bàn tay của các bác sĩ của nền giáo dục đấy. »

« Các tòa nhà sụp đổ dưới bàn tay của các kỹ sư của nền giáo dục đấy.. »

« Tiền bị mất trong tay của các nhà kinh tế và kế toán của nền giáo dục đấy.. »

« Nhân loại chết dưới bàn tay của các học giả tôn giáo của nền giáo dục đấy. »

« Công lý bị mất trong tay các thẩm phán của nền giáo dục đấy. »

« Sự sụp đổ của giáo dục là sự sụp đổ của một quốc gia. »

Sưu tầm

Giáo dục thời kỳ VNDCCH: Hai vị Bộ trưởng

Tri ân các vị HIỀN TÀI... 

Hai vị bộ trưởng của ngành giáo dục nước nhà. 

Bộ Giáo dục VNDCCH có Bộ trưởng lâu nhất là giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên ( hình đầu). Cụ làm Bộ trưởng từ 1946 cho tới 1975, tổng cộng gần 29 năm và là tiến sĩ tốt nghiệp trường Sorbonne của Pháp ra.

Cụ Huyên sinh năm 1907, có cha là cụ Nguyễn Văn Vượng công chức thời Pháp, mẹ là cụ Phạm Thị Tí một người làm nghề buôn bán nhỏ. Cha của cụ Huyên mất từ khi cụ mới 8 tuổi. Nhưng mẹ quyết chí cho con ăn học. Bà cụ cho con gái đầu là Nguyễn Thị Mão đi học và còn học cao (sau này bà Mão là vợ Khâm sai Bắc bộ Phan Kế Toại), tốt nghiệp niên khoá 1924-1927 của Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương và trở thành nữ giáo viên đầu tiên của Việt Nam. Ra trường là chị cả, cụ Mão cùng mẹ hỗ trợ 2 em đi học ở Pháp. Cụ Nguyễn Văn Huyên  học tú tài toàn phần rồi Cử nhân Văn khoa năm 1929, Cử nhân Luật năm 1931 tại Đại học Sorbonne.

Trong thời gian nghiên cứu Tiến sĩ ở Pháp, cụ còn tham gia dạy học tại Trường Ngôn ngữ Đông phương. Năm 1934 cụ là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn khoa tại Đại học Sorbonne, Paris với luận án chính "Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam" và luận án phụ "Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông Nam Á". Hai bản luận án này được xếp loại xuất sắc, được in thành sách và xuất bản ở Pháp với sự hoan nghênh của giới chuyên môn Pháp, Đức, Hà Lan. 

Về nước cụ Huyên dạy ở trường Bưởi, sau đó tham gia Hội truyền bá quốc ngữ và làm ủy viên thường trực của Viễn đông Bác cổ HN, sau đó làm Ủy viên Hội đồng nghiên cứu khoa học Đông dương.

Năm 1946, cụ trở thành Bộ trưởng Giáo dục của VNDCCH, lao vào công tác diệt giặc dốt, xây dựng các trường đại học thuần Việt và phát triển hệ thống giáo dục quốc gia. 

Cụ Huyên là con người có trí thức cao, một học giả uyên thâm, tử tế, nhã nhặn. Do đó thời cụ làm Bộ trưởng dù trải qua 2 cuộc chiến tranh nhưng thày trò vẫn nề nếp và không khí trường học rất có văn hóa.

Bộ trưởng thứ 2 là giáo sư Tạ Quang Bửu. Cụ từng làm Bộ trưởng Bộ  đại học và trung học chuyên nghiệp từ 1959-1976. Cụ là một học giả, một nhà khoa học xuất sắc. 

Tạ Quang Bửu sinh năm 1910 tại Nam Đàn Nghệ An.  Năm 1917 tại Tam Kỳ - Quảng Nam, trong kỳ thi về chữ Hán ngữ - Văn hoá Việt - Toán được tổ chức cho các em học sinh lên bảy, cụ đã đỗ rất cao và từ đó trở nên nổi tiếng vì học tập xuất sắc.  Năm 1922 cụ đậu hạng 11 vào trường Quốc học Huế và sau chuyển ra HN học trường Bưởi. 7 năm sau, 1929, cụ đỗ đầu cả 2 kỳ thi tú tài Việt và Pháp ban Toán và nhận học bổng qua Pháp du học. Tới Pháp cụ thi đỗ vào Trường Centrale (A) Paris năm 1930, học Toán ở các trường Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh) từ 1930 đến 1934.

Cụ từng làm Hiệu trưởng trường Bách khoa HN, và rất có tâm trong việc xây dựng và phát triển các đại học VN trong hoàn cảnh chiến tranh, gửi du sinh đi Đông Âu học tập, phát triển nghiên cứu khoa học. 

Cụ Tạ Quang Bửu là hướng đạo sinh, vợ cụ là con gái của cụ Hoàng Đạo Thúy, nhà tiên phong của phong trào Hướng đạo VN. Cụ từ trẻ đã chơi tốt thể thao và truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho các học sinh như: đánh bóng bàn theo kiểu Barma (đương kim vô địch thế giới về bóng bàn, người Hunggary), tập điền kinh theo phương pháp khoa học nhất, bơi sải ...

Về nhân cách, Tạ Quang Bửu là một Bộ trưởng liêm khiết, tận tụy, yêu thương sinh viên và học sinh. Thời của cụ Bửu đã có nhiều nhân tài được học hành đào tạo bài bản sau này làm được nhiều việc tốt cho quốc gia.

Ngay trong những năm chiến tranh ác liệt, cụ đã mời một số nhà toán học Pháp được tặng Huy chương Fields  như Laurent Schwartz, Alexandre Grothendieck sang thăm Việt Nam, đọc bài giảng về các vấn đề toán học hiện đại nhất, để cập nhật kiến thức cho đội ngũ nghiên cứu toán học nước ta. Chính cụ là người đề xướng và tổ chức thực hiện việc thi tuyển sinh đại học và kiểm tra kiến thức nghiên cứu sinh một cách công bằng, minh bạch. Và trong thời của cụ VN lần đầu tiên tham gia các kỳ thi Toán quốc tế và đoạt giải thưởng. Cụ cũng là người giỏi chiêu hiền đãi sĩ và cư xử trân trọng với các tài năng trong bối cảnh khó khăn bấy giờ.

Hai cụ Nguyễn Văn Huyên và Tạ Quang Bửu đã tạo ra một dấu ấn riêng cho giáo dục ở VNDCCH, mà hậu bối sau này mãi mãi biết ơn và ghi nhớ. 

Những trí thức Tây học, tài ba, tử tế và tận tâm như vậy nay vô cùng hiếm.

Tác giả:  cô Nguyễn Thị Bích Hậu

Sunday, September 27, 2020

Võ sư bị CA vây bắt. Đất nước có còn quốc pháp?

 PHẢI ĐỐI XỬ VỚI VÕ SƯ TIẾN SỸ PHẠM ĐÌNH QUÝ THEO ĐÚNG LUẬT PHÁP 

1. TINH THẦN THƯỢNG VÕ 

Dân tộc Việt Nam chiến thắng được giặc ngoại xâm là một phần rất lớn nhờ vào khả năng võ thuật và tinh thần thượng võ. Nhờ võ thuật mà quân sỹ trở nên thiện chiến, góp phần tiêu diệt kẻ thù trong chiến trận. Tinh thần thượng võ nuôi dưỡng tính không khuất phục và trượng nghĩa. Trượng nghĩa là giúp kẻ yếu trước bạo ngược của kẻ mạnh. Không khuất phục trước giặc ngoại xâm mạnh đã góp phần bảo toàn dân tộc trước sự cai trị ngàn năm của giặc phương Bắc. 

Trên đất nước ta, trải dài khắp từ Bắc Trung Nam, ở đâu cũng nổi danh các lò võ lò vật. Chính các lò võ lò vật khắp Bắc Trung Nam này là nơi cung cấp các võ tướng và các chiến binh thiện chiến, làm rạng danh các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, và các triều đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Tây Sơn và nhà Nguyễn. Các trường phái võ của nước ta từ đời này qua đời khác được truyền nối và mỗi ngày một hoàn thiện, phát triển mở mang ra xa ngoài bờ cõi, sang nhiều nước khác trên thế giới. Có được như vậy là nhờ công lao truyền đời của giới võ sư. Cho nên, từ ngàn xưa, các võ sư là lớp người được xã hội kính trọng, nghề dạy võ là nghề cao quý. 

2. MỜI LÀM VIỆC SAO  LẠI VÂY BẮT VÀ ÁP TẢI VÕ SƯ TIẾN SỸ PHẠM ĐÌNH QUÝ ? 

Trong các lò võ của Việt Nam, Quang Ngãi là một cứ địa vang danh. 

Bố của võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý là võ sư Phạm Đình Trang vì mưu sinh nên rời Quảng Ngãi đến Bà Rịa - Vũng Tàu và sau đó định cư tại Bình Thuận năm 1985. Phạm Đình Quý sinh năm 1981. Năm 13 tuổi đã vô địch thi quyền giải quốc gia. Năm 23 tuổi vô địch đối kháng giải võ cổ truyền quốc gia. Phạm Đình Quý tiếp tục học thêm các môn võ khác, đạt được danh hiệu vô địch Karate -do TP HCM và vô địch Pencak Silat TP HCM.

Năm 2007 Phạm Đình Quý trở thành giảng viên võ cổ truyền tại ĐH TDTT TP HCM, năm 2010 bảo vệ luận án Thạc sỹ tại Đài Loan và năm 2015 võ sư Phạm Đình Quý nhận được bằng Tiến sĩ Võ học tại Trung Quốc. Năm 2019 võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý giảng dạy ở ĐH Tôn Đức Thắng TP HCM. Võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý có các học trò đạt giải ở các cuộc thi võ thuật quốc gia và quốc tế.

Nay nghe tin mà kinh sợ, rằng Công an Đắk Lắk đã vây bắt, áp tải võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý vào lúc 18h ngày 23/9 tại địa bàn quận 7, TP.HCM trước bàn dân thiên hạ, không cáo trạng, không đọc lệnh bắt giam, để áp tải lên  Đắk Lắk "làm việc", chỉ vì võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý và đồng nghiệp đã viết đơn tố cáo ông Bùi Văn Cường, Bí thư tỉnh ủy Đắk Lắk về việc đạo luận án tiến sĩ. 

Gần 2 ngày sau, sáng ngày 25/9, báo chí đưa tin Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk xác nhận đã mời ông Quý "lên làm việc"!

3. SAO KHÔNG KIỆN RA TOÀ ÁN MÀ LẠI SỬ DỤNG BỘ MÁY CÔNG AN?

Đơn của võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý cùng đồng nghiệp tố cáo ông Bùi Văn Cường được thực hiện công khai, gửi đến các cơ quan báo chí, và đã được các cơ quan báo chí đăng tải rộng rãi.

Nếu ông Bùi Văn Cường thấy mình bị vu cáo thì kiện võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý ra Toà án. Tại sao  Công An Đắk Lắk vây bắt áp tải võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý ? Sao lại “mời lên làm việc” theo cách vây bắt áp tải? 

Nếu ông Bùi Văn Cường không phải là Bí thư Tỉnh uỷ Đắk Lắk thì Công An Đắk Lắk có thực hiện vây bắt võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý không?

Việc kiện tụng giữa võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý và ông Bùi Văn Cường là việc dân sự giữa 2 cá nhân, sao lại có Công An Đắk Lắk tham gia? (https://tuoitre.vn/giang-vien-truong-dai-hoc-ton-duc...).

4. GIỚI VÕ SƯ Ở ĐÂU? 

Việc tố cáo ông Bùi Văn Cường đạo luận án tiến sỹ của võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý đúng sai thế nào sẽ có toà án phân xử theo pháp luật. Hoàn toàn không thể cậy thế mạnh để vây bắt như Công An Đắk Lắk đã làm.

Khi mà võ sư bị vây bắt trước bàn dân thiên hạ không có cáo trạng là đòn chí mạng lên danh dự võ lâm.

Nếu các võ sư không bảo vệ được chính mình thì những kẻ yếu thế còn biết trông cậy vào ai?

5. ĐẤT NƯỚC CÓ CÒN QUỐC PHÁP? 

Không ai bênh vực cho võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý. Chỉ đòi hỏi đối xử với võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý theo đúng pháp luật. Nếu võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý có tội, thì tội đó phải được tuyên bởi một bản án của toà án thượng tôn pháp luật.

Khi mà những người được xã hội tôn trọng như võ sư, lại có học vị tiến sỹ, lại thành danh trong các cuộc đấu võ, lại giảng dạy ở trường đại học, lại có các học trò đạt các giải thưởng quốc gia và quốc tế về võ thuật, mà lại bị đối xử theo luật của kẻ mạnh, thì đó là lúc quốc pháp không được tôn trọng, là lúc mạng người mong manh, là lúc kẻ mạnh làm điều họ thích làm.

Hành động của võ sư tiến sỹ Phạm Đình Quý không phải là nhằm lật đổ chế độ. Các vị Đại biểu Quốc hội, là đại diện của cơ quan lập pháp, không thể làm ngơ.

P/S:

Để có thêm thông tin, xin mời đọc bài của facebooker SONG TRA

ĐAU XÉ LÒNG VÕ LÂM QUẢNG NGÃI 

Vùng đất Quảng Ngãi đã được tộc họ Phạm định cư trước cả Chiêm Thành. Trong huyền sử và trong gia phả tộc họ Phạm đều có nhắc đến nước Lâm Ấp - Nam Chiếu có từ thời Hùng Duệ Vương.

Họ Phạm làm vua vùng đất này trải qua 19 đời đóng tại thành Châu Sa (Sơn Tịnh, Quảng Ngãi).

Nhân tài họ Phạm góp công sức cho đời nhiều vô số kể.

Dòng dõi tộc Phạm ngày nay tập trung ở vùng Mộ Đức.

Bác Phạm Văn Đồng và gần đây có chú Phạm Đình Khối, nguyên bí thư tỉnh ủy QN cũng thuộc dòng dõi họ Phạm này.

Năm 1778, Phạm Hầu, dòng dõi họ Phạm tại Mộ Đức (Mộ Hoa) đạt thủ khoa võ triều Tây Sơn, được giao Lãnh binh trấn thủ thành Quảng Ngãi. Năm 1780 ông lại tiếp tục đoạt quán quân võ cử.

Cháu 3 đời của Phạm Hầu là Phạm Định dạy võ cho 4 người con.

Đầu thế kỷ XX, tại Thu Xà thiết lập võ đài. Một võ sư Thiếu Lâm Bắc Phái Hổ Quyền đã thủ đài trong 3 ngày liên tục mà không ai hạ nổi.

Phục tài, Phạm Định đã mời võ sư đó truyền dạy tiếp cho 4 người con.

Người con Phạm Trinh thừa hưởng võ học tuyệt kỹ Tây Sơn Long Quyền từ ông cha kết hợp Thiếu Lâm Bắc Phái Hổ Quyền của sư phụ lập nên võ phái Thiếu Lâm Long Hổ Môn Võ Đạo vào năm 1920

Ông được vua Bảo Đại phong Chánh Tổng Nghĩa Hành và làm quan đến cửu phẩm.

Võ sư Phạm Trinh đã truyền dạy cho lứa học trò đầu tiên, có 4 người xuất sắc gồm:

+ Bảo Tri Phong ( Chín Sửu), vô địch Đông Dương

+ Đỗ Hy Sinh ( người Thu Xà, từng hạ Bảo Tri Phong trong một trận tranh vô địch miền Trung ở trận chung kết)

+ Đỗ Đình Quý

+ Mười Thừa

Trong quá trình tầm sư học đạo, võ sư Lâm Võ và Ngô Bông đã được các học trò của Vs Phạm Trinh truyền thụ các tuyệt kỹ võ công.

Ông và cha mất sớm, cháu của vs Phạm Trinh là Phạm Đình Trang đã được hai sư thúc Lâm Võ và Ngô Bông truyền thụ tiếp những tinh hoa để kế nghiệp chưởng môn đời thứ 3. 

Theo bước mưu sinh, vs PĐT vào Bà Rịa rồi năm 1985 về Bình Thuận an cư lập nghiệp.

Vs Phạm Đình Trang có 1 người con là Phạm Đình Quý sinh năm 1981. Năm 13 tuổi đã vô địch thi quyền giải quốc gia. Năm 23 tuổi vô địch đối kháng giải võ cổ truyền QG. Anh tiếp tục nghiên cứu các môn võ khác và lấy vô địch Karate TPHCM, vô địch Pencak Silat TPHCM.

Năm 26 tuổi anh được mời về giảng dạy võ cổ truyền tại ĐH TDTT TPHCM. Anh vừa dạy, vừa học, nghiên cứu hệ thống hoá các bài giảng võ cổ truyền và lấy Thạc sĩ.

Năm 2015 anh lấy Tiến sĩ võ học tại Trung Quốc.

Học trò của anh đạt nhiều giải QG và QT.

Biết được tài năng của anh, người đồng hương Mộ Đức là thầy Lê Vinh Danh mời anh về ĐH TĐT và anh đã đưa đội tuyển SV TĐT lấy giải QG và QT.

Lại nói về nhân tài miền Ấn Trà vào Nam lập nghiệp, vang danh như Trương Định và Lê Văn Duyệt_ Tổng trấn thành Gia Định, cũng vì cương trực mà lao đao.

Trong cuộc chiến tại ĐH TĐT, tiến sĩ võ sư Phạm Đình Quý đã tố cáo anh Cường tổng LĐ và cũng là bí thư Đăk Lăk đạo văn luận án tiến sĩ và anh vừa bị bắt vì tội vu cáo anh Cường?!

Một học trò từng theo học võ sư Ngô Bông trong 10 năm và từng thượng đài từ năm 14 tuổi với võ danh Ngô Ngân, giờ đây viết fb với bút danh Sông Trà sẽ không thể thờ ơ.

Ngày xưa, võ sư Ngô Bông, không phụ lòng ân sư, bỏ công truyền thụ võ công để Thiếu Lâm Long Hổ Môn Võ Đạo khỏi thất truyền thì ngày nay Ngô Ngân cũng nguyện góp chút sức nhỏ nhoi.

Võ lâm Quảng Ngãi chấn động !!!

Các võ đường Nguyễn Hồng, Lâm Võ, Ngô Bông, Lâm Xí, Bùi Tá Tưởng, Huỳnh Long Hổ, Ngọc Cư, Tấn Hoành.... ít nhiều đều thừa hưởng võ công xuất xứ từ võ sư Phạm Trinh.

Luận án tiến sĩ của anh Cường sẽ được sớm công khai để nhân tài Quảng Ngãi xem xét có đạo văn hay không.

Dòng họ Phạm và những người con xứ Quảng phải chung tay mời những luật sư giỏi nhất.

Nếu TS.VS Phạm Đình Quý có tội thì xử đúng tội. Nếu vô tội thì phải được minh oan !!!

Hậu duệ của tướng Phạm Hầu, người sẽ kế thừa chưởng môn THIẾU LÂM LONG HỔ MÔN VÕ ĐẠO, niềm tự hào võ thuật đất Quảng Ngãi, không thể bị mai một.

(https://www.facebook.com/profile.php?id=100027333155255)

Nguyễn Ngọc Chu

Câu chuyện của Ái Việt

Nguyễn Ái Việt: Nhà khoa học bị coi là `gàn` và thương vụ ngã giá đơn thương độc mã với Microsoft

Là người mở đường cho nền CNTT Việt Nam, TS Nguyễn Ái Việt từng bỏ mức lương triệu USD tại Mỹ để về làm việc ở quê hương. Ông cũng là nhân tố quyết định trong thương vụ “tỷ đô” với Microsoft.

Người dân có thể còn lạ lẫm với cái tên Nguyễn Ái Việt nhưng giới Công nghệ thông tin (CNTT) thì chẳng mấy ai là không biết tiếng. Ông chính là người mở đường cho nền CNTT Việt Nam và là nhân tố quyết định trong vụ đàm phán đình đám “tỷ đô” với Microsoft.

Ông cũng là dị nhân được gắn cho biệt danh “nhà khoa học ấm đầu” khi lạnh lùng từ bỏ mức lương triệu USD ở Mỹ để quay về làm việc tại quê hương. Hơn 10 năm hồi hương, ông theo đuổi phần mềm soát lỗi chính tả và dịch thuật “made in Việt Nam” với ước vọng đánh bại “gã khổng lồ” Google Translate.

Người thích đạp đổ để bắt đầu lại

Sinh trưởng trong gia đình đậm chất văn chương với bố là nhà văn, mẹ là giáo viên dạy văn nhưng Nguyễn Ái Việt lại chọn cho mình con đường khoa học với một lý do rất “văn học”: Do quá say mê tác phẩm “Ba nhà vật lý”. Tốt nghiệp đại học tại Hungary năm 1978 và được các giáo sư tại trường trải thảm đỏ mời ở lại nhưng chàng sinh viên Nguyễn Ái Việt đã nằng nặc xin hồi hương với suy nghĩ đất nước đang cần người tài. Năm 1984 ông đi Nga để chuẩn bị làm luận án tiến sỹ. TS Việt nhớ lại, thời gian đó đất nước vô cùng khó khăn, đặt biệt là năm 1988 khi chế độ bao cấp được gỡ bỏ, kinh tế bắt đầu trỗi dậy nhưng đời sống công nhân viên chức vẫn trong cảnh “ăn đong”.

Trong quá trình học, ông luôn là người đứng đầu lớp, tham gia các cuộc thi dành cho các nhà vật lý trẻ tại nước bạn và dễ dàng giành phần thưởng. Ông là người Việt Nam đầu tiên được Viện Hàn lâm khoa học Hungary vinh danh là một trong những nhà khoa học tiên tiến của thế giới. Năm đó TS Việt nhận giải cùng nhà vật lý Paul Dirac (Nobel Vật lý năm 1933).

Hồi tưởng lại những kỉ niệm này, ông hóm hỉnh chia sẻ: “Hồi đó chỉ nghĩ đạt giải là tốt cho mình thôi chứ không nghĩ đến chuyện gì khác. Kể ra mà tuyên truyền thì bây giờ cũng nổi tiếng lắm đấy”. Trong con người “nhà khoa học gàn dở” này, có một điểm lạ là không coi trọng các giải thưởng.

Ông chợt nhớ hồi học đại học, ông cũng đạt giải thưởng Rudolf dành cho các nhà vật lý trẻ. Giờ thì cúp hay cờ, TS Việt đều không còn giữ vì đã để lại ở Hungary. Những gì còn lại là một cái tên Việt “chễm chệ” trên bảng vàng lưu danh của Viện Hàn lâm khoa học Hungary.

Sau hàng loạt giải thưởng, ông được mời vào chiếc ghế giáo sư của trường đại học cũ tại Hungary và đảm nhận công việc “gõ đầu” sinh viên trong 4 năm. Đến năm cuối, thầy trưởng khoa gọi TS Việt nhắn nhủ: “Tôi nghĩ anh nên tiếp tục đi về hướng tây thì sẽ tốt hơn”. Chính vì thế, ông nhận lời mời của một trường đại học ở Ý để sang đó giảng dạy vào năm 1991 và năm sau ông được mời sang Mỹ. Cả gia đình ông bắt đầu một cuộc sống mới.

Sau rất nhiều nỗ lực, ông đã có một vị thế chắc chắn trong giới vật lý. Thời gian đó, Viện Vật lý lý thuyết châu Á – Thái Bình Dương của Nhật (đặt trụ sở tại Hàn Quốc) có mời ông vê làm nhưng ông từ chối. Thay vào đó, ông nhận lời mời làm trong phòng an toàn an ninh mạng của AT&T, công ty hàng đầu về thông tin liên lạc ở Mỹ. Đó chính là bước ngoặt bẻ lái cuộc đời ông sang CNTT. Ông có suy nghĩ: “Cần phải thức thách mình trong một lĩnh vực mới. Ở lĩnh vực vật lý, mình đã đạt được thành công thì sẽ thử sức ở một lĩnh vực khác”. TS Việt lấy việc chinh phục những thử thách làm niềm vui.

Ông luôn tâm niệm, ở bất cứ lĩnh vực nào, làm bất cứ công việc gì thì cũng phải trở thành người dẫn đầu. Tuy nhiên, ở ông không có cảm giác ăn thua mà làm bất cứ việc gì ông cũng thích thú, đam mê. Với CNTT, ban đầu ông làm quen với an toàn an ninh mạng rồi “mon men” đến phần mềm. Đến khi kết thúc sứ mệnh ở AT&T, ông đã lên đến chức kĩ sư trưởng phần mềm.

Năm 2000, ông được công ty Siemens mời về làm kĩ sư trưởng với mức lương hàng năm lên đến 7 con số tiền Mỹ. Nhưng lý do chính khiến ông đầu quân cho Siemens là vì kì nghỉ dành cho nhân viên ở đây kéo dài 5 tuần, ông sẽ có nhiều thời gian hơn để về Việt Nam (ở những công ty khác của Mỹ chỉ 2 tuần). Khoảng thời gian này, Việt Nam chưa đặt đại sứ quán ở Mỹ mà chỉ có phái đoàn đại diện cho Việt Nam tại Liên Hợp quốc. Nhưng đời sống của phái đoàn hồi đó còn rất khó khăn.

Ông nhớ, khi đến thăm văn phòng, họ đã mời ông ở lại ăn tối nhưng chỉ có mỳ ăn liền. Đây là kỉ niệm khiến ông rất xúc động. Ở Mỹ, ông khá nổi tiếng trong cộng đồng người Việt, vì thế ông có cơ hội được gặp rất nhiều quan chức Việt Nam, trong đó có Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm. Trong một lần trò chuyện với ông, Phó Thủ tướng nói: “Cậu nên về hẳn để giúp đất nước, đi đi lại lại tốn tiền lắm”. Đến năm 2003, ông quyết định về nước.

“Tôi là người Việt, về Việt Nam tôi có cảm giác tôi đang sống hơn. Nhưng có thể tôi về lúc đó còn sớm, nhiều việc mình muốn làm nhưng thời cơ chưa chín muồi, điều kiện chưa cho phép”, TS Việt trầm ngâm.

Không thích những giải thưởng nhưng vị viện trưởng viện CNTT (Đại học Quốc gia Hà Nội) lại hào hứng khi nói đến phi vụ ngã gia” mua bản quyền Office với Microsoft. Chia sẻ lý do của phi vụ này, TS Việt nói: “Khi bắt đầu tiếp xúc với CNTT, người Việt cũng bắt đầu “dùng chùa” phần mềm Office của Microsoft. Chính vì thế, họ yêu cầu phía mình thanh toán tiền phần mềm. Bên cạnh đó, trong “bảng đen” các quốc gia vi phạm phần mềm thì Việt Nam thuộc top đầu với tỉ lệ 94-95%”. Theo TS Việt, đây không phải chỉ là chuyện bản quyền mà nó còn là một động thái chính trị. Chúng ta muốn gia nhập WTO thì phải chứng tỏ cho thế giới biết là Việt Nam có thiện chí, khi ra sân chơi thế giới luôn tôn trọng luật chung.

Cuộc “ngã giá” với Bill Gates trong thương vụ với Microsoft

Là người trực tiếp đảm nhận trách nhiệm giao dịch, TS Việt đã ra giá với Bill Gates mức tiền 10% giá trị mua bản quyền Office và khá bất ngờ khi nhận được câu trả lời của vị giám đốc Microsoft: “Bao nhiêu phần trăm không quan trọng. Đối với tôi, số tiền không phải là vấn đề lớn. Vấn đề là ở phía các ông chứ không phải ở tôi. Các ông quyết định trở thành một quốc gia không ăn trộm phần mềm thì đó là lựa chọn của các ông. Còn nếu các ông cứ tiếp tục làm thế thì tôi cũng chẳng làm gì được”. Trong quá trình đàm phán, có rất nhiều nghi kị chĩa mũi nhọn vào TS Việt. Họ không hiểu việc làm của ông, thậm chí còn có tin đồn ông hét giá cao để ăn phần trăm. Nhưng TS Việt vẫn phải “ngậm đắng nuốt cay” không thể thanh minh vì điều kiện tiên quyết mà Microsoft đưa ra là “không tiết lộ con số”.

Hồi tưởng lại tai nạn “từ trên trời rơi xuống”, TS Việt chia sẻ: “Ở Bộ Khoa học Công nghệ hồi đó có một đồng chí chuyên viên được giao viết báo cáo về vấn đề này. Tuy nhiên, đồng chí này viết một câu rất nặng rằng Bộ Công nghệ Thông tin đang “quỳ gối” dâng 1 tỷ USD cho Mỹ. Không hiểu thế nào, bản báo cáo đó được tung lên mạng. Bộ Công an vào cuộc và đồng chí đó nói rằng mình không đẩy lên. Và tất nhiên, con số thực ít hơn rất nhiều nên chuyện cũng qua đi. Nhưng nói ra để thấy rằng, hồi đó tôi rất áp lực.

Đến thời điểm này, hợp đồng đã hết hiệu lực và tôi có thể công bố rằng, ở hợp đồng đó, Việt Nam chỉ phải bỏ ra 21 triệu USD và không hồi tố. Nghĩa là tất cả những gì mình ăn cắp từ trước đều được xóa và sau này, Việt Nam được mua một tặng một, coi như viện trợ. Trong số tiền 21 triệu USD đó, Microsoft lại đưa lại cho Việt Nam 5 triệu USD để viện trợ phát triển CNTT. Tức là mình chỉ phải trả 16 triệu mà được xóa cái án ăn cắp phần mềm”.

Rồi sau này ngồi tính lại, TS Việt vẫn nhoẻn cười vì con số đó chưa đến 10% như thỏa thuận ban đầu của ông với Bill Gates. Sau buổi đàm phán, Bill Gates có nhận xét một câu “Tôi nhận thấy Việt Nam bắt đầu có ý tưởng”. Nhưng, theo TS Việt “giờ nó vẫn là ý tưởng, đã làm được gì đâu”. Trong thời gian thương thảo hợp đồng, hầu như tuần nào phía đối tác cũng cử người sang làm việc. Qua được cấp đại diện quốc gia, cấp đại diện khu vực, mới đến cấp lãnh đạo công ty. Còn phía bên ta thì chỉ có mình Nguyễn Ái Việt. Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Việt đã làm được, Việt Nam đã làm được.

Theo Người đưa tin

Câu chuyện giáo dục: HÃY BẮT ĐẦU TỪ HÔM NAY

Bài: Hưng Hưng Vũ.

Mình sang Anh tu nghiệp ngắn hạn, lúc ở Tp Coventry thì ở nhà anh Luke, người bản xứ, còn ở Tp Manchester thì ở nhà chị Hoà, Việt Kiều. 

Anh Luke là chủ doanh nghiệp lớn về công nghệ sinh học. Hôm ở nhà anh Luke, mình bị lệch múi giờ nên khó ngủ, lúc 12h đêm rồi mà vẫn không nhắm mắt được. Bỗng nhiên mình thấy thằng con trai anh, cỡ 10 tuổi, đi vô bếp dọn dẹp 1 tí (dù mẹ nó đã dọn xong như nó vẫn double-check tức kiểm tra lại), rồi ra bật đèn ngoài sân, kiểm tra cửa cổng đã đóng chưa, coi con chó đã yên vị trong cái chuồng nó trên bãi cỏ chưa, rồi mới vào khoá cửa nhà, tắt điện, nhẹ nhẹ đi vô phòng của nó để ngủ. 

Mình ngạc nhiên ghê lắm, sáng sớm ăn sáng hỏi thì nó nói đó là môn học Home Maintenance, trường nó bắt buộc phải làm từ lớp mẫu giáo, cha và mẹ nó làm cùng với nó cả 2 năm nay. Sau 2 năm nó đã quen, không sợ ma khi ra ngoài sân nữa, có ma là con Ken (con chó của nó sẽ sủa bảo vệ nó ngay). Nó nói tối qua nó thức khuya để nghiên cứu tài liệu cho buổi thuyết trình vào tuần sau, nên mới thức khuya vậy. 

Anh Luke nói cái kỹ năng Home Maintenance này do gia đình hướng dẫn chủ yếu, mùa đông thì dọn tuyết này nọ kiểu khác, mùa hè thì trồng cây cắt cỏ. Nhưng tối trước khi ngủ phải double check 1 vòng, sáng dậy, sau khi vệ sinh cá nhân là phải đi tắt đèn sân, bật đèn nhà, cho chó cho mèo ăn, tưới cây cỏ nếu không mưa, dọn dẹp phân chó phân mèo, để đồ ăn cho chim trên cành cây trước sân, đẩy xe rác ra ngoài nếu ngày đó họ đi lấy rác. Cuối tuần, con anh Luke phụ anh làm vườn, trồng hoa, tắm và sấy chó mèo, hoặc rảnh thì tập trung bạn bè lại, pha nước chanh đứng bán ở góc đường, nhằm gây quỹ từ thiện. Chúng nó tự lên kế hoạch, tự hái chanh, tự mua nước đường, tự làm và dọn dẹp mọi thứ dù chỉ mới có 10-11 tuổi. 

Còn lúc mình ở nhà chị Hoà thì thấy tối, con cái chị giải bài tập xong thì lăn ra ngủ. Trên bếp vẫn nồi bún riêu nấu dở dang, thùng rác thì đầy ắp đồ. Sáng dậy thì chị phải gõ cửa phòng kêu tụi nó ra ăn sáng, các con chị dậy vứt chăn mền đó chứ không gấp, chị phải làm vừa làm vừa cằn nhằn. Con chị ăn xong thì vứt bát trong bồn, rồi vội thay đồ để đi học. Cây cỏ nhà chị héo úa, vật nuôi thì chẳng có con nào vì chồng chị nói "nuôi tụi nó cho ăn dọn phân mệt lắm". 

Anh làm công nhân nhà máy dược phẩm cách khá xa còn chị đi phụ nhà hàng, dù ở Việt Nam cả hai đều đang là giảng viên ĐH. Anh chị từng học thạc sĩ ở đây ngay xưa, nên khi có con thì tìm cách sang học tiến sĩ nhưng bỏ học, ra ngoài, xoay sở tìm cách định cư. Chị nói "anh chị hy sinh để cho con cái học môi trường quốc tế tốt nhất, nhằm phát huy hết năng lực, và 1 số trường công bên này miễn phí". Ngoài giờ học, chị chở con đi học đàn, học cờ, học võ, học toán tư duy, học vẽ, học thêm tất cả vì chị nói, tụi nó học trường công, mấy môn này học qua loa chứ không được dạy kỹ như bên trường tư. 

Mình hỏi có môn Home Maintenance không, chị Hoà nói chưa nghe, chắc trường này không có, chắc bên trường tư mới dạy. Sau này mình hỏi anh Luke thì ảnh nói đúng rồi, trường công mà, nó chỉ dạy cái cơ bản thôi, thế mới miễn phí, không tiền thì đành chịu học ở trường công chứ có tiền thì nên "mua sản phẩm giáo dục". Còn như con anh, học trường tư học phí cả chục ngàn bảng/năm, thì mới có các môn kia. 

Anh nói cũng tuỳ, vì giáo dục 1 đứa trẻ, nhà trường 30, gia đình 70, tức phải có sự phối hợp của gia đình nữa. Ví dụ cái Home Maintenance kia, mà cha mẹ cũng lười, chẳng cắt cỏ bón phân, không yêu chó mèo, không chịu khó làm lụng dọn dẹp....thì con cái chẳng thể có được. 

Khi về Việt Nam, mình ngồi trên máy bay và nghĩ. 

Hoá ra, cái để một người có thể làm lãnh đạo, làm quản lý, làm chủ...không phải là kiến thức mình học ở trường, mà là cái tích luỹ mỗi ngày ở nhà. Nhiều người cứ ngây ngô tìm ĐH Kinh tế, ĐH quản trị kinh doanh để học và nghĩ là học ra sẽ trở thành chủ lớn, trở thành big boss, nhưng không thể. 

Hoặc cứ nghĩ đi du học, ra nước ngoài học về là thành danh được. Không có đâu. Năng lực của một người là cả một quá trình từ ấu thơ, được gia đình dạy dỗ khuôn phép về sự quán xuyến và làm lụng, óc quan sát và sắp xếp, sự chăm chút và tỉ mỉ trong công việc hàng ngày. Một người nếu cái giường ngủ cũng bẩn, cái phòng trọ cũng bẩn, cái bếp cũng để bẩn, cái tủ lạnh cũng để đồ lộn xộn, cái thùng rác đầy ụ và bốc mùi...thì dù chữ nghĩa bằng cấp thế nào đi nữa, cũng không thể trở thành lãnh đạo hay quản lý được. Họ không biết như thế là bẩn, là lộn xộn, là bất cập....để có thể thay đổi. 

Ps: nếu thấy bài viết hay, các bạn nên lưu lại & lan tỏa, để giúp thế hệ sau của Việt Nam thật sự giỏi giang hơn.

Saturday, September 26, 2020

Những truyền thuyết của VN

Truyền thuyết Thánh Gióng – Sự phối trộn các thành tố huyền thoại Âu và Lạc ở thế kỷ 3 trước Công nguyên (Bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á)

Mùa thu năm 2011, tại Thụy Điển, lần đầu tiên các nhà khoa học Thụy Điển phối hợp với Đại hội đồng Khảo cổ học Thế giới (WAC) tổ chức một Hội nghị khoa học quốc tế với chủ đề “Stories, Places and People” (Truyền thuyết, Di tích và Nhân dân). Chủ đề này nhằm khai thác và vận dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học cổ nhân văn (PalaeoAnthropogy) trong việc kết nối những sự kiện huyền thoại còn lưu hành trong dân gian với các vết tích địa lý mang tính “hiện trường” nhằm bảo tồn và phát triển phục vụ du lịch, giáo dục dục truyền thống lịch sử.

Tác giả bài viết này cũng là một thành viên của WAC, được mời tham dự trình bày trong Hội nghị đó, dự kiến sẽ phát biểu về hai hiện tượng nổi bật có sự gắn kết chặt chẽ giữa huyền thọai hàng ngàn năm tuổi và các chứng tích hiện tồn trên mặt đất ở nước ta : 1- Huyền thoại Thánh Gióng và 2- Huyền thoại thành Cổ Loa.

Dưới đây là một phần trong kết quả nghiên cứu mới nhất của tác giả nhân chuẩn bị bài viết cho Hội nghị đó.

Đối với nghiên cứu Tiền sử học thì có một số điểm gắn liền với huyền thoại Thánh Gióng cho đến nay vẫn chưa làm rõ được như :

1- Tại sao Thánh Gióng đời vua Hùng thứ 6 lại đánh nhau với “giặc Ân mũi đỏ”, khi mà trong lịch sử chỉ có một nhà nước Ân, là cách gọi khi nhà Thương đống đô ở đất Ân (Ân Khư, Hà Nam, Trung Quốc). Tuy rằng vào khoảng thời gian này (Ân Thương) đã xuất hiện mối bang giao của thủ lĩnh văn hóa Phùng Nguyên với vùng Tứ Xuyên, Hà Nam thông qua những chiếc nha chương phát hiện ở Xóm Rền và Phùng Nguyên.

2- Di tích khảo cổ học gắn với thời tiền sử muộn có thể liên quan đến thần thoại Thánh Gióng lại gần như vắng bóng quanh chân núi Sóc, mà hơi chệch về phía tây và phía nam. Khu vực đền thờ mẹ Gióng cũng là nơi sinh ra Gióng là làng Phù Đổng mới là khu vực phân bố dày các di tích khảo cổ học, trong đó ở viền xa hơn một chút có cả những di tích niên đại sớm tương đương với thời Ân Thương (như Bãi Tự, Từ Sơn, Đại Trạch, Dương Xá…). Tuy nhiên, trực tiếp quanh vùng Phù Đổng lại tập trung chủ yếu là các di tích Đông Sơn có niên đại từ thế kỷ 3 trở về sau (Trung Mầu, Dương Nội, Đa Tốn, Đình Tổ, Luy Lâu…).

3- Bản chất Thánh Gióng là vị thần cổ đại nào của người Việt và “Phù Đổng” hàm nghĩa gì khi gắn với Thánh Gióng.

Bài viết này thử dùng tiếp cận tiền sử học để giải thích các câu hỏi đó.

A- Thánh Gióng hiện thân của Trúc Vương (vua sinh ra từ thân cây tre) trong huyền thoại Dạ Lang. Mối liên hệ xa hơn với “giặc Ân”.

Về huyền thoại Thánh Gióng đã có công trình nghiên cứu đồ sộ của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian lão thành Cao Huy Đỉnh . Trong đó cây tre đóng một vai trò rất cơ bản trong huyền thoại này : tre dùng làm vũ khí đánh giặc sau khi gậy sắt bị gãy, tre đằng ngà màu vàng, đặc sản của rừng Sóc được coi như dấu tích lửa cháy từ chiến trận đánh giặc Ân. Về mặt ngôn ngữ học thì cả “Gióng” và “Sóc” đều ít nhiều liên quan đến loài cây có đốt rất gắn bó với đời sống cư dân Việt cổ. Gióng là một khúc đoạn dùng riêng cho thân cây có đốt, nay còn dùng phổ biến khi nói đến “gióng mía” và Sóc còn lại trong thành ngữ “đòn sóc hai đầu”, chỉ một loại đòn gánh thời xưa làm bằng thân tre đực vót nhon hai đầu, rất tiện dùng khi gánh củi bó, lúa giạ cũng như làm vũ khí.

Về một khía cạnh nào mà nói, có thể hiểu Thánh Gióng là một vị thần tre trúc đã hóa thân thành một anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm. Giả thiết này được ủng hộ bởi hình ảnh vị thần huyền thoại của người Dạ Lang là Trúc Vương (vị vua đầu tiên được sinh ra từ thân cây tre). Theo huyền thoại được kể sớm nhất trong Hoa Dương quốc chí chép trong Hậu hán thư thế kỷ 4 sau Công nguyên thì ở nước Dạ Lang, khi xưa có một người con gái ra giặt ở sông Đồn Thủy, bỗng thấy khúc tre lớn ba đốt trôi vướng vào chân, nghe trong có tiếng khóc, cô gái liền bổ khúc tre ra, thấy một bé trai, mang về nhà nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu con trai có tài võ nghệ, tự lập làm Dạ Lang hầu, lấy họ là Trúc . Vị Dạ Lang hầu này sau đó bị Hán Vũ Đế giết, được dân chúng tôn làm thần nhân, lập đền thờ Trúc vương Tam lang rất linh ứng ở cửa sông Đồn Thủy đổ vào sông Uất Lâm. Dân trong vùng truyền rằng: Trúc vương quyên sinh, phá trúc ở tại đồng hoang sau trở thành rừng trúc, ngày nay đền thờ vương ở đất Quế Lâm vậy. Vương thường cùng gia nhân đến dừng chân trên tảng đá lớn và ra lệnh nấu canh, gia nhân thưa: không có nước nấu. Vương dùng kiếm chặt vào hòn đá, nước từ trong chảy ra. Ngày nay có sông Trúc vương thủy là bắt nguồn từ đó .

Về mô tip truyền thuyết thì hai câu chuyện Thánh Gióng và Trúc Vương đều giống nhau ở một số điểm, đó là một cuộc sinh nở kỳ bí : mẹ Gióng dẫm phải vết chân khổng lồ của thần nhân và mẹ Trúc Vương thấy đứa trẻ trong thân đốt cây tre. Cả Gióng lẫn Trúc Vương đều liên quan đến tre trúc. Những khác biệt còn lại cũng khá lớn, ở chỗ Gióng là thần biểu trưng cho anh hùng đánh giặc giữ nước, còn Trúc vương chỉ là vị thần lập quốc giúp dân. Cuộc đời Trúc Vương gắn với lịch sử thời Tần Hán, trong khi Thánh Gióng gắn với sự tích giặc Ân, mà nếu đích thực là thời nhà Ân Thương thì cũng phải từ hơn 1000 năm trước đó. Kết cục Thánh Gióng thắng giặc xong bay về trời (như sự sinh ra bí hiểm bởi con thần) còn Trúc Vương đầu hàng rồi bị kẻ xâm lược là Hán Vũ Đế phong vương rồi giết chết. Những khác biệt đó không cho phép đánh đồng hai nhân vật huyền thoại này làm một, nhưng có một số dẫn liệu khảo cổ học gợi mở hướng truy tìm sự ra đời của cốt chuyện Thánh Gióng từ thần thoại Trúc Vương của người Dạ Lang.

Những dẫn liệu khảo cổ học mà tôi đưa ra gắn liền với sự ra đời của nước Âu Lạc và gốc gác của vị vua Thục Phán An Dương vương.

Sự việc bắt đầu bằng những phát hiện khảo cổ học tại vùng Khả lạc (Quý Châu, Trung Quốc). Đây là một khu mộ táng lớn có niên đại từ thời Chiến Quốc đến Đông Hán đã được phát hiện và khai quật từ 1978 rồi 2000. Loại hình mộ táng và di vật chon theo của chủ nhân khu mộ đã cho phép các nhà nghiên cứu Trung Quốc đề xuất một văn hóa khảo cổ riêng biệt mang tên “Văn hóa Khả Lạc” (KeLe Culture) . Khi mở rộng nghiên cứu so sánh, các nhà khoa học Việt Nam, Trung Quốc cũng như quốc tế đều nhận thấy sự gần gũi của cách chon cất giữa văn hóa Khả Lạc với khu mộ táng Đông Sơn ở Làng Vạc (Nghĩa Đàn, Nghệ An). Đó là kiểu chôn người chết trong những huyệt đất nông có dùng đá kè mộ và nhất là cách đặt đầu người chết bên trong hoặc bên trên các đồ đựng bằng đồng như trống, chậu, nồi, đĩa… Và điểm theo tôi là quyết định nhất để có thể nối văn hóa Khả Lạc với những chủ nhân Đông Sơn ở Làng Vạc đó là họ đều sở hữu những chiếc vòng ống bằng đồng có bản dẹt và nhất là những thanh kiếm lưỡi sắt (hoặc đồng) tra vào phần cán đúc bằng đồng trang trí rất đẹp và có hình thuyền cong, mỏng gắn ở đốc chuôi. Đây là lọai kiếm mang tính đặc thù văn hóa tộc người vô cùng độc đáo và rõ nét. Ngay ở Trung Quốc chúng cũng chỉ mới phát hiện được ở Khả Lạc (khoảng 20 chiếc) và ở Việt Nam cũng mới thấy ở vùng Làng Vạc và phụ cận (khoảng 50 chiếc), chưa thấy ở bất kỳ nơi nào khác trên toàn thế giới. Sự tương đồng này đã được các nhà khoa học xác nhận như là minh chứng rõ nhất cho một làn sóng di chuyển những quý tộc Tây Âu – Dạ Lang từ vùng đất Dạ Lang xưa (Quý Châu, tây bắc Quảng Tây) xuống khu vực miền bắc Việt Nam .

Sự kiện này được củng cố thêm bởi việc phát hiện loại qua đồng lưỡi thẳng, đốc có hình vị thần của người Tây Âu dọc sông Hồng từ Vân Nam đến Việt Trì và loại nồi đồng có quai xoắn thừng mỏng dẹt trên có tượng chim nhỏ, đáy nồi chia làm bốn ô, trong đó có hoặc không có chân núm nổi, phân bố ở vùng nam và đông nam Cổ Loa ( Thuận Thành Bắc Ninh, Văn Lâm, Mỹ Hào Hưng Yên, Phú Xuyên, Mỹ Đức Hà Nội, Duy Tiên Hà Nam). Đây cũng là hai loại hình tùy táng đặc trưng cho văn hóa Khả Lạc ở Quý Châu. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc, văn hóa Khả Lạc có niên đại từ thế kỷ 5 trước Công nguyên đến thế kỷ 2 sau Công nguyên, đồng thời với văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Những hiện vật kể trên đều nằm trong khung niên đại sớm của nền văn hóa này (thế kỷ 5 đến thế kỷ 2 trước Công nguyên).

Tài liệu thư tịch cũng hé mở cho chúng ta khi hai lần Hậu Hán thư nói đến những người “man” Dạ Lang tồn tại ở “bên ngoài” Cửu Chân. Một lần khi nói đến công trạng của Nhâm Diên khi làm thái thú Cửu Chân (24-29 sau Công nguyên) đã hòa giải được với man Dạ Lang để giảm được quân tuần tra đồn trú. Một lần khác vào năm thứ nhất niên hiệu Vĩnh Sơ đời Hán An đế (năm 107) khi nhắc đến man Dạ Lang bên ngoài Cửu Chân nổi dậy chiếm đất lập lãnh thổ rông trên 1000 dặm . Quận Cửu Chân là một trong 9 quận của nhà Hán lập ra sau khi chiếm Nam Việt vào năm 110 trước Công nguyên. Phân bố của cửu Chân bao gồm vùng núi Tam Điệp trở vào đến vùng núi Nghi Sơn giáp ranh Thanh Hóa – Nghệ An hiện nay. “Bên ngoài” Cửu Chân có thể hiểu là vùng núi phía tây và phía nam Thanh Hóa hiện nay. Đây chính là vùng phân bố của các đồ đồng thau Đông Sơn mang phong cách giống với văn hóa Khả Lạc của người Dạ Lang ở Quý Châu thời xưa. Có một số dấu hiệu khảo cổ cho thấy rằng chính những người Dạ Lang này, với tư cách tàn quân Âu Lạc đã tham gia cùng Khu Liên lập nên nước Lâm Ấp chống Hán trong nhiều thế kỷ thuộc nửa đầu thiên kỷ 1 sau Công nguyên.

Vậy cuộc di chuyển của những thủ lĩnh Dạ Lang, Tây Âu xuống miền bắc Việt Nam đã diễn ra do đâu và như thế nào ?

Dạ Lang được nhắc đến đầu tiên trong Sử ký của Tư Mã Thiên (thế kỷ 2 trước Công nguyên). Khi đó có hai sự kiện lớn liên quan đến Dạ Lang, một là việc Triệu Đà mua chuộc áp phục Dạ Lang theo Nam Việt chống Hán vào khoảng 179-180 trước Công nguyên. Hai là, nhà Tây Hán cử quân đánh Nam Việt vào năm 110 trước Công nguyên có cử tướng sang Dạ Lang điều quân tham chiến. Nghiên cứu về nhà nước Dạ Lang đã làm rõ được đó là một tiểu quốc được cho là “lớn nhất ở Tây Nam Di” đối với các triều đại Trung Hoa cổ điển. Dạ Lang vốn phân bố chủ yếu ở đất Quý Châu hiện nay, xưa kia tiếp giáp về phía đông nam trực tiếp với Tây Âu. Sau khi Tây Âu nhập với Văn Lang để thành Âu Lạc thì cũng chính là tiếp liền với Âu Lạc. Khu vực tiếp giáp đó chính là phía tây bắc Quảng Tây hiện nay. Chúng tôi cho rằng một bộ phận phía bắc của Tây Âu có chung nền văn hóa với Dạ Lang, thể hiện qua sự tương đồng về vũ khí (qua, dao găm) và các đồ dùng gia dụng khác (trống, chuông, vòng tay, tai, nồi, chậu, trống…), trong đó có thể có chung cả một vị thần tre là Trúc Vương.

Sự ra đời của Âu Lạc đã rõ là sự kết hợp của khối Tây Âu khi đó phân bố ở Quảng Tây, Quảng Đông, một phần Vân Nam và các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam, với những người Lạc Việt của nước Văn Lang (vùng trung, hạ lưu sông Hồng, lưu vực sông Mã, sông Cả) lấy Cổ Loa làm kinh đô đầu tiên. Sự khác biệt trong bộ di vật Đông Sơn từ thế kỷ 3 trước Công nguyên trở về sau trong phạm vi cương vực Văn Lang đã ghi nhận sự tham gia của khối Tây Âu này. Trong thực tế, khối Tây Âu cũng chính là một bộ phận Lạc Việt phía bắc đã chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa nhà nước Sở, Ngô, Việt, Ba Thục mà thôi. Khi kết hợp với Văn Lang thủ lĩnh Tây Âu là Thục Phán đã nắm quyền lãnh đạo Âu Lạc. Có lẽ vì tàn dư Ba Thục có đậm nét trong văn hóa Tây Âu nên sách sử từ thế kỷ thứ ba sau Công nguyên (Giao Châu ngoại vực ký) đã ghi nhận : Thục Phán là “Thục vương tử” – tức dòng dõi vua nước Thục (đã bị mất nước từ khoảng 100 năm trước đó – năm 316 trước Công nguyên). Truyền thuyết dân gian cũng nói đến thất bại của Hùng vương là do vua Thục xin thông gia không được đã đem quân đến đánh. Tài liệu khảo cổ học Việt Nam xác nhận có nhiều yếu tố văn hóa Ba Thục để lại trong bộ di vật từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tuy nhiên, đi vào chi tiết thì sự thiếu vắng kiếm kiểu Khả Lạc, Dạ Lang ở đồng bằng sông Hồng tương đồng với vắng bóng qua đồng trong sưu tập vũ khí Làng Vạc cho thấy dường như có một bộ phận thủ lĩnh Dạ Lang khi bị sức ép của Tần, Hán đã đi theo đường núi từ Quý Châu đến vùng thượng du sông Hiếu (Nghệ An) và chỉ có khối Tây Âu đi xuống đồng bằng sông Hồng thôi.

Trong bối cảnh lịch sử như vậy thì việc xuất hiện thần tre trúc (Trúc Vương) từ khối Tây Âu – Dạ Lang vào hệ thống thần thoại Âu Lạc thì cũng không có gì là quá cưỡng bức. Sự kiện đánh nhau với giặc Ân, nếu có thì cũng chỉ có thể diễn ra với tổ tiên người Ba Thục trong bình tuyến văn hóa Tam Tinh Đôi (Sanxingtui) ở Tứ Xuyên. Yếu tố Ba Thục này hẳn đã truyền xuống phía nam trong quá trình lan tỏa vào Dạ Lang và Tây Âu sau khi nước thục bị Tần diệt vào năm 316 trước Công nguyên. Điều này càng củng cố thêm cho giả thuyết về thành tố thần Tre Trúc trong việc cấu thành hình tượng Thánh Gióng thời Hùng Vương.

B- Phù Đổng : thần khổng lồ của người Việt Mường cổ (ông Đùng – Đổng)

Tuy nhiên, vị thần tre trúc đó của Tây Âu – Dạ Lang khi xâm nhập vào thế giới Lạc Việt Văn Lang đã được biến đổi dưới ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa Lạc Việt bản địa, trong đó tục thờ thần đá khổng lồ (ông Đùng) đóng một vai trò quan trọng. Dưới tác động của tục thờ thần đá, thần khổng lồ, thần tre trúc Thánh Gióng mang thêm yếu tố Phù Đổng (chữ Đổng cũng giống như chữ Trọng trong Lý Ông Trọng, là biến âm Hán Việt của chữ Đùng, Tùng trong ngôn ngữ Việt mường cổ. Phù Đổng có thể hiểu nghĩa đen là “bỗng chốc trở nên khổng lồ”). Và cũng giống trường hợp của thần khổng lồ Lý Ông Trọng được gắn với chiến công đánh giặc Hung Nô, thì Thánh Gióng cũng được người đời sau gắn với chiến tích đánh giặc Ân – hai loại giặc chỉ xuất hiện ở vùng phía bắc sông Trường Giang chứ chứ bao giờ hiện hữu ở Việt Nam.

Việc gắn Thánh Gióng (Dóng) với thờ thần khổng lồ đã được Cao Huy Đỉnh đề cập và đưa ra rất nhiều bằng chứng có giá trị. Hiện tượng thờ thần đá, thần núi rất phổ biến trong thế giới tâm linh Việt Mường cổ. Thần Tản Viên, Cao Sơn đều thuộc loại thần như vậy được đưa lên thành quốc thần. Trong thần thoại Mường thì câu chuyện ông Đùng bà Đà là một điển hình cho tư duy tôn thờ thần khổng lồ, tượng trưng cho mơ ước về sức mạnh siêu nhân. Những hòn núi đá đứng độc lập trong nhiều sơn khối đá vôi thường được người Mường mệnh danh và tôn thờ như “Ông Tùng, Ông Đùng” (phát âm Việt Mường dễ lẫn lộn giữa “t” và “đ”) với ý nghĩa rõ ràng là một vị thàn khổng lồ. Trong một số công trình nghiên cứu về họ Lý liên quan đến Lý Ông Trọng tôi đã phân tích mối liên hệ của việc thờ Lý Ông Trọng ở Đền Chèm với tục thờ thần khổng lồ của người Việt cổ, trong đó Ông Trọng chính là biến âm Hán Việt của Ông Đùng (Đổng, Trọng) mà thôi.

Vì vậy, không cần phải bàn cãi nhiều, Phù Đổng cũng là hiện thân của một vị thần khổng lồ trong tâm linh Việt cổ, được gắn với một hình tượng thần linh Tre Trúc của nhóm Việt Tây Âu phía bắc để trở thành Thánh Gióng, Thánh Sóc.

Trong khung cảnh liên tục phải chống giặc ngoại xâm, Thánh Gióng được người đời sau gắn thêm với một sự tích giúp vua Hùng đánh giặc ngoại xâm, nhờ đó đã được dân tộc ta tôn vinh trở thành một trong những biểu trưng bất tử của đất nước. Vì là con thần (do mẹ dẫm vào dấu chân thần mà sinh ra) nên sau khi đánh tan giặc ngoại xâm, thánh đã hiển về trời, trở thành một “Phù Đổng thiên vương”.

C- Niên điểm ra đời của truyền thuyết Thánh Gióng

Ghi chép sớm nhất về sự tích Thánh Gióng là ở đời nhà Trần, thế kỷ 14, trong sách Việt Điện u linh và Lĩnh Nam trích quái. Những ghi chép này dựa trên các văn bản thần tích trước đó để lại ở các nơi thờ cúng hiện hành hoặc lượm lặt từ truyền khẩu dân gian dưới dạng sử thi của người Việt cổ. Theo lời lẽ kể lại từ các sách đó cũng như ghi lại trong các sách sử đương thời hoặc sau đó thì đây là một trong số những thần thoại có tuổi đời vào loại lâu nhất trong lịch sử nước ta.

Theo đánh giá tiền sử học thì phần lớn các huyền thoại cổ nhất của Việt Nam, bắt đầu với sự tích Âu Cơ – Lạc Long quân và các sự tích liên quan đến thời Hùng Vương đều ra đời hoặc được hoàn thiện trong khoảng thế kỷ 4-3 trước Công nguyên. Đây chính là thời điểm cực thịnh của văn hóa Đông Sơn, thời điểm hình thành ổn định một xã hội trồng lúa Việt cổ ở đồng bằng thấp sông Hồng với một hệ thống lễ hội được nghệ nhân mô tả theo những quy ước xã hội khá chặt chẽ trên những đồ đồng lễ nghi (trống, thạp) . Trước đó, quá trình khai thác đồng bằng đã từng diễn ra nhưng với cường độ thấp, một phần do diện tích đất lúa bị nhiễm mặn sau biển thoái chưa kịp rửa chua và bồi đắp phù sa tự nhiên, mặt khác chưa xuất hiện những biến động chính trị quân sự trực tiếp (thời Chiến Quốc) lan tỏa đến vùng Lĩnh Nam để gây ra làn sóng di cư nam tiến của người Bách Việt. Sự tích Âu Cơ – Lạc Long quân là sự phản ánh rất rõ nét cuộc giao hòa giữa hai khối cư dân Việt sinh sống ở hai vùng cao cạn (Âu) – thấp ngập (Lạc) với một “thủy tổ” Kinh Dương Vương gốc Thần Nông thông gia lấy con gái Thần Long ở hồ Động Đình (phạm vi phân bố của văn hóa Dương Việt mà sau đó là văn hóa Sở, Ngô, Việt, nay thuộc vùng Hồ Nam, Trung Quốc) sinh ra Lạc Long quân.

Những thần thoại nổi tiếng thời Hùng vương như Sơn Tinh – Thủy Tinh (Sơn – Thủy), Chử Đồng tử - Tiên Dung (Chử - đầm lầy, Tiên – rừng núi ) đều nằm trong cùng một mô típ lớn Âu – Lạc đó. Chuyện Mai An Tiêm hay sự tích Trầu Cau nay đã được chứng thực bởi sự phát hiện hệ thống bùng phát của một loại hình hạt dưa bở, vỏ cau và tục nhuộm răng trong các mộ táng thân cây khoét rỗng thuộc văn hóa Đông Sơn có niên đại phổ biển từ khoảng 400 năm trước Công nguyên trở về sau . Thêm nữa, niên điểm xuất hiện hình tượng ngựa chỉ thấy ở giai đoạn muộn của văn hóa Đông Sơn, trên một số thạp, liễm và trống đồng có niên đại sớm nhất là thế kỷ 2 trước Công nguyên trở về sau. Việc gắn chuyện Thánh Gióng vào niên điểm Hùng Vương thứ 6 tương đương với sự tồn tại của giặc Ân (có thể hiểu là thời Ân Thương ở nửa sau thiên niên kỷ 2 trước Công nguyên, tương ứng thời văn hóa Đồng Đậu ở Việt Nam) chứng tỏ đã có một sự so sánh tương đối giữa lịch đại truyền miệng thế phả Văn Lang với lịch đại thế phả Trung Hoa. Tất nhiên, niên điểm diễn ra câu truyện không phải nhất thiết là niên điểm ra đời của truyền thuyết. Từ những vị thần đá, thần khổng lồ, thần tre trúc bản địa Tây Âu – Lạc Việt, Thánh Gióng còn được gắn thêm hình tượng anh hùng dân tộc. Lần theo cách mô tả và sự mở rộng thờ phụng những nhân vật gắn với cuộc đánh giặc Ân của Thánh Gióng ta thấy có sự gần gũi với các mô típ diễn ra với các truyền thuyết về tướng lĩnh tham gia trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Cung cách cầu hiền và tuyển mộ của triều đình cũng như cách tổ chức đúc ngựa rèn vũ khí cho Gióng có nét gì đó phảng phất câu truyện Thạch Sanh. Những điều đó gợi ý rằng lớp lang đánh giặc, hiển thánh về trời có thể được đưa vào sau đó một vài thế kỷ, có thể là sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng và tiếp tục thêm thắt ở các đời sau nữa, khi mà xã hội Việt Nam bước vào những gian truân phải liên tục chống lại giặc ngoại xâm.

Vì vậy, dựa trên phân tích thành tố cấu thành huyền thoại Thánh Gióng và khung cảnh ra đời chung của truyền thuyết Hùng vương chúng tôi cho rằng sự tích Thánh Gióng – Phù Đổng thiên vương ra đời trong khoảng thế kỷ 3-2 trước Công nguyên, gắn với sự hình thành liên minh Âu Lạc bởi nó ẩn chứa trong mình cả hai thành tố Âu, Lạc. Thoạt đầu là vị thần khổng lồ có nguồn gốc từ thần đá và thần tre trúc sau đó phát triển lên thành anh hùng dân tộc chống ngoại xâm.

TRUYỆN VUI CUỐI TUẦN – HÉTVÉGI VICCEK (No. 243)

 Không thể tin được!

Nhà bác sĩ bị hỏng đường ống nước và do đó phải gọi thợ sửa. Anh thợ cũng đến và sau nửa tiếng thay đoạn đường ống bị hỏng đưa cho bác sĩ hóa đơn 30.000 forint. Bác sĩ vô cùng kinh ngạc nói:

- Không thể tin được! Đến tôi, một bác sĩ nổi tiếng, cũng không thể kiếm được nhiều nhu vậy!

Anh thợ mỉm cười nói:

- Tôi biết chứ, tôi cũng không kiếm được nhiều như vậy khi còn làm bác sĩ!

-------------

Hihetetlen!

Egy orvosnál csőtörés van, így hát hív egy vízvezeték szerelőt. A szerelő ki is jön, egy fél óra alatt kicseréli a hibás csőszakaszt, majd benyújtja a számlát 30000 forintról. Az orvos teljesen elképed:

- Ez hihetetlen! Ennyit én, mint elismert orvos sem keresek!

A szerelő csak mosolyog:

- Tudom, én sem kerestem ennyit, amíg orvos voltam!

Nguyễn Ngô Việt (DEBRECEN.vidi73)

Friday, September 25, 2020

45 năm tìm hiểu và bày tỏ

 25 câu tóm tắt 45 năm

—- ngắn gọn súc tích qua tự chuyện của cây bút Nguyen Hoang

tui đã quan tâm theo dõi chuyện bà con di tản từ trước khi người đầu tiên đặt chân xuống guam. báo chí, truyền thông lúc đó tràn lan tin tức, hình ảnh mà. từ "có trật tự", được thu xếp, cho đến chen lấn nhau trên sân thượng đại sứ quán mĩ, cho đến những chiếc trực thăng bị xô xuống biển, cho đến... cho đến... 

và cứ thế, từ những cơn hoảng lọan, nỗi kinh hoàng do vị thế "phe" thua trận, cho đến nỗi sợ "tắm máu", cho đến thời "cột đèn mà đi được", cho đến cảnh nheo nhóc, chết chóc trên những cuộc vượt biên, vượt biển, những câu chuyện hải tặc, rồi những tháng ngày sống, hi vọng, thất vọng và tuyệt vọng trong các trại tị nạn...

tui cũng đã theo dõi niềm vui, nỗi buồn, hi vọng và ngỡ ngàng (sau) khi bà con "đến được bến bờ tự do". và cứ thế, có hơn 30 năm trời tui sống cạnh bà con ta ở quận cam, nam cali. những thành công, những thất bại, những vinh danh, những nương tựa giúp đỡ nhau, và luôn cả những câu chuyện hô hào nhau, chiêu dụ nhau và cả lừa phỉnh nhau, bịp bợm nhau về một ngày "phục quốc", về chuyện "quang phục lại quê hương". đủ cả.

chỉ chừng đó độ phức tạp cũng đủ để tui tránh nói dễ dàng, vơ đũa  về "cộng đồng", về người mĩ gồc việt. tui không tự hào hay cảm  thấy xấu hổ dễ dàng khi có ai đó "lên tướng", hay trở thành một nhân vật tài ba vang danh, hay khi cả đám bác sĩ gốc việt xộ khám vì những trò gian manh. vì tui ít ra cũng hiểu độ phức tạp của cộng đồng "ta". nó có cả thượng vàng và hạ cám. nó có cả những điều tốt đẹp nhất và những gì có thể là ti tiện nhất. nói càn, nói đại nói đùa là không nên. cho nên...

***

lại phải thưa. tui đã từng là một dân đen của "miền nam", "công dân"  của "quốc gia việt nam", rồi của VNCH. tui đã là công chức, là... ưm... sĩ quan của thể chế ấy. tui đã từng sống chung đụng với một số "kiểu" người, một số thành phần xã hội của miền nam. và một phần quan trọng của miền nam ấy đã (qua nhiều cách) chuyển sang sống ở mĩ.  trong số đó có cả người thân, bạn bè, chòm xóm, đồng nghiệp, ... của tui trước kia. rồi là những năm tháng cùng sống ở mĩ, cho nên tui có cách hiểu của mình về những lí do, hoàn cảnh để từng đó người "bỏ xứ" ra đi. nó cũng đa dạng, phức tạp lắm, khi nhìn được đến cả quá khứ của không ít người. 

cho nên, nhìn ngắm. tìm hiểu, thông cảm, xúc động, hay kinh sợ, không dám, không muốn động đến, bàn về cái cộng đồng đa tạp ấy là cách an lành nhất. túm lại, cứ "kính nhi viễn chi" cho nó lành...

Ghi lại từ FB của Đoàn Hồng Nghĩa

Về những bậc cao đạo: Tự Do và con đường

LÃO TỬ VÀ KHỔNG TỬ

Hơn hai ngàn năm trước có cuộc gặp kỳ lạ giữa Khổng và Lão.

Khổng ngồi kiệu đi trên đại lộ. Ngài vừa phe phẩy chiếc quạt, vừa lim dim đôi mắt. Bọn người khênh kiệu còng lưng đi thật đều để giữ thăng bằng cho thầy an tọa. Bỗng phía trước có kẻ cỡi trâu cắt ngang qua. Khổng mở mắt nhìn và quát:

– Tên trẻ trâu kia vô lễ, đường lớn không đi lại cắt ngang mặt người ta?

Con trâu dừng lại ngoái cổ nhìn. Tên trẻ trâu cười nói:

– Ngươi biết ta đã bao nhiêu tuổi rồi không mà cao giọng bảo ta trẻ trâu vô lễ? Chẳng qua ngươi đi trên con đường người ta đã dọn sẵn. Sự thực không có đường nào là lớn cả. Nơi không có đường mới thực sự là lớn!

Khổng mở to mắt nhìn. Bây giờ mới thấy người kia dù mặt mũi trẻ con nhưng râu tóc bạc phơ, chừng như đã sống mấy trăm năm, bèn ra lệnh cho phu hạ kiệu và bước xuống vòng tay thi lễ:

– Tại hạ có mắt như mù. Chẳng hay lão trượng chính là Lão Tử, người nước Sở?

Lão vẫn ngồi vắt vẻo trên lưng trâu nheo mắt cười:

– Đích thị là mỗ, bốn phương là nhà, không cần biết sinh ra ở đâu! Thái độ trịch thượng như ngươi ta đoán không nhầm là người họ Khổng nước Lỗ? Chào Khổng Phu Tử!

Khổng lại vái chào lần nữa:

– Tại hạ là Khổng Khâu đây, Đạo của tại hạ vốn khiêm cung, lão trượng đã quá lời…

Lão nhìn bọn phu kiệu lưng ướt đẫm mồ hôi rồi nhìn Khổng khăn áo lượt là mà cười, con trâu cũng cười theo. Lão nói:

– Đạo của ngươi là gì?

Khổng trịnh trọng:

– Tóm gọn trong mấy chữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Lão cười vang:

– Có đến năm thứ, thứ nào cũng khó, cũng cao, sao gọi là khiêm cung? Những người dân chân lấm tay bùn làm sao học được cái Đạo ấy?

Khổng thanh minh:

– Đạo của tại hạ chỉ dành cho người quân tử, không dành cho kẻ tiểu nhân. Với người dân chân lấm tay bùn chỉ cần Lễ là đủ. Nhất nhật khắc kỉ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên!

Lão hỏi:

– Tự nhiên sinh ra vốn bình đẳng, làm gì có phân biệt quân tử hay tiểu nhân? Lễ là phép tắc, trật tự, ngày nào cũng bắt dân phục lễ khác nào ngươi bắt dân phải đeo gông đi trên con đường hẹp. Còn Nhân, Nghĩa, Trí, Tín ngươi dành cho quan quyền khác nào mở đường cho chúng tự do nói dối, giả nhân giả nghĩa, lưu manh, lừa lọc? Vậy còn phụ nữ thì sao?

Khổng lúng túng không trả lời hết các câu hỏi, chỉ trả lời câu cuối cùng như cái máy:

– Phận nữ nhi thường tình!

Lão lại cười ha ha:

– Vậy mẹ của ngươi cũng là tiểu nhân? Vậy thì Lễ của ngươi nói kính cha thờ mẹ để làm gì? Bây giờ thì ngươi đi đâu?

Khổng tự hào thưa:

– Đi chu du thiên hạ để truyền Đạo. Nhà Chu suy, chư hầu nổi loạn, rất cần đạo trị – bình để thu thiên hạ về một mối, yên ổn vì đại cục…

Lão cắt lời:

– Nguy tai! Nguy tai! Nhà Chu suy đồi mà ngươi lại dùng phép tắc nhà Chu làm mẫu mực để gọi là Lễ? Nói thật, Đạo của ngươi cũng chỉ là con đường cụt. Lễ mà ngươi dạy đời ấy chỉ tạo thêm ra loại người đối với bề trên thì nịnh nọt uốn gối khom lưng, đối với kẻ dưới thì trịch thượng khinh người. Đạo trị – bình của ngươi chỉ có thể giữ thế ổn định tạm thời để bọn quan quyền tham nhũng. Dân vì hèn, vì sợ mà tạm bình, chứ quan đang nắm quyền thống trị thì sẽ tranh chấp hỗn loạn, cắn nhau như chó tranh cứt. Sao không để chư hầu nổi loạn mà làm lại từ đầu? Cái cây già mục ruỗng đã sắp chết thì dọn đi để trống đất cho cây con mọc lên, khư khư giữ lấy làm gì?

Nghe đến đấy, Khổng không khỏi nổi giận, mặt đỏ phừng phừng:

– Lão trượng không nên xúc phạm Thiên tử và kích động làm loạn. Tội phản nghịch đáng bị tru di ba họ. Nhưng thôi, coi như tại hạ chưa nghe gì. Vậy mạo muội hỏi, Đạo của lão trượng là gì?

Lão Tử vẫn khoan thai, tay đưa lên vuốt chòm râu trắng:

– Ta chỉ có một cái đầu trong muôn vạn cái đầu của thiên hạ. Ba họ nhà ta là ai ta còn chưa biết thì sợ gì họa tru di. Ngươi hỏi Đạo của ta ư? Đạo của ta là vô đạo, đường của ta đi là không có con đường. Đó mới là Đại Đạo.

Khổng ngơ ngác không hiểu gì. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác ấy, Lão lại ngửa mặt cười vang, đưa ngón tay vẽ một vòng thái cực vào không khí và nói:

– Ngươi cứ nhìn vào trời đất mà hiểu Đạo của ta. Kìa, có trời thì có đất, có núi thì có sông, có cao thì có thấp, có dài thì có ngắn, có cương thì có nhu, có rỗng thì có đặc, có sáng thì có tối, có thẳng thì có cong… Mọi thứ đang dịch chuyển trong sự biến hóa vô cùng. Tự nhiên tự do nhưng có trật tự và cái lý của nó. Cao thì xa, thấp thì gần, dài thì yếu, ngắn thì mạnh, cương thì gãy, nhu thì dẻo, rỗng thì âm to, đặc thì câm… Mọi thứ trong trời đất gắn kết được nhờ khác biệt, không có chuyện giống nhau mà hợp lại được với nhau. Đạo của ngươi áp đặt mọi thứ theo trật tự như ngươi muốn và bắt buộc mọi thứ giống như nhau mà được à?

Bây giờ thì Khổng nghe như nuốt từng lời. Khổng hỏi:

– Đạo của lão trượng từ đâu ra vậy?

Lão nói:

– Từ trời đất, từ nhân gian mà ra. Ta học được từ đám dân đen mà Đạo của ngươi gọi là bọn tiểu nhân đáng khinh bỉ đấy!

Lão lại nhìn Khổng đang trố mắt mà tiếp:

– Ta nghe ngươi đi đến đâu, các vua chư hầu đuổi đến đó như đuổi tà. Có người bảo ngươi chỉ là kẻ cơ hội. Nhưng ngươi yên tâm, vài trăm năm sau Đạo của ngươi sẽ được trọng dụng vì nó sẽ là vũ khí bịp bợm tốt nhất. Người ta sẽ leo lẻo nói điều Nhân, điều Nghĩa, người ta luận về điều Trí, điều Tín, nhưng nói một đằng làm một nẻo. Và hiển nhiên, người ta sẽ tôn ngươi là Thánh để mê hoặc lòng người!

Đến đây, Khổng cúi sát người xuống chân Lão mà lạy ba lạy:

– Tại hạ lĩnh giáo và xin bổ sung vào Đạo của mình. Đời vẫn có quân tử và tiểu nhân, nhưng Đạo lớn nhất vẫn là lấy dân làm gốc ạ!

Lão lại bật cười đến văng nước bọt:

– Câu đó sẽ là câu mị dân lớn nhất! Dân nghe vậy sẽ vui vẻ làm trâu cày cho sự nghiệp của các quan chứ gì?

Nói đoạn, Lão vỗ mông trâu bỏ đi, không một lời chào. Con trâu họ lên một tiếng và ỉa một bãi to tướng trước mặt Khổng rồi đưa Lão băng qua cánh đồng. Khổng nhìn theo không chớp mắt. Kỳ lạ là con trâu đi đến đâu cỏ cây dạt ra đến đấy. Lão Tử nhẹ nhàng như bay giữa không gian vô tận rồi mất hút ở chân trời. Khổng lầm bầm, rằng Lão thật sự tự do, con đường của Lão thật sự là con đường lớn, không như ta cả đời tự đeo gông vào cổ và đi vào ngõ cụt mà không biết…

Tối hôm đó về nhà trọ, Khổng trằn trọc suốt ba canh rồi thiếp đi. Trong giấc mơ, Khổng thấy mình sống lừng lững đến 2000 năm, bao nhiêu người đến sụp lạy tôn Khổng thành Thánh. Khổng cứ ngồi bất động mà làm Thánh. Không biết là mộng ác hay mộng lành. Chỉ biết rằng khi tỉnh dậy, Khổng thấy cứt đầy quần. Bèn thay quần áo và gói ghém mọi thứ ô uế vào chiếc tay nải bằng nhung rồi một mình lặng lẽ bước đi trong đêm tối. Khổng ném tất cả xuống cầu và đứng nhìn dòng sông đen ngòm đang chảy xiết…

Sử sách chỉ viết có cuộc gặp gỡ Khổng – Lão mà tuyệt nhiên không kể lại đầu đuôi chuyện này.

Sao Mai st

Nơi dù có Mặt Trời nhưng vẫn tối...

 Thời 'con sâu làm rầu nồi canh' là thời tham ô, hủ hóa... là những thứ phải che đậy/lén lút, bởi khi ấy mọi thứ đều như chuyện cổ tích!

 Thời 'con canh làm rầu nồi sâu' thì chuyện tham ô, hủ hóa ko cần che đậy nữa, bởi bây giờ ra đường người ngay phải sợ kẻ gian...!

3GAI

Thursday, September 24, 2020

Nơi chúng tôi đặt chân lần đầu tiên trên đất Hung vào Mùa Thu năm 1972

 

Keleti-Pályaudvar

A Keleti pályaudvar Budapest legforgalmasabb személypályaudvara. Az épületet 1881–1884 között a MÁV építette eklektikus stílusban. Eredeti neve Központi Pályaudvar volt. Építésekor az egyik legkorszerűbbnek számított Európában. A fogadóépület tervezője Rochlitz Gyula, a csarnoké Feketeházy János és Than Mór volt. 43 méter magas homlokzatának tetején egy allegorikus szoborcsoport található. Alkotója Bezerédi Gyula. A szoborcsoportot az 1990-as években végrehajtott rekonstrukció alkalmával újra kellett gyártatni. A főhomlokzat kapuzata mellett James Wattnak, a gőzgép feltalálójának és George Stephensonnak, a Rocket gőzmozdony tökéletesítőjének a szobra látható. Alkotóik: Stróbl Alajos és Vasadi Ferenc. A főhomlokzaton az óra alatt oszlopok tetején az 1930-as években eltűnt négy szobrot 2003-ban pótolták. A 42 méter széles, eredetileg ötvágányú fogadócsarnok vasszerkezete Feketeházy János tervei alapján készült. A 2008-ra felújított pénztárterem fényűző kiképzése (freskóit Lotz Károly és Than Mór készítette). Ezek mellett az elektromos világítás és a központi irányítású váltórendszer technikai újdonságnak számított. A csarnok eredeti festését Schikedanz Albert tervezte. A középső főhomlokzat és a csarnok felújítása két ütemben, 2002 és 2004 között zajlott le. Az építkezésben neves vállalkozók vettek részt. A cölöpalapozást Gregersen Guilbrand vállalkozása végezte, a vasszerkezetet a MÁVAG, a villanyvilágítást a Ganz gyár készítette. A lakatosmunkák Jungfer Gyula műhelyében, az öntöttvas elemek Oetl Antal gyárában készültek.

Cím: 1027 Budapest, Baross tér

Jó dolog

Thực trạng sinh viên ra trường!!!

 Đầu đường xây dựng vá xe 

Cuối đường kinh tế bán chè đậu đen

Ngoại thương mời khách ăn kem

Mấy anh nhạc viện thổi kèn đám ma

Ngân hàng ngồi dập đô la

In giấy vàng mã sống qua từng ngày

Sư phạm trước tính làm thầy

Giờ thay kế toán suốt ngày tính lô

Điện lực khi trước bô bô

Bây giờ lầm lủi phụ hồ trên cao

Lập trình chả biết làm sao

Mở hàng trà đá thuốc Lào cho vui

Nông nghiệp hỏi đến ngậm ngùi

Số em chắc chỉ tiến lùi theo trâu

Nhìn quanh thương mại đi đâu

Hoá ra thì đã nhảy tàu đi buôn

Ngoại ngữ vẻ mặt thoáng buồn

Đang ngồi viết sớ kiêm luôn bói bài

Báo chí buôn bán ve chai

Giao thông thì chở thuê ngoài đông xuân 

Bách khao cũng gặp đôi lần

Buôn đồ điên hỏng kiếm cân dây đồng

Mĩ thuật thì đang chổng mông

Đục bia khắc mộ cũng mong lên đời 

Mỏ địa chất mới hởi ơi 

Sáng thồ hai giỏ chào mời mua than

Thủy sản công việc an nhàn

Sáng cân mớ cá cuối làng ngồi rao

Hàng hải ngồi thức canh thâu

Bao giờ trúng số sắm tàu ra khơi

Bác sĩ y tá có thời 

Học xong về xã được mời chích heo...?

FB-Phú Đức

Lánchíd

 

Wednesday, September 23, 2020

NVGP: Câu chuyện cách đây 60 năm

 LÊ NGUYÊN CHÍ  NGƯỜI BÍ ẨN?

                        Nhà văn- Đại tá Thái Kế Toại

Khi đọc hồ sơ chuyên án tôi có chú ý đến cái tên Lê Nguyên Chí nhân vật thứ năm, bị cáo cuối cùng của phiên tòa ngày 19-1-1960. 

Báo Thời mới ngày 21-1-1960 viết rằng :

Lê Nguyên Chí đã từng giữ chức thanh tra hành chính và chính trị của bọn ngụy quyền trong thời kỳ Hà Nội còn bị tạm chiếm. Hòa bình lập lại, tuy đã được chính quyền ta cho tự do sinh sống làm ăn, nhưng y vẫn cấu kết với Nguyễn Hữu Đang và đã bố trí cho tên phản cách mạng này chạy trốn để hòng đi làm tay sai cho địch một cách đắc lực hơn.

Tòa đã tuyên án Lê Nguyên Chí bị 5 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân sau khi hết hạn giam.

Rất lạ là sau đó không có vết tích nào về LNC. Tôi đã hỏi nhiều người làm án, một số ông chủ chốt của NVGP cũng không ai biết LNC là ai, đã đi đâu.

Bằng trực giác của người làm công tác nghiệp vụ tôi hiểu rằng đây là người đặc biệt. Anh ta đã được đưa đi biệt tích khỏi Hà Nội hoặc đã giữ lời cam kết im lặng về vụ án này.

Mãi sau nhiều năm  sau khi công bố tài liệu vụ NVGP tôi mới thấy bức thư của Lê Mạnh Đức nói về bố mình LNC.

Nhà nghiên cứu Heinz Schütte, trong tác phẩm Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960 đặt câu hỏi: “Còn bị cáo thứ năm, Lê Nguyên Chí, là ai? Có vẻ như không ai thực sự biết người này là ai, ngay cả cái tên của ông ta cũng được các nhân chứng nhớ lại mỗi người một khác. Người thì bảo là Nguyễn Văn Thi hoặc Lý Nguyên Cát, có người lại bảo ông ta từng là tay chân của đế quốc Pháp. Hoàng Cầm kể câu chuyện đầy tính hoang đường kì bí như sau: “Đột nhiên xuất hiện một người lạ” – một người tầm tuổi 50, tóc đã bạc. Một ngày kia, ông ta đến trước nhà Phan Tại và dựng một cái hiệu cắt tóc vỉa hè, rồi ông ta lần lượt làm quen với những người sống ở đó, và chẳng bao lâu đã hình thành một mối quan hệ thân tình. Rốt cuộc, Lê Nguyên Chí đưa ra ý tưởng rủ cả nhóm chạy trốn trên một chiếc thuyền của em trai ông ta ở Hải Phòng… Như đã nói ở trên, tất cả những con người tuyệt vọng đó đã bị công an biển bắt giữ. Phải chăng Lê Nguyên Chí là một đặc tình, một nhân viên của Cơ quan An ninh Việt Nam? Trong phiên tòa, Lê Nguyên Chí là người duy nhất có sắc diện hồng hào, trong khi Nguyễn Hữu Đang và Thụy An thì xanh rớt, mệt mỏi và gầy gò. Bị ghép vào tội tham gia nhóm gián điệp, Lê Nguyên Chí bị tuyên 5 năm tù và 3 năm quản thúc – từ đó không một ai còn gặp lại ông ta nữa và nhiều người đã đặt ra câu hỏi: liệu việc kết án Lê Nguyên Chí có phải một vở kịch được dàn dựng hay không?”

Nhà thơ Hoàng Hưng, lại Hoàng Hưng,  một nạn nhân của hậu Nhân Văn Giai Phẩm liên quan đến Hoàng Cầm và Trần Thiếu Bảo có lời đề tựa cho bức thư của con trai ông Lê Nguyên Chí.

“Thế là đến tận bây giờ, ngoài 70 tuổi, Lê Mạnh Đức, con trai lớn của ông Lê Nguyên Chí, một nhân vật “bí ẩn” trong vụ kỳ án xử bọn “gián điệp, phản động Nhân Văn – Giai Phẩm” từ 50 năm trước mới quyết định công bố sự thật về cha mình. Vâng, 50 năm, sau những oan khổ chất chồng lên hai thế hệ, sau khi người cha lìa đời mà còn đau đớn không yên ở tuổi 101, sau khi những người con đầy bản lĩnh vượt lên nỗi oan nghiệt để sống cho ra sống cũng đã gần trọn đời mình, sau khi những lời kêu oan liên tiếp của hai thế hệ dội vào những bức tường vô cảm từ thấp lên cao không một tiếng vọng, anh mới quyết định công bố. Anh chỉ lên tiếng sau khi đọc được những thông tin sai lạc về người cha thân yêu quá cố, lưu truyền trên mạng.

Lê Mạnh Đức có một thời gian là bạn học cùng khoá với tôi ở trường Trung học Nguyễn Trãi, Hà Nội, anh là Hiệu đoàn trưởng của trường suốt ba năm cấp ba (1958 – 1960). Mấy chục năm sau mới gặp lại anh ở Sài Gòn, thật tình tôi không ngờ gia đình anh đã gặp đại nạn trong năm học cuối cấp. Về ông Lê Nguyên Chí, mặc dù là bạn vong niên thân thiết của những thủ lĩnh Nhân Văn – Giai Phẩm, tôi cũng không hề nghe ai nói đến “nhân vật thứ năm” bí ẩn này của phiên toà kia. Vậy thì chắc hầu hết bạn đọc cũng không biết gì về nhân vật này, và cũng như tôi, những thông tin đầu tiên về ông chỉ có được từ bài viết của nhà nghiên cứu Heinz Schütte mới đăng trên mạng. Tôi thực sự choáng váng khi biết Lê Nguyên Chí chính là cha của ngưòi bạn học cũ, và khi nghe bạn kể những oan khuất đau thương của ông cũng như của cả gia đình trong suốt 50 năm qua. Giúp anh công bố bài viết này trên một số mạng thân hữu, tôi coi đó là nghĩa vụ của một người bạn, của một người đồng cảnh ngộ. Hơn thế nữa, cũng là cung cấp thêm tư liệu cho các nhà nghiên cứu để một ngày không xa, những trang sử của đất nước sẽ được viết lại một cách công bằng, trung thực, sửa lại những gì đã bị các ý đồ chính trị nhất thời bóp méo.

BỐ TÔI- LÊ NGUYÊN CHÍ

Mới đây, trên mạng có xuất hiện bài viết của Heinz Schütte Năm mươi năm sau Trăm hoa đua nở 1954-1960, trong đó, tác giả có nhắc đến “Lê Nguyên Chí, nhân vật thứ năm” trong phiên toà xét xử nhóm tội phạm trong vụ “Nhân Văn – Giai Phẩm”.[1] Lê Nguyên Chí là bố của tôi.

Do rất thiếu thông tin, Heinz Schütte đã dựng nên hình ảnh hết sức sai lệch về Bố tôi, khiến tôi có trách nhiệm nói lại cho rõ. Trong bài viết trên, Heinz Schütte có tìm hiểu các giả thiết, nào là tên thật là gì; nào là Lê Nguyên Chí giả là thợ cắt tóc do cơ quan an ninh gài bẫy rồi rủ người thuộc nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm vượt biên, rồi bị công an biển bắt cả bọn trên biển; nào là “đặc tình”; nào là ra toà hồng hào khoẻ mạnh, trong khi người khác xanh xao, sau đó không thấy tung tích… Thật hoang tưởng. Vậy Lê Nguyên Chí là ai, có vai trò gì trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, án tù ra sao và chịu tù ra sao, trong bài viết này tôi tạm chỉ nêu lên một số nét chính.

LNC là ai? 

Trích bài của Lê Mạnh Đức:

"Bố tôi, từ khai sinh cho đến lúc qua đời vẫn chỉ có tên là Lê Nguyên Chí, sinh năm 1903 tại thị xã Sơn Tây. Thuở nhỏ, học tiểu học tại Sơn Tây, sau đó lên Hà Nội học trường Bưởi. Sau khi bố tôi đỗ diplome (thành chung), đang học dở dang ban tú tài thì bị đuổi học do tham gia bãi khoá để tang Phan Chu Trinh (1926). Từ đó, bố tôi đi làm tại Sở Tài chính, đồng thời quan hệ bạn bè với các ông như Phan Thanh, Phan Bôi, Phạm Văn Khoa, Nguyễn Hữu Đang… và gắn bó với các hoạt động yêu nước. Những năm 1936-1938, bố tôi là một trong những người sáng lập Phong trào Truyền bá Quốc ngữ, là Uỷ viên Ban chấp hành Hội (ông Nguyễn Hữu Đang là Tổng thư ký), đồng thời cũng trong giai đoạn này theo bố tôi kể lại thì Người còn là Hội viên Hội Nhân quyền (Ligue des Droits de l’Homme) có trụ sở đặt tại Paris. Những năm 1941-1945, bố tôi tích cực hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, đã bị Pháp-Nhật bắt hai lần. Cũng để tập trung vào công việc hoạt động cách mạng, năm 1942 bố tôi tự thôi việc tại Sở Tài chính, cũng có nghĩa từ chối cuộc sống của một ông phán với mức sống dễ chịu và ổn định, bước vào một đời sống vật chất eo hẹp khó khăn. Năm 1945, bố tôi tham gia cướp chính quyền tại Hà Nội, sau đó được cử phụ trách Thanh tra (Bộ Nội vụ) bên cạnh ông Hoàng Hữu Nam, ông Võ Nguyên Giáp. Xin nói rõ thêm, khi đó, Bộ Nội vụ bao gồm cả quân đội, công an, thanh tra… sau này mới tách ra từng bộ. Sau khi ông Hoàng Hữu Nam mất, bố tôi về Bộ Ngoại giao và là một trong số cán bộ cao cấp bên cạnh ông Bộ trưởng Hoàng Minh Giám (có xác nhận của ông Võ Nguyên Giáp và ông Hoàng Minh Giám). Năm 1951 bố tôi thôi công tác ở Bộ Ngoại giao vì lý do sức khoẻ. Năm 1952, được giao làm nội gián vào hoạt động nội thành, với nhiệm vụ vận động Nguyễn Hữu Trí, Thủ hiến Bắc Việt của chính phủ Bảo Đại, đi theo kháng chiến. Ông Nguyễn Hữu Trí nguyên là bạn cùng làm việc với bố tôi ở Bộ Nội vụ sau Cách mạng tháng Tám. Ông Trí bố trí bố tôi làm Thanh tra Thủ hiến Bắc Việt với quyền hạn rất lớn, đó cũng là cơ hội thuận lợi thực thi nhiệm vụ. Khi bố tôi vận động ông Nguyễn Hữu Trí cùng bộ máy của mình ra Kháng chiến, ông Trí thẳng thắn nói: “Tôi làm việc theo lý tưởng của tôi. Chúng ta cần tôn trọng lý tưởng của nhau”.

Công việc được giao không thành nên chỉ sau 3 tháng làm Thanh tra Thủ hiến Bắc Việt, bố tôi quyết định từ chức, cũng có nghĩa từ bỏ cuộc sống vật chất đầy đủ, đưa gia đình vào Sài Gòn chờ cơ hội tiếp tục hoạt động.

Cũng thời gian này, bố tôi tham gia hoạt động trong Phong trào Hoà bình Thế giới ở Sài Gòn do ông Nguyễn Hữu Thọ lãnh đạo. Cũng nhờ tổ chức này đấu tranh nên năm 1954 gia đình tôi mới được phép ra Hà Nội..

Thực chất, từ 1926, sau khi tham gia bãi khoá để tang Phan Chu Trinh, bố tôi đã có ý thức hoạt động trong phong trào yêu nước. Từ năm 1936 trở đi, ý thức đó hình thành mạnh mẽ hơn, hoạt động có tổ chức hơn. Bố tôi đã từ bỏ cuộc sống đầy đủ, để lao vào công việc nguy hiểm, cận kề lao tù, đời sống của gia đình lâm cảnh thiếu thốn. Với tính cách trung thực, thẳng thắn và nhiệt thành, với ý thức dân tộc rõ ràng, bố tôi kiên trì đi theo các phong trào yêu nước như Truyền bá Quốc ngữ, Việt Minh, Nhân quyền… và hoạt động có kết quả trong thời kỳ mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cuộc kháng chiến chống Pháp (như trên tôi đã trình bầy). Có lẽ việc không phải là đảng viên cộng sản cũng đã tạo khó khăn trong vị trí công tác của bố tôi, nhất là từ năm 1951 Đảng “tăng cường” sự lãnh đạo ở mọi cơ sở. Tuy nhiên không vì thế mà bố tôi không hết lòng với sự nghiệp đấu tranh cho nền độc lập của dân tộc trong những vai trò và công việc khác nhau.

Cho đến năm 1958, bố tôi chưa hề có “vấn đề” gì với nhà nước cộng sản. Hết sức bất ngờ, ngày 10/4/1958  bố tôi bị bắt và bị đưa ra toà cùng với các ông bà Nguyễn Hữu Đang, Thuỵ An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm. Trước ngày đó chỉ 3 ngày, bố tôi còn gặp ông Bộ trưởng Phan Mỹ và được ông thông báo sẽ bố trí công tác ở Bộ Nông trường.”

Con trai Lê Nguyên Chí lý giải nguồn gốc sự việc như thế này:

“Cho đến nay, chúng tôi vẫn chỉ có thể kết luận bố tôi mắc vào vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm chỉ là do quan hệ bạn bè của Người với ông Nguyễn Hữu Đang. Nguyên là thời gian này, gia đình chúng tôi lâm vào hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn, bố mẹ tôi phải mở hàng bán bánh cuốn, một số anh em bộ đội miền Nam dạy cho cách làm bánh xèo, bánh bao để bán. Tuy vậy, hàng họ ế ẩm. Các bạn bố tôi như ông Nguyễn Hữu Đang, Phạm Văn Khoa hay đến ăn quà, vừa để thăm nom, vừa ăn để “ủng hộ” bạn. Cũng vì thiếu thốn, bố mẹ tôi mắc nợ, con nợ đến đòi nợ từ sáng sớm. Ông Đang thấy vậy nên viết thư cho bạn vay tiền hộ cho bố mẹ tôi. Trên đường đi Hải Phòng vay nợ (bố tôi đi một mình), bố tôi bị công an bắt giữ tại bến xe Hải Dương. Công an lục lọi tìm thì trên mình bố tôi chỉ có bức thư đi vay nợ! Như vậy, không hề có chuyện “cả bọn vượt biên trên biển bị công an biển bắt giữ” như tác giả người Đức đã viết.”

Và hậu quả sự việc đã đi xa quá sức tưởng tượng trở thành thảm kịch với cả gia đình nạn nhân. Ông Lê Nguyên Chí cũng là người quá ngây thơ trước một cạm bẫy.

“Khi bị bắt, gia đình không hề có tin tức nên đi trình báo công an là bố tôi mất tích. Tôi có đến nhà ông Hoàng Minh Giám, lúc này là Bộ trưởng Bộ Văn hoá cũng là bạn bố tôi, để cậy nhờ xác minh về tình trạng bố tôi. Ông Giám ân cần tiếp và sau 3 ngày thì được ông báo tin bố tôi bị tạm giữ với vai trò nhân chứng trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm. Suốt thời gian bố tôi bị giam ở Hoả Lò, gia đình tôi không được tiếp tế và gặp gỡ, cho đến ngày giáp Tết năm 1960 mới được vào thăm. Bố tôi báo tin là sắp được tha về. Gia đình hy vọng… Ngày 19/01/1960 mở phiên toà xét xử vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, gia đình không ai được tham dự. Theo bố tôi kể lại, trước khi mở phiên toà, bố tôi được ăn uống đầy đủ, quần áo chỉnh tề. Do được cán bộ trại giam báo tin bố tôi chỉ là “nhân chứng” và sẽ được thả ở ngay khi kết thúc phiên toà, Bố tôi ra toà còn vui vẻ chào ông Đỗ Xuân Sảng là luật sư cãi cho bị cáo.

Bất ngờ tại toà, từ vị trí nhân chứng, bố tôi biến thành bị cáo với tội danh “gián điệp phản động, tổ chức bọn Nhân Văn – Giai Phẩm trốn đi Nam”. Rõ ràng là một tội danh áp đặt không căn cứ. Từ Sài Gòn hăm hở ra Hà Nội, lại sắp được bố trí công tác, bố tôi vượt biên để làm gì? Gia đình tôi không có ai là họ hàng ở Hải Phòng, nói chi có người anh em đứng ra tổ chức thuyền vượt biển… Nhưng người ta đã sắp sẵn cho bố tôi cái án 5 năm tù, cộng với 3 năm[2] cho cái tội không hề có ấy.

Tất nhiên sau đó, bố tôi kháng án. Lập tức Người bị tống giam vào xà lim, bị cùm kẹp, bị cho nhịn đói. Công an nói thẳng với bố tôi rằng con đường sống để còn tồn tại là phải thôi kháng án. Bố tôi còn được giải thích và động viên: “Oan mà có lợi cho Cách mạng thì phải biết hy sinh. Con cái anh sẽ được bù đắp”.

Trong thực tế, anh chị em chúng tôi được “bù đắp” như thế này: cổng trường đại học bị đóng chặt trước mặt, và cánh cửa vào đời cài đầy chông gai và hố bẫy. Đây là cả một câu chuyện dài, nếu viết ra phải hàng ngàn trang giấy.

Tội danh “gián điệp phản động” của bố tôi sau này lại được thay đổi. Sau 5 năm bị giam ở nơi rừng thiêng nước độc Phú Thọ, bố tôi ra tù vời tờ giấy ghi tội “Bao che tư tưởng cho bọn phản động Nhân Văn – Giai Phẩm”. Lại một lần nữa, bố tôi bị kết vào một cái tội hoàn toàn hoang tưởng. Làm sao có thể mắc tội “bao che tư tưởng” khi bố tôi không hoạt động trong giới nghệ thuật, chưa hề viết một bài báo? Cũng chính vì thế nên các nhà văn trong nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm mới không biết Lê Nguyên Chí là ai; và trong vụ án, về mặt văn chương thì chính quyền cũng không có căn cứ để buộc bố tôi bất cứ tội gì. Họ chỉ muốn thêu dệt cho tròn trịa vụ án: phản động âm mưu lật đổ thì phải cấu kết với gián điệp, phải muốn vào Nam theo địch, và các nhân vật trong câu chuyện đã được sắp xếp… Bố tôi thành một thân phận bi ai trong câu chuyện tưởng tượng đó, xét ra thì chỉ vì đã nghe ông Nguyễn Hữu Đang tâm sự là muốn ra nước ngoài. Nếu ý định muốn ra nước ngoài của ông Nguyễn Hữu Đang đã từng công khai nói với Trường Chinh[3] thì cũng có thể nói với Lê Nguyên Chí, tại sao Lê Nguyên Chí lại bị kết tội “Bao che tư tưởng” chỉ vì không “tố cáo”? Cố thêu dệt bố tôi là người tổ chức đi Nam, trong khi Nguyễn Hữu Đang không hề có ý định đi Nam. Cái tội phản động, gián điệp, tổ chức đi Nam gán cho bố tôi hoàn toàn không có bất kỳ một căn cứ nào. Câu chuyện bắt bớ, giam cầm, dụ dỗ, các thủ đoạn xảo quyệt mà bố tôi đã kể cho tôi thật dài, tôi thấy cũng chưa cần nói ra ở đây.”

Ông Lê Mạnh Đức công bố hai bức thư làm chứng cho nhân thân của bố ông.

Võ Nguyên Giáp

Kính gửi: Ban Tổ chức Trung ương Đảng,

Tôi nhận được thư anh Lê Mạnh Đức trình bày về bố mình là anh Lê Nguyên Chí bị qui oan, tôi có ý kiến đề nghị với Ban Tổ chức Trung ương như sau:

Trước đây, tôi đã có ý kiến minh oan cho anh Nguyễn Hữu Đang, nay được biết anh Chí là bạn của anh Đang, vì quan hệ với anh Đang mà bị qui oan, bị tù đày trong vụ “nhân văn giai phẩm”. Anh Chí trước hoạt động ở truyền bá quốc ngữ. Sau cách mạng tháng Tám có thời gian anh phụ trách công tác thanh tra ở Bộ Nội vụ, đã làm việc với tôi và anh Hoàng Hữu Nam. Anh Chí là người tốt. Chúng ta đã minh oan cho anh Đang, tôi đề nghị cần xem xét để minh oan cho anh Chí.

Hà Nội ngày 08 tháng 01 năm 2008

NGUYỄN HỮU ĐANG

Hà Nội, ngày 30-9-98

Anh Chí thân thương,

Cháu Đức tìm chỗ ở của tôi và đến thăm tôi, cho tôi biết sơ qua tình hình anh tạm ổn trong cái khổ mà ai cũng có thể biết anh phải chịu oan. Thế là tôi yên tâm, càng yên tâm về chỗ anh đã 95 tuổi mà chưa đến nỗi hom hem mụ mẫm, tuy nghèo đấy nhưng cũng tạm đủ sống cơm rau, áo vải và có con cháu thương yêu kính trọng, giúp đỡ cho có hạnh phúc gia đình. Còn đối với xã hội, chuyện ác nghiệt đã qua về căn bản, ảnh hưởng còn rớt lại phần nào ta lấy tính khắc kỷ (stoïcisme) mà coi thường. Mong anh cứ giữ thái độ vô thưởng vô phạt[1], chắc cũng được người ta đối xử phải chăng. Điều chủ yếu là anh giữ dìn sức khỏe và tâm trạng điềm tĩnh. Theo ý tôi anh vẫn có thể tự tạo cho mình ba cái quý nhất khi bóng đã xế chiều là an, nhàn và thanh thản, cộng với sức khỏe và tình cảm gia đình, bạn hữu.

Chúc anh vui mạnh và gửi biếu anh mấy thứ lặt vặt, gọi là chút quà tình sâu nghĩa nặng của người bạn chưa có lúc nào quên anh và thiếu trân trọng đối với anh mà trước, sau tôi vẫn coi là bậc đàn anh đáng mến phục mọi mặt…

Tôi viết vội mấy dòng này đưa cho cháu Đức cầm về, thư sau gửi qua bưu điện đến anh, tôi sẽ nói chuyện nhiều.

Xiết chặt tay,

Em

Nguyễn Hữu Đang

“Tai hoạ từ trên Trời rơi xuống này khiến bố tôi bị tù đầy, kéo theo cả gia đình tôi tuy ở ngoài song sắt mà cũng còn quá trong lao tù. Không sao kể hết sự cay đắng cực nhục mà gia đình tôi phải hứng chịu. Tuy nhiên, điều mà gia đình tôi đau xót nhất là sự vu cáo bôi nhọ bố tôi. Chúng tôi đã im lặng khá lâu. Hành trình khiếu nại vòng vo chỗ này chỉ chỗ kia hoặc “im lặng đáng sợ”. Đã hai thế hệ thay nhau đi khiếu nại! Năm 2003, khi đã bước vào tuổi 101, bố tôi vẫn trăn trở, vẫn thúc giục tôi đi khiếu nại. Và bố tôi ra đi trong nỗi oan hận kéo dài cả nửa thế kỷ. Thiệt hại về vật chất, về tinh thần thật to lớn không sao cân đong được, nhưng chúng tôi lúc này không có nhu cầu gì ngoài việc cần trung thực xác nhận: Bố tôi luôn là một trí thức yêu nước, trung thành và tận tuỵ vì Đất Nước.”

19/8/2010

          Lê Mạnh Đức

Thiết nghĩ nội dung bức thư của Lê Mạnh Đức đã nói lên tất cả. Người bí ẩn không còn là bí ẩn nữa. Sau khi ông Lê Nguyên Chí mất đi, sự cam kết im lặng đã bị phá vỡ, nhường chỗ cho tiếng kêu khắc khoải của công lý. Ai trả lời cho tiếng kêu này?

Tôi nghĩ trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm cuộc đời ông Lê Nguyên Chí là bi kịch kiểu khác, khác với những người tham gia Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng không phải vì thế mà nỗi đau đớn mà ông và gia đình ông gánh chịu không thua kém bất cứ nỗi đau đớn nào của những số phận bi thảm nhất trong Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Tháng 9-2020

Trong ảnh từ trái sang : Lê Nguyên Chí, Phan Tại, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Nguyễn Hữu Đang.