Saturday, February 29, 2020

TRUYỆN VUI CUỐI TUẦN – HÉVÉGI VICCEK (No. 209)

- Tôi nghĩ rằng vợ tôi sẽ bị điếc đặc – bác Józsi nói với bác sĩ của họ.
- Bác hãy thử thính giác của bác gái trước khi đưa bác ấy đến phòng khám – bác sĩ nói.
Chiều tối hôm đó trong khi bác gái đang chuẩn bị bữa tối, bác Józsi đứng cách xa 3 mét phía đằng sau và hỏi:
- Tối nay ăn gì đấy bà nó ơi?
Không thấy trả lời. Bác Józsi tiến đến gần hơn, và hỏi từ cự li 2 mét, nhưng cũng không thấy trả lời. Cuối cùng, bác tiến đến ngay đằng sau bác gái và hỏi một lần nữa:
- Bữa tối là gì đấy bà nó ơi?
- Tôi nói lần thứ ba nhé, gà nướng!
-----------

- Attól tartok, a feleségem meg fog süketülni - mondja Józsi bácsi az orvosuknak.
- Tegye próbára a felesége hallását, mielőtt elhozza a rendelőbe - mondja az orvos.
Aznap este a feleség a vacsorát készíti, Józsi bácsi pedig megáll mögötte három méterre, és azt kérdezi:
- Mi lesz a vacsora, drágám?
Semmi válasz. Józsi bácsi közelebb lép, és megpróbálja két méterről, de ekkor sem kap választ. Végül egészen közelről újra megkérdezi:
- Drágám, mi lesz a vacsora?
- Most mondom harmadszor, hogy sültcsirke!

Nguyễn Ngô Việt (DEBRECEN.vidi73)

Đào mỏ văn hóa

Gần đây thấy nhiều quân sư kinh tế xã hội, ngày càng nghĩ ra lắm quái chiêu. Nào là biến điểm yếu thành điểm mạnh, kiểu như biến vô tổ chức thành sáng tạo, biến ngu dốt thành dễ bảo, biến đại khái thành linh hoạt. Rồi các loại thông minh, thành phố thông minh, thiết bị thông minh, đến mức đột nhiên không hiểu thông minh là gì.
Có điều chưa thấy ai nói về đào mỏ văn hóa. Mình nghĩ ra vấn đề này cách đây hơn 20 năm, khi đọc Giả Bình Ao. Giả viết "Mọi người đều nói Tần Thủy Hoàng là bạo chúa, xấu xa, đốt sách, chôn nho, xây Vạn Lý Trường thành. Tôi cho rằng Tần Thủy Hoàng tốt, ngày nay chúng ta thu tiền du lịch nhờ Vạn Lý Trường thành. Bao nhiêu người cơm no áo ấm nhờ Tần Thủy Hoàng".
Văn hóa là cái cha ông để lại cho ta, mà không hỏi ý ta. Không phải cái gì cũng tốt, thậm chí có những cái làm ta đau khổ, thù hận, đói nghèo, lẩm cẩm. Tuy vậy văn hóa rất mênh mông, cũng có một số thứ có thể đào lên kiếm ăn được. Đó là nguồn lâu dài và vô giá. Lần trước tôi nói về Quy Nhơn, có trận Thị Nại, Tháp Chàm là lịch sử có thể kích thích du lịch, phim ảnh, võ thuật, y học cổ truyền, tâm linh.
Huế có những câu chuyện hoàng gia, như cuộc đời của các vị vua, cung tần, đại thần, quý thích đều hay ho. Có các làng nghề, thú trồng cây, nghề thủ công, đặc sản, thậm chí lăng tẩm, nghĩa địa, thành phố Ma. Đều là những câu chuyện không đâu có, có thể khai thác kiếm ăn. Người Huế vẫn để Huế nghèo là dốt và có tội. Chỉ cần học cách kể chuyện cho hay. Cuộc đời ông Đoàn Trưng hay Hồng Bảo đều rất hay.

Nguyễn Ái Việt (DEBRECEN.vidi72)

Friday, February 28, 2020

QUAN HỆ MỸ - ẤN VÀ LỢI ÍCH CỦA VIỆT NAM

I. ĐỊA CHÍNH TRỊ ẤN ĐỘ - THÁI BÌNH DƯƠNG

1. Ngày 22/9/2019 Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi khởi đầu chuyến thăm Hoa Kỳ kéo dài một tuần cùng dự kỳ họp ĐHĐ Liên hợp quốc. Tổng thống Donald Trump đã tổ chức cuộc “meeting vĩ đại” “ Xin chào Modi” gồm 50 000 người tại Sân vận động NRG của đội bóng Houston Texans để đón chào Thủ tướng Modi cùng với vận động tranh cử. Tại đây, ông Modi được TT Trump dùng những mỹ từ ngợi ca “người cha của Ấn Độ”, “một trong những người bạn lớn và trung thành của nước Mỹ”. Còn Thủ tướng Modi thì ca ngợi TT Trump là người bạn “ấm áp, thân thiện”, “tràn đầy năng lượng và dí dỏm”, và rất ngưỡng mộ “khả năng lãnh đạo”, “quyết tâm mạnh mẽ để làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.

Cũng tại “Xin chào, Modi!”, TT Trump tuyên bố, Mỹ và Ấn Độ sẽ tổ chức cuộc tập trận ba lực lượng ‘Tiger Triumph’ vào tháng 11/2019, gồm cả ba binh chủng Lục quân, Hải quân và Không quân. Còn Thủ tướng Modi kêu gọi 4 triệu cử tri gốc Ấn bỏ phiếu cho TT Trump trong cuộc tranh cử sắp tới.

2. Ngày 24/2/2020 TT Doanald Trump thăm chính thức Ấn Độ. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tổ chức cuộc “meeting vĩ đại” “Namaste Trump” trên sân vận động Cricket lớn nhất thế giới ở Ahmedabad (quê nhà của Narendra Modi) với 110 000 người đến dự, cùng 3000 nghệ sĩ biểu diễn. Tại đây TT Trump đã có bài phát biểu lịch sử, có những lời:

"Ấn Độ mang lại hy vọng cho nhân loại. Chỉ trong 70 năm, Ấn Độ đã trở thành nền dân chủ lớn nhất và là một trong những quốc gia vĩ đại nhất trên thế giới. Dưới thời Thủ tướng Modi, các ngôi làng ở Ấn Độ được sử dụng điện. Có thêm hơn 300 triệu người có kết nối Internet. Ấn Độ sẽ sớm trở thành nơi có tầng lớp trung lưu lớn nhất thế giới. Điều ấn tượng là Ấn Độ đã đạt được tất cả những điều này với tư cách là một nền dân chủ và một quốc gia khoan dung. Thành tựu của Ấn Độ là vô song".

Về mặt cá nhân, TT Trump miêu tả Thủ tướng Modi là “Một người bình tĩnh”, “Một nhà lãnh đạo vĩ đại”, “Người luôn làm việc vì dân”. Còn hhẩu hiệu “Namaste Trump” ( Đón chào Trump) lập tức được đội quân tranh cử của TT Trump sử dụng tức thì tại Mỹ.

Ngày 25/2/2020 tại New Delhi Mỹ đã ký hợp đồng bán cho Ấn Độ 24 chiếc trực thăng tấn công cùng trang thiết bị quân sự trị giá 3 tỷ USD. Và một thỏa thuận với Exxon Mobil bán khí đốt hóa lỏng cho Ấn Độ. Một thỏa thuận nhằm xóa bỏ cán cân thâm hụt thương mại 25,2 tỷ USD của Mỹ đang được thương thảo.

3. Từ khi lên nắm quyền từ 20/1/2016, Tổng thống Donald Trump thay đổi chiến lược Địa Chính Trị một cách căn bản. Trong số đó là ưu tiên cho Địa Chính Trị Ấn Độ - Thái Bình Dương thay vì Châu Á – Thái Bình Dương trước đây.

Như vậy, Ấn Độ phải là đối tác chiến lược chìa khóa của Hoa Kỳ. Và các chuyến viếng thăm giữa lãnh đạo hai nước cùng các thỏa thuận hợp tác quân sự và kinh tế là những mục tiêu cấp thiết mà lãnh đạo hai nước hướng đến.

Việc Mỹ trở thành nhà cung cấp vũ khí quân sự thứ 2 cho Ấn Độ với thị phần lớn chỉ sau Nga là dấu mốc đá tảng đặc biệt. Không phải chỉ Mỹ sẽ “xén” dần thị phần vũ khí quân sự của Nga tại Ấn Độ, mà quan trọng hơn, Ấn Độ có vũ khí quân sự từ Mỹ - là khắc tinh cho vũ khí quân sự của Trung Quốc vốn chỉ mua vũ khí quân sự của Nga và nhái lại.

Nga cung cấp đến 50% thị phần vũ khí quân sự của Ấn Độ. Những vũ khí nào của Ấn Độ mua từ Nga thì Trung Quốc đều có. Điều đó làm cho vũ khí Ấn Độ “không có gì ngạc nhiên” với Trung Quốc. Nhưng nay Ấn Độ có vũ khí tấn công của Mỹ. Và mỗi ngày một nhiều hơn. Bàn cờ chiến trường thay đổi cục diện căn bản.

Ấn Độ là cường quốc dân số, cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự, và là cường quốc hạt nhân. Đối thủ số 1 của Ấn Độ là Trung Quốc chứ không phải Mỹ, càng không phải Nga hay Liên minh Châu Âu. Không chỉ là tranh chấp lãnh thổ bắt đầu từ cuộc chiến tranh Trung – Ân năm 1962, mà là vì vị thế Địa Chính Trị toàn cục trên trường quốc tế.

Theo thống kê ngày 31/12/2019 thì Dân số Trung Quốc là 1 433 783 686 người , chiếm vị trí số 1 với tỷ phần 18,47% dân số thế giới. Còn tương ứng dân số Ấn Độ là 1 366 417 754 người chiếm vị trí thứ 2 với tỷ phần 17, 70% dân số thế giới. Chênh lệch là 67 365 932 người. Với tốc độ tăng trưởng dân số của Trung quốc là 0.39% và Ấn Độ là 0.99%, thì dự báo sau 10 năm nữa dân số Ấn Độ sẽ vượt dân số Trung Quốc.

Cùng với dân số thì tiềm lực quân sự và tiềm lực kinh tế của Ấn Độ sẽ dần tiệm cận với Trung Quốc. Ấn Độ tiếp giáp với Trung Quốc. Trung Quốc là lo lắng số 1 của Ấn Độ. Đây là điều rất quan trọng đối với Mỹ. Bởi vì khi có Ấn Độ trên cùng một mặt trận với Mỹ, thì việc đối đầu và không chế Trung Quốc sẽ trở nên dễ dàng hơn.

II. LIÊN MINH KIM CƯƠNG

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe từ khi nắm quyền lần đầu đã đề nghị thiết lập LIÊN MINH KIM CƯƠNG vào năm 2006. Đó là vành đai NHẬT BẢN - ẤN ĐỘ - ÚC - MỸ. Không cần nói thì cũng hiểu tại sao lại cần có LIÊN MINH KIM CƯƠNG. Quan hệ Mỹ - Ấn vững chắc là LIÊN MINH KIM CƯƠNG vững chắc.

III. CHỖ TRỐNG CHO VIỆT NAM?

Tục ngữ Việt Nam có câu “ Cú có Vọ mừng”.
Quan hệ Mỹ - Ấn càng nồng ấm thì Việt Nam càng có lợi.
LIÊN MINH KIM CƯƠNG càng vững chắc thì càng có lợi cho Việt Nam.
Việt Nam phải biết chọn vị trí để hưởng lợi từ quan hệ Mỹ - Ân và từ LIÊN MINH KIM CƯƠNG.

Một mắt xích mà LIÊN MINH KIM CƯƠNG đang thiếu chính là Đông Nam Á. Chỗ trống đó có dành cho Việt Nam?

Đã 40 năm Việt Nam chưa có thủ lĩnh tầm quốc tế. Khi có thủ lĩnh tầm quốc tế Việt Nam sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong bàn cờ Địa Chính Trị Thế giới.

Nguyen Ngoc Chu

Thursday, February 27, 2020

Tiền đi đâu và kinh tế thịnh vượng

Tôi có quen một đại gia thuộc top 5 Việt Nam. Anh này có tư chất khoa học, tự hào đã tu luyện và nắm bản chất của nền tài chính thế giới. Chính vì thế anh sử dụng các đòn bẩy, vòng tròn nhỏ rất điêu luyện, thoát hiểm trong tích tắc nhiều lần để trở thành đại gia. Cố nhiên từ đó, tôi ít có dịp gặp và nói chuyện. Ở giai tầng khác nhau, quan tâm khác nhau, câu chuyện và thậm chí khái niệm cũng khác nhau.
Có một dịp anh ghé nhà tôi ở Florida "ủ mưu" mấy tuần hồi cách đây 20 năm. Tối nào, tôi thức dậy cũng thấy đốm thuốc lập lòe trong bóng tối, anh ngồi trong góc nhà suy nghĩ. Căn hộ của tôi nằm dưới một tán cây rất lớn và rất đẹp. Ban công nằm ngay dưới tán cây đó, tôi kê mấy cái ghế và một cái bàn đề ngồi tán gẫu. Hầu như lúc tôi ra khỏi nhà đi làm buổi sáng và về nhà buổi chiều, nửa đêm tỉnh giấc, tôi đều thấy anh ngồi đó. Trước đó vài năm, ở New York, tôi cũng tìm hiểu chút chút về Tài chính, đủ để kiếm việc ở Wall Street. Do tìm hiểu nghiệp dư, có những điều tôi biết khá sửng sốt đối với cả những nhà chuyên môn tài chính, nhưng có những điều ngu dốt không thể tưởng. Về Florida, mang theo cả đống sách Tài chính, nhưng tôi quan tâm hơn tới sản xuất thiết bị công nghiệp và hệ thống thông tin quản lý.
Tuy vậy, tôi cũng đủ sức để trình bày ý tưởng của mình (nếu thảng hoặc có được) một cách có nghĩa lý. Câu hỏi của tôi với anh bạn đại gia tương lai (tôi cho là kỳ tài) là: Đôi khi ta thấy tiền rất nhiều, đâu cũng có người có tiền. Khi khác thấy mọi người đều không có tiền. Ngân hàng cũng không có tiền cho vay. Vậy thì tiền đi đâu ?
Anh bạn hiểu rất nhanh ý tôi. Anh quay sang nói với con gái tôi "Câu hỏi của bố cháu rất hay. Cháu có thể theo học ngành tài chính để trả lời câu hỏi này suốt đời. Số tiền trong xã hội phải là một số không đổi. Chú cũng đã từng hỏi tiền đi đâu." Túm lại, đại gia kỳ tài cũng không có trả lời hiển nhiên cho câu hỏi, và là đại gia thì không thể trả lời không biết. Lợi ích tôi thu được là chắc chắn câu hỏi này có nghĩa và không tầm thường.
Tôi suy nghĩ câu hỏi này trong nhiều năm và catch được ý tưởng chính: cảm giác về nhiều hay ít tiền trong xã hội không phải là do tổng số tiền mặt mà là tốc độ luân chuyển của tiền. Nếu trong một ngày tiền chỉ luân chuyển từ A sang B, hoặc nằm yên trong túi A, rõ ràng nếu hỏi những người còn lại sẽ không thấy tiền. Nhưng nếu tiền luân chuyển qua túi 100 người thì hỏi 100 người đó, họ đều nói có tiền. Suy rộng ra, sự thinh vượng của xã hội, sẽ đo bằng lượng tiền lưu chuyển, chứ không phải số tiền mặt tổng cộng. Khi lưu chuyển sẽ tạo ra thặng dư. Tôi tính viết một phần mềm mô phỏng quá trình này. Về mặt chính sách, muốn phát triển kinh tế, chỉ cần kích thích, khuyến khích việc lưu chuyển tiền, khơi thông ách tắc, chống đầu cơ, ôm tiền một chỗ. Tiền xoay vòng cố nhiên phải có hàng hóa, dịch vụ và thặng dư.
Đến khi có dịch Covid-19 này, tôi lại càng tin tưởng vào cách giải thích trên. Đừng tưởng nghỉ học sẽ chỉ ảnh hưởng tới mấy trường tư. Chợ búa, hàng ăn, du lịch vắng teo sẽ chặn dòng tiền luân chuyển. Có thể như hiệu ứng cánh bướm.

Nguyễn Ái Việt (DEBRECEN.vidi72)

Wednesday, February 26, 2020

Văn hào Nguyễn Du

Đáng kinh ngạc trước tầm viễn kiến lịch sử của một sĩ phu Bắc hà:
NGUYỄN DU TÌM ĐƯỜNG VÀO GIA ĐỊNH, ĐỂ THEO PHÒ NGUYỄN ÁNH!

Ắt nhiều người trong quí bạn sẽ phải bất ngờ, vâng, NGUYỄN DU - mà hậu thế biết tới ông là một đại thi hào - đã không chịu bị "trói" trong nếp nghĩ thủ cựu như phần đông sĩ phu Bắc hà.

I/ MỘT QUYẾT ĐỊNH DŨNG CẢM!
Nguyễn Du (阮 攸), sinh năm 1766 tại Tiên Điền, Nghi Xuân thuộc Hà Tĩnh. Thân phụ của ông là Nguyễn Nghiễm làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) của triều đình Thăng Long! Chưa kể hai người anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản làm Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa (Thái Nguyên), và Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.

Gia thế của Nguyễn Du, như vậy, thuộc hàng danh gia vọng tộc, rạng rỡ quyền uy trong triều đình Thăng Long.

Dưới thời Tây Sơn (sau khi kết liễu triều đình Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789), một người anh của Nguyễn Du là Nguyễn Đề được làm thái sử Viện Cơ mật tại kinh đô Phú Xuân.

Chốn quan trường, với mối liên hệ gia tộc, mở ra trước mắt Nguyễn Du.

NHƯNG vào năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du tìm đường để vào tận Gia Định của miền Nam theo phò chúa Nguyễn Phước Ánh 阮 福 暎 (sau này là vua Gia Long)! Chẳng may ông bị phát hiện, bị tống vào nhà giam ở Nghệ An.

Đi theo Nguyễn Phước Ánh trong Nam, dưới mắt nhìn của nhiều sĩ phu của Thăng Long, là đi theo ngụy triều.
Đi theo Nguyễn Phước Ánh, dưới mắt nhìn Tây Sơn, là đi theo giặc, theo kẻ thù. Bị bắt, có thể bị xử tử.

Thời may Nguyễn Du chỉ bị nằm khám, sau đó ông được thả, buộc trở về quê nhà Tiên Điền.

Tại sao một sĩ phu Bắc hà như NGUYỄN DU không chịu theo phò nhà Tây Sơn đang thời làm mưa làm gió? Tại sao ông không chịu uốn mình như phần đông trí thức ngoài Bắc để đua chen bổng lộc nơi chốn đô hội Thăng Long?

II/ KHÔNG CHẤP NHẬN "ĂN MÀY DĨ VÃNG"
Lúc Nguyễn Du mạo hiểm, đánh cược sinh mệnh của ông cho một sự chọn lựa chánh trị - năm 1796, bấy giờ vua Quang Toản nắm ngôi (sau khi thân phụ là Hoàng đế Quang Trung tạ thế 1792). Uy danh của nhà Tây Sơn lên cao sau đại thắng quân Thanh.

Tuy nhiên, tài năng và công trạng là bởi Quang Trung, hậu duệ không thể dựa vào đó để "ăn mày dĩ vãng"!
Mang danh kẻ sĩ thì lại càng không thể ngoái mắt nhìn trở ngược quá khứ để biện chính cho vai trò chính quyền đương thời. Tầm nhìn của nguyên thủ (ở đây là vua Quang Toản) có đáng để cho giới sĩ phu đổ công đổ sức hậu thuẫn hay không.

III/ TẦM VIỄN KIẾN LỊCH SỬ ĐÁNG NỂ CỦA NGUYỄN DU
Giữa lúc nhiều trí thức xênh xang áo mão làm quan, Nguyễn Du - kẻ sĩ "ưu thời mẫn thế" - đã nhìn thấy tương lai của nước Việt sẽ nằm nơi minh chủ Nguyễn Ánh. Quả nhiên, sau này, Nguyễn Ánh thâu tóm giang san về một mối, lập ra quốc gia mang tên mới là: VIỆT NAM!

1/ Vào thời điểm 1796 khi Nguyễn Du tìm đường vào Nam, ông và giới trí thức đều đã biết đến một sự kiện trước đó hơn mươi năm (năm 1784): Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm La cử Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân vào trợ giúp.

Giới quan lại của Thăng Long kết án Nguyễn Ánh đi nhờ ngoại viện nơi Xiêm La. Mỉa mai thay, chính triều đình Thăng Long chớ không ai khác từng rước 2 vạn quân Thanh.

Rước Tàu, phò Tàu mà "cao đạo" được với ai, vênh vang cái giống gì - ngoài cái trò lừa bịp!

2/ Trong tranh chấp võ lực, việc liên minh/viện trợ ra sao, lúc nào... thuộc về kế sách nằm lòng của kẻ cầm quân, chẳng phải thời hiện nay, thời xưa cũng vậy. Như có lúc Nguyễn Ánh liên minh với Xiêm La (nay gọi Thái Lan), để đương đầu Tây Sơn liên minh với Chân Lạp (nay gọi Cambodia).

Cái chính yếu là một khi thành công, sự liên minh đó có phải trả cái giá đắt cho nền độc lập hay không. Người lãnh đạo giỏi là họ biết "hóa giải" ân đền oán trả, đồng thời giữ gìn được nền độc lập.

3/ Nguyễn Ánh chỉ cậy Xiêm La một lần duy nhứt, vì ông nhận ra quân Xiêm làm nhiều điều xằng bậy với dân chúng ở miền Nam. Thành thử khi vua Xiêm có ý định cho mượn quân lần nữa, vào năm 1786, NHƯNG Nguyễn Ánh nhứt quyết từ chối (chớ nếu có dụng tâm "cõng rắn cắn gà nhà" thì dại gì không mượn tay Xiêm).

Năm 1787, Nguyễn Ánh cùng tùy tùng đã lẳng lặng rời khỏi Xiêm La, trở về châu thổ đồng bằng sông Cửu Long để tìm cách phục hồi cơ nghiệp tiền nhân (9 đời Chúa Nguyễn dựng xây Đàng Trong).

4/ Nguyễn Du đã có thời gian để nghiền ngẫm về quá trình xây dựng Gia Định của Nguyễn Ánh:
Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi, từ năm 1789, Nguyễn Ánh đưa ra những chính sách cải cách nông nghiệp - như "ngụ binh ư nông", những mảnh đất khẩn hoang được miễn thuế trong ba năm đầu... khiến cho sản xuất lúa gạo ở đồng bằng Cửu Long tăng cao sản lượng.
Thêm vào đó, chính sách "tự trị" trong phạm vi hẹp cũng được Nguyễn Ánh khuyến khích: chức "Lâm ngũ quan" trong cộng đồng người Hoa, "Ốc Nha" trong cộng đồng người Khmer đều do người Hoa, Khmer cai quản.

Dân chúng miền Nam hậu thuẫn cho Nguyễn Ánh ngày càng nhiều hơn, là bởi một số chính sách nêu trên.

Tương lai được nhìn thấy trên "vầng trán" Gia Định. Và, do vậy, Nguyễn Ánh xứng đáng trở thành minh chủ để Nguyễn Du - một kẻ sĩ Hà Tĩnh - hậu thuẫn.

IV/
Hoàng đế Gia Long mến tài và kính trọng: năm Ất Sửu (1805) nhà vua mời Nguyễn Du làm Đông các đại học sĩ, nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.
Năm Quý Dậu (1813), Nguyễn Du được thăng Cần chánh điện học sĩ, và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.

NGUYỄN DU không chỉ là một trí thức trong thơ ca, mà ông còn là một trí thức trong ngành giáo dục, một trí thức lịch lãm trong ngành ngoại giao.
------------------------------------------------------------------------------------
Còn việc "cầu viện Pháp" của Nguyễn Ánh? Đọc kỹ sử, mới biết Pháp không có vai trò "nặng ký" gì ráo. Để viết trong bài khác.

Nguyễn- Chương Mt

Tuesday, February 25, 2020

BIẾT ĐỌC, BIẾT VIẾT, BIẾT LÀM TOÁN?

Không có bất cứ tài liệu nào kể lại rằng Phật đã đọc sách hay ghi chép gì cả. Thời ấy, có lẽ văn bản chỉ được dùng cho các khế ước, hoặc khắc vào đá ở các đền thờ, chắc hẳn chỉ có một số rất ít người biết đọc biết viết, khi họ làm nghề gì đó và vì lý do nào đấy.

Mãi bốn thế kỷ sau khi Phật chết, thì kinh Phật mới được ghi lại lần đầu tiên, bằng tiếng Pali, chép lên lá bối đa khô, ở một xứ Phật chưa từng đến bao giờ là Tích Lan (Ceylon, Sri Lanka).

Sinh thời, Phật chỉ nói chứ không viết ra những gì muốn người khác phải hiểu. Người ta nghe, ghi nhớ trong đầu, rồi đi nói lại cho người khác.

Để mọi người không nhớ sai, các bài tạng kinh được đặt ra để dễ học thuộc lòng.

Nhưng có lẽ Phật rất yêu thích những con số: 4 sự thật về cái khổ (tứ diệu đế), 8 con đường đúng (bát chính đạo), 12 duyên khởi (thập nhị nhân duyên), 5 ấm (ngũ uẩn), 6 căn (lục căn),...

Cái gì quan trọng cũng được đánh số để khi kể lại thì người ta có thể kể theo đúng thứ tự. Nếu có quên mất thứ gì đó, thì nhờ có đánh số mà biết còn thiếu ở đâu, và khi đã kể đủ số rồi thì thôi, không được thêm vào điều gì!

Tạm chốt bừa: Phật không biết đọc, không biết viết, nhưng có lẽ biết làm toán số học!

Biết đọc, biết viết, biết làm toán hình như ngày nay là mục tiêu của giáo dục tiểu học... và không chỉ vậy.

Như Hùng

Monday, February 24, 2020

Hồ Mai Phương: Tôi không ngờ một KIến trúc sư (KTS) học lên từ miền Bắc rồi đào tạo ĐH ở Trung Cộng về nước làm việc cho chế độ CS miền Bắc bao nhiêu năm,mà KTS Trần Thanh Vân lại có một tinh thần tự học với tầm suy nghĩ cao rộng kết tinh trong đó lòng yêu nước sâu xa,thật đáng trân trọng biết bao!
Tôi thật ngưỡng mộ chị KTS Trần Thanh Vân!
Xin trân trọng chuyển đến quý bạn hiền 1 bài viết của chị về bản chất của bọn bành trướng Bắc Kinh và về Phong Thủy Địa Mạch của Việt Nam ! Rất hay và rất tâm huyết!
----------

TTN

>> This is an article written by Architect Tran Thanh Van who has had a lot of experience in the Geology and Structure of the land mass in Asia, i.e. the "Phong Thuy" of China and VN, etc.... Tran Thanh Van believes the reason that China has always wanted to occupy VN is because the Chinese Government thinks that North VN with Ha Long Bay is the tail of a giant Dragon, whose head is the Peak of Himalaya Mountain Ranges. Tibet (Tay Tang) the peak of Fansipan (the Sa-Pa area) and the Northwest VN (the "Bauxit" mines) are parts of this giant Dragon. The Chinese believes that if they take over the control of the land where this Dragon lies, then they can take control of the entire world!....They are now trying to accomplish this ambition!

--------

TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
.
Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”
– “Cái gì? 55 năm?”

– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.

Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ.. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.
.
SỰ THẬT VÀ TRẢI NGHIỆM

Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.

Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.
.
KỶ NIỆM THỨ NHẤT: CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT NĂM 1953

Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tág¡ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.

Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.

Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư Q‘ó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.

Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.

Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.

Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
.
KỶ NIỆM THỨ 2: TRỜI PHẠT

Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.

Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.

Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. ến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.

Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì...

Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?

Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.
.
DU HỌC Ở TRUNG CỘNG.

Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.

Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậ­y tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.

Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.

Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.

Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”

Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra kh »i trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Cộng, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.

Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.

Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi..
.
THỜI KỲ TRƯỞNG THÀNH

Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.

Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.

Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.

Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với má»™t chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.

Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

.
TRUNG QUỐC HÔM NAY ?

Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Cộng đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.

Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của H »“ng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.

Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.

Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.

Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.

Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.
.
TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.

Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.

Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.
.
HỆ ĐỊA MẠCH NƯỚC TRUNG HOA: CHIẾC BÁNH SANDWICH

Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich

Nước Trung Hoa hình quẻ chấn
Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.

Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân.. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đà n áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).

Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).

Cung điện Tây Tạng Potola
Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
.
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bgº±ng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội.. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo
từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.

Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?
.
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: CẤU TRÚC ÂM DƯƠNG HOÀN CHỈNH

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.

Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương
Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình..
.
LỜI CUỐI BÀI

Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ vơí Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.

Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?

Đông dân là một sức mạnh

Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.

Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.

Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,

Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán

Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.
Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?

KTS Trần Thanh Vân
Nguồn Hoang Hai Nam

Tập tục lễ Tết

QUỐC ẤN

Mẹ tôi hay nói nôm "ăn Tết cả năm không bằng cái rằm tháng Giêng" mà không giải thích gì, chắc câu này truyền khẩu nhiều thế hệ và có lý do riêng gì đấy. Rồi khắp nơi ăn chơi còn hết tháng, ít ra là không nhiều người làm việc khi vẫn còn tháng Giêng, cũng chả biết tại sao.

Tháng Chạp, ít ra là từ ngày 23, cũng không mấy ai có tâm trí tập trung làm việc và luôn "có gì ra Tết nhé?!", đâu đâu cũng đông đúc tít mù xuôi ngược lễ lạt kẻ dương người âm. Ai đấy than vãn "chết mệt!" nhưng rồi lại hối hả cuốn vào dòng đời "no ba ngày Tết" hoặc "lo ba ngày Tết", để rồi tối Ba Mươi có vẻ lại mãn nguyện hể hả thở phào với thành quả tất bật của những hôm trước...

Năm nào rồi lại cũng như năm xưa, lặp lại đèn cù như vậy hết thế hệ này tới thế hệ khác... Lạ lùng thật! Một năm có hai tháng lê thê, hơn 16% còn gì, có thể coi đấy là dung sai đặc trưng cho người Việt ở mọi khu vực? Rồi ăn nhậu, rồi lễ hội, rồi chùa chiền, rồi bài bạc, rồi bói toán, rồi giải hạn,... xem chừng ngày càng nhiều thêm bất tận. Đâu và gì cũng nói tới truyền thống văn hóa, thậm chí cột thêm tâm linh vào nữa, chả biết đằng nào mà lần...

Tôi không phản đối một kỳ nghỉ dịp Tết, nhưng bớt dài đi thì hơn, bớt ăn nhậu đi thì hay, bớt lên đồng tập thể các loại "lễ hội đình, chùa truyền thống văn hóa tâm linh" đi thì khỏe...

Cũng như cứ mỗi năm năm thì chừng độ năm rưỡi ngó nghiêng vậy.

Nhưng đã thành quốc ấn rồi thì biết làm thế nào?

Giá như từ đầu tháng Giêng mà mọi người cứ ký tên đóng dấu cho các việc hanh thông thì tốt...

Như Hùng (2016)

Sunday, February 23, 2020

TRUYỆN VUI CUỐI TUẦN – HÉVÉGI VICCEK (No. 208)

Người đàn ông may mắn
-------------------
Một cô gái đi xem bói:
- Có hai người đàn ông đang yêu con. Ai sẽ là người may mắn ạ?
- Józsi sẽ lấy con làm vợ. Béla sẽ là người may mắn.

Szerencsés férfi
-------------------
Egy lány elmegy a jósnőhöz:
- Két férfi is szerelmes belém. Melyik lesz közülük a szerencsés?
- A Józsi fogja feleségül venni. Béla lesz a szerencsés.

Nguyễn Ngô Việt (DEBRECEN.vidi73)

Saturday, February 22, 2020

TUYÊN NGÔN - Ba Sàm

PHÁ VÒNG NÔ LỆ

Cách nay ngót trăm năm, chí sĩ Phan Châu Trinh từng dạy rằng nếu không nâng cao dân trí thì mãi mãi dân ta không thể thoát khỏi vòng nô lệ.
Nhưng không biết cái nghĩa “nô lệ” mà cụ nói có nhiều hàm ý, hay chỉ là ách nô lệ ngoại bang ?
Vì ngay cả sau khi thoát ách nô lệ ngoại bang, dễ ngỡ mình là nhất thiên hạ mà không biết là bị tụt lại sau ghê gớm, rồi coi rẻ học hỏi, không biết an dân … thành ra ngu dốt, nhiều tính xấu trói chặt mình – sẽ trở thành nô lệ chính mình.
Từ nô lệ chính mình mà dễ sinh xâu xé cả đồng bào, người u tối yếu ớt bị kẻ gian manh quyền thế áp bức – thành ra nô lệ cường quyền.
Vậy là có độc lập mà chẳng có tự do bởi hai cái ách nô lệ đó; để rồi cả dân tộc yếu đi là lúc ngoại bang nhòm ngó nhảy vào, ta lại dễ thành nô lệ ngoại bang. Và cứ thế …
Đó chính là cả cái “vòng” nô lệ – như cái “chu trình”, cái vòng vinh-nhục của lịch sử bi hùng, khi anh dũng thắng ngoại xâm, khi lầm than trong tối tăm lạc hậu. Thử nhìn lại lịch sử nhiều triều đại và nhìn vào hiện tại ?
Tất cả các bài báo trong blog này muốn nói tới điều đó, cũng là chút đóng góp nho nhỏ, để cùng với hơn 80 triệu dân Việt chúng ta “Phá vòng nô lệ”.
Ba Sàm, 9/9/2007

Friday, February 21, 2020

Chuyện dịch

Đoạn NHẬT KÝ viết tiếp, ngày 15/2/2020, của nhà văn Phương Phương

SỐNG TRONG TÂM DỊCH TP VŨ HÁN ĐÓNG CỬA.
(Vẫn do nữ dịch giả Lương Hiền chuyển ngữ. Share của a Phước Châu)

..."Tuyết đã rơi.
Đêm qua, gió giật sấm rền, nay trời đổ tuyết. Ở Vũ Hán, trận tuyết lớn thế này vào mùa đông cũng là hãn hữu.
Nghe nói, Bệnh viện dã chiến Hỏa Thần Sơn có vài phòng bệnh tốc mái, mới biết gió đêm qua dữ dằn nhường nào! Cầu mong bệnh nhân được chuyển chỗ an toàn, kiếp nạn nhỏ xảy đến giữa kiếp nạn lớn.
Hôm nay tâm trạng thật tệ. Mới tinh mơ đã nhận được tin, tài khoản weibo của người tên Hạng Lập Cương kết tội tôi viết bài tung tin thất thiệt. Người này post lên trang cá nhân bức hình một chiếc di động fake bán ngoài chợ đen có gắn bài viết của tôi, kèm tranh. Xưa nay mọi ghi chép của tôi đều chỉ thuần chữ viết, chưa bao giờ kèm tranh minh họa. Có người viết bình luận, nhắc nhở anh Cương về điều này, nhưng anh không thèm quan tâm.
Thật hiếm có! Thanh niên trai tráng, tài khoản VIP hơn triệu người theo dõi, nếu nói anh ta không có não, chắc khó ai tin. Do Vũ Hán đang bị đóng cửa, tôi không thể ra khỏi nhà. Nhân khi tài khoản weibo của tôi bị an ninh mạng khóa lại. Nhân khi tôi không có cách gì lên tiếng, anh ta làm ra trò này, chắc cũng khổ công lắm. Nếu thiện chí, sao không cắt hình lưu lại, chờ khi tôi được “giải phóng” cả ngoài đời thực lẫn trên cõi mạng mà tìm tôi tính sổ? Thế có phải đàng hoàng hơn không. Tôi chỉ còn nước thanh minh trên ứng dụng wechat. Hôm nay, tôi đã nhờ bạn bè tìm giúp luật sư. Nhưng thành phố đã đóng cửa, gửi thư ủy quyền cho luật sư bằng cách gì được? Nhưng, cũng nhanh, luật sư chưa tìm đến, anh Cương đã vội vã xóa hết post liên quan.
Những người như anh Cương, tôi gặp đã nhiều, và thường không buồn bận tâm. Chỉ tiếc cho hơn 1 triệu người follow anh ta. Theo dõi một người như thế, có học được điều gì hay không? Một số fans của anh ta, chẳng cần biết thật giả phải trái, chửi mắng tôi thậm tệ cả trong bình luận lẫn inbox, như thể tôi có huyết hải thâm thù gì với họ. Mà đám người này, phần nhiều đều chưa từng đọc bài nhật ký nào của tôi. Có anh tên Từ Hạo Đông, tự giới thiệu là nhà quay phim người Vũ Hán, inbox cho tôi rất dài, lời lẽ thô bỉ, còn dọa tìm đến tận nhà xử lý tôi. Rốt cuộc điều gì, chuyện gì khiến họ có thể căm hận thấu xương, đến mức muốn xé xác một người chưa từng gặp mặt, không hề quen biết, cũng chẳng thấu hiểu như vậy? Lẽ nào hồi bé họ không được dạy những điều “chân” và “thiện”, thay vào đó lại là “thù” và “hận”? Đám người này, có lẽ chính là đám “não tàn” mà mọi người thường nhắc đến.
Hôm nay tin xấu nối tiếp tin xấu. Cô y tá Liễu Phàm đi làm ngày mùng 2 Tết, không mặc đồ bảo hộ, không khẩu trang, đã bị lây nhiễm. Sau đó, cả bố mẹ và em trai cô đều vào viện. Bố mẹ cô sau đó đã qua đời, rồi hôm qua, cô cũng ra đi. Chỉ còn cậu em trai đang nguy kịch. Hồi chiều, bạn tôi là bác sỹ trong viện cho biết, em trai cô cũng vừa mất. Virus đã cướp đi mạng sống của cả một gia đình, không chừa một ai. Tôi rất đau lòng, lại nghĩ, mạng sống của họ bị cướp đi, chỉ bởi virus?
Đau lòng hơn nữa, hôm qua, cô bạn học ngồi cùng bàn hồi cấp ba của tôi cũng ra đi. Cô ít hơn tôi một tuổi, dịu dàng, nhu mì, rất xinh đẹp và khỏe mạnh. Năm xưa chúng tôi cùng trong đội văn nghệ của trường. Tôi chơi piano, cô gảy tì bà. Chúng tôi chơi thân suốt thời cấp ba. Trung tuần tháng giêng năm nay, cô đi chợ mua thức ăn vài lần, không may nhiễm bệnh. Vất vả lắm mới nhập được viện, và nghe bảo cô hồi phục rất tốt. Vậy mà gia đình đột ngột thông báo, cô đã mất. Hôm nay, nhóm bạn cùng khóa ai nấy đều khóc thương cô. Nhóm bạn từng một thời hát vang ngợi ca “đất nước đẹp giầu”, nay đã phải bật lên tiếng uất: “Không xử bắn đám giòi bọ hại người, làm sao yên được lòng dân!”
Hôm nay, tôi học thêm được từ mới “virus lưu manh”. Các chuyên gia đều bảo con virus này rất lạ lùng, rất khôn lường, khó kiểm soát, nhiều người lây nhiễm mà không hề có triệu chứng. Sau khi điều trị các triệu chứng, bệnh tình thuyên giảm, bạn những tưởng thế là thoát, có thể sống khỏe rồi, thì nó, lúc này đang ẩn mình rất kỹ, đột ngột bùng phát gây tử vong. Nó quả rất lưu manh.
Nhưng không chỉ mình nó lưu manh.
Có những kẻ coi thường tính mạng con người, mặc kệ người dân sống chết; những kẻ mượn danh nghĩa quyên góp từ thiện để trục lợi, nhận được hàng cứu tế liền rao bán khắp nơi trên mạng; những kẻ cố tình phun nước bọt vào thang máy, vào tay nắm cửa nhà hàng xóm; những kẻ chặn đường ăn cướp các dụng cụ y tế của bệnh viện; và cả những kẻ tung tin đồn thất thiệt khắp nơi. Chúng ta đều biết, con người còn tồn tại thì virus còn tồn tại. Trong đời sống xã hội cũng tương tự, nơi đâu có con người, thì nơi đó vẫn còn những “virus người” (bao gồm những kẻ não tàn). Ngày tháng yên ổn, cuộc sống êm đềm bình lặng, tính thiện và ác của con người được đậy điệm, che giấu, có khi cả đời không hiển lộ. Chỉ vào thời kỳ bất thường, như chiến tranh, thiên tai, tính thiện và ác của con người mới được dịp “hiển hiện”. Bạn sẽ thấy những điều không ngờ, không tưởng. Bạn kinh ngạc, đau đớn, thở than, rồi cũng sẽ thành quen. Vòng luân hồi ấy, cứ thế xoay vần. Còn may, khi cái ác được dịp tung hoành, thì cái thiện cũng được cổ vũ, lan rộng. Thế nên chúng ta mới được chứng kiến những anh hùng, những tấm lòng vị tha không vị kỷ, những người mạnh mẽ không sợ hãi.
Nào, bây giờ sẽ là tình hình Vũ Hán hiện nay, điều mà mọi người quan tâm nhất. Người bạn là bác sỹ của tôi bảo, trước ngày 20/02, Vũ Hán buộc phải có thêm 1 bệnh viện dã chiến với 1000 giường, và hoàn thiện nguồn cung ứng cho 100.000 giường bệnh. Điều này có nghĩa, dự đoán 100.000 ca nhiễm bệnh của các chuyên gia lúc ban đầu là không sai. Đối với những người nhiễm bệnh, Vũ Hán sẽ nỗ lực để có thể tiếp nhận 100%. Dù số lượng ca nhiễm gia tăng, nhưng tình hình hiện tại không tệ như dạo trước. Các bác sỹ đã rút ra kinh nghiệm qua khám chữa lâm sàng:
1. Độc tính của virus hiện đã yếu đi rõ rệt.
2. Sau khi được chữa khỏi, không để lại di chứng, phổi không bị xơ hóa.
3. Những ca lây nhiễm thuộc thế hệ 3, 4 đa số đều là ca nhẹ, điều trị đơn giản hơn.
4. Người bệnh nặng vượt qua được giai đoạn suy hô hấp, cơ bản có thể điều trị khỏi.
Xét cho cùng, số người chết không giảm là bởi giai đoạn đầu không được điều trị kịp thời. Khi tôi viết đến đây thì nhận được tin nhắn của anh cả: Giáo sư, viện sĩ Đoàn Chính Trừng của Đại học Khoa học và công nghệ Hoa Trung đã qua đời lúc 6 giờ 30 phút chiều nay. Đây là một mất mát vô cùng lớn lao của nhà trường.
Bác sỹ bạn tôi cũng nhờ tôi truyền đạt thêm: Hiện Vũ Hán chỉ có Bệnh viện Đồng Tế, Hiệp Hòa và Bệnh viện nhân dân tỉnh có thể tiếp nhận các ca bệnh ngoài Covid-19. Còn thì tất cả các bệnh viện còn lại đều được trưng dụng để chuyên trị viêm phổi Covid-19. Để tiện cho người bệnh mua thuốc, 10 hiệu thuốc đã được mở, bệnh nhân có bảo hiểm y tế và hồ sơ bệnh án là mua được thuốc...
Lệnh đóng cửa hoàn toàn tiểu khu thứ 2 đã ban xuống. Khu tôi ở cũng đã thành lập ban quản lý tự phát, các hộ tự bình bầu trưởng ban, phụ trách liên hệ với ban quản lý phường, để mua nhu yếu phẩm.
Cuộc sống kiểu khác kéo theo phương thức quản lý linh hoạt kiểu mới. Chúng ta hãy bình tĩnh, tiếp tục chờ đợi dấu hiệu chuyển biến tích cực.
Tôi chợt nhớ câu thơ của Hải Tử, mạn phép chỉnh sửa đôi chữ, lưu lại đây:
"Vũ Hán,
đêm nay tôi mặc đám não tàn,
chỉ bận lòng vì bạn".
......"


Ảnh. Đi chợ giùm và chia lại rau quả cho hàng xóm. Chuẩn bị BV dã chiến mới. Khoảnh khắc lạ: ông lão tìm về ngồi 1 mình giữa góc phố ẩm thực có các bức tượng vui ngày cũ. Bác sĩ vừa khám bệnh khu cách ly, được xịt cồn thẳng vào mặt để khử trùng. Đoạn tweet của Joshua Wong giải thích tên mới của cúm Vũ Hán. Bác sĩ vừa khám bệnh khu cách ly, được xịt cồn thẳng vào mặt để khử trùng.

copy từ FB-Vu Kim Hanh

Thursday, February 20, 2020

[Từ điển triết học-xã hội] Kinh nghiệm, thực nghiệm và thí nghiệm

Những từ này cũng hay dùng lẫn lộn, nhưng chúng khác nhau, dùng lẫn nhiều khi dẫn đến tư duy sai.
Kinh nghiệm: experience là những gì mà chúng ta đã trải qua, chứng nghiệm. kinh nghiệm = kinh (kinh qua) + nghiệm (chứng nghiệm): là một mảnh tri thức thu được thông qua trải nghiệm.
Thực nghiệm = thực (thực tế) + nghiệm (chứng nghiệm): là VIỆC rút ra tri thức trực tiếp thông qua các giác quan của chính chúng ta.
Thí nghiệm = thí (thử) + nghiệm (chứng nghiệm) là việc thử xem một quy luật, kết luận nào đó có đúng không. Chúng ta cần có một luận thuyết nào đó để thí nghiệm.
Thí nghiệm rõ ràng là khác. Cần phân tích thêm khác biệt giữa kinh nghiệm và thực nghiệm.
Trước hết kinh nghiệm là gốc là danh từ thực nghiệm gốc là động từ. Thực nghiệm nhấn mạnh vào cảm nhận trực tiếp. Kinh nghiệm có được nhờ cả nhận thức.
Gốc tiếng Anh: Phân biệt Empiricism và Experientialism sẽ rõ.
Empiricism in the philosophy of science emphasises evidence, especially as discovered in experiments. Conclusions must be empirically based on the evidence of the senses. Both natural and social sciences use working hypotheses that are testable by observation and experiment.
Experientialism is the philosophical theory that experience is the source of knowledge.

Đọc thêm: https://wikidiff.com/experimentalism/empiricism?fbclid=IwAR3-6061320WjSIwKvBcAOrqGglAeM_29b_DLIaBS_6dEI3FZEd1rK4KTUI

Nguyễn Ái Việt (DEBRECEN.vidi72)

Wednesday, February 19, 2020

439. Cha con tôi: Hai cách "theo Đảng đến cùng"

Cựu tù nhân chính trị Nguyễn Hữu Vinh, tức blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, từng là Thiếu tá An ninh trong Công an Việt Nam

Ba Sàm lý lịch xấu/Hai thế hệ ở tù/Xưa cha đòi độc lập/Thực dân đưa đi đày/Nay con muốn tự do/Cộng sản cho vào ngục (Cha tù con tù)

Cha tôi hoạt động cách mạng, theo Đảng Cộng sản Việt Nam giành độc lập cho dân tộc, những năm 1940-1944 bị Pháp bắt, giam ở Nhà đày Buôn Ma Thuột. Cuối đời, ông viết cuốn hồi ký “Nhớ lại những năm ở Nhà đày Buôn Ma Thuột”.

Tôi lập blog, mục tiêu nâng cao dân trí, đấu tranh đòi các quyền tự do cho dân mình, rồi bị chính quyền của ĐCSVN VN bắt, kết tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ …”, phạt tù 5 năm.


Nhà tù cho tôi rất nhiều trải nghiệm thú vị, trong đó có cơ hội so sánh vấn đề ĐẢNG của cha tôi với của tôi.

Tin theo Đảng trọn đời

Ngày ra tù, cai ngục hỏi “Về thì làm gì?”, cha tôi khảng khái “Lại đấu tranh!”

Cũng tựa như cuốn hồi ký trên, cuốn thứ hai của cha tôi nhan đề “Hiến sức trọn đời”, đều toát lên tinh thần tin yêu tuyệt đối ĐCSVN. Ngày ra tù, cai ngục hỏi “Về thì làm gì?”, ông khảng khái “Lại đấu tranh!”.

Trong suốt hàng chục năm nắm giữ nhiều trọng trách trong Đảng, chính quyền, ông được tiếng là người rất liêm khiết và ngay thẳng. Tôi tự hào và học được ở ông đức tính đó. Thế nhưng, mọi ý kiến, việc làm của ông cho dân chủ trong Đảng, làm trong sạch Đảng …, ông đều tuân thủ một nguyên tắc: “bí mật”. Trong cả hai cuốn hồi ký kia, hoàn toàn không thấy có một chút “vết gợn” nào về Đảng; tôi cảm thông, cố đọc để tìm trong đó chút ít tư liệu.

Ông còn có 200 bài thơ, phần lớn thể hiện tinh thần cách mạng, lòng tin tuyệt đối với Đảng.


Cuối đời, dường như đã nhận ra những điều rất “không ổn” về Đảng của mình, nhưng ông im lặng; có lẽ do bất lực và không thể tìm ra cách lý giải.

Ông Nguyễn Hữu Khiếu (cha của tác giả) và vợ, chụp tại Hà Tĩnh, 1949, khi ông là Giám đốc công an Liên khu 4 (hình tư liệu gia đình do tác giả cung cấp)

Biểu hiện khác thường đó, tôi nhận ra khi quyết định tự ứng cử đại biểu Quốc hội. Mặc dù biết tôi sau khi bỏ nhà nước, ra kinh doanh, không sinh hoạt Đảng tại địa phương, nhưng ông vẫn không một lời nhắc nhở. Rồi khi tôi tâm sự nguyên vọng của mình, ông rất ủng hộ. Trên giường bệnh, ông đã gọi điện cho vị lãnh đạo cao nhất của Mặt trận Tổ quốc, mời tới để hỏi ý kiến việc tôi muốn tự ứng cử vào Quốc hội.

Nhắm mắt xuôi tay, ông nằm lại tại Nghĩa trang Mai Dịch cùng các đồng chí cấp cao của mình, khi Đảng vẫn chưa định hình được con đường XHCN của đất nước sau trăm năm nữa.

“Theo” Đảng đến cùng


Những ngày đầu “đi cung” tại Trại B14, tôi nhắc các điều tra viên: “Này, tôi vẫn đang là đảng viên đấy. Các ông bắt, giam, hỏi cung tôi mà không tuân thủ các quy định của Đảng là các ông vi phạm đấy”. Họ cười, cho là tôi đùa. Theo họ, suốt 15 năm, về hưu không sinh hoạt đảng, làm sao có thể vẫn còn là đảng viên. Hơn nữa, có lẽ họ không thể đoán nổi rằng tôi sẽ dùng vấn đề đó để mà “theo” Đảng đến cùng.

6 tháng sau, tôi nhận bản Kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an. Trong đó, phần “Đảng phái chính trị” của tôi, được ghi là “Không”. Tôi lập tức viết hàng loạt đơn khiếu nại, rằng mình vẫn đang là một đảng viên.

Lập luận và bằng chứng của tôi rất rõ ràng. Đó là trong nhiều năm, thập kỷ 1980′, 1990′, nhiều cấp lãnh đạo ngành Công an và Tổng cục An ninh đã mắc các sai phạm không nhỏ liên quan tới tôi. Trong đó có việc vô cớ không cho tôi sinh hoạt đảng suốt 5 năm, nhưng vẫn bất chấp nguyên tắc, làm giấy “chuyển sinh hoạt đảng” cho tôi về địa phương. Tôi không thể thỏa hiệp với sai trái đó được, chờ dịp thuận lợi để khiếu nại, nên không sinh hoạt đảng.

Chỉ vì vụ “đảng viên” đó, mà thời gian tạm giam của tôi ở B14 bị kéo dài thêm hơn 1 năm, vi phạm quy định của Luật tố tụng hình sự; các cơ quan liên quan lao vào một cuộc “tranh cãi” qua đủ loại công văn đi lại. Cơ quan này bảo “không còn là đảng viên”, cơ quan kia thì ngược lại.


Họ phải vất vả vậy, chỉ bởi quy định của Đảng, rằng nếu cơ quan pháp luật muốn tiến hành các biện pháp tố tụng với một đảng viên, thì phải thông báo, xin ý kiến tổ chức đảng nơi đảng viên đó đang sinh hoạt. Với trường hợp của tôi, đang là đảng viên, bị bắt, giam, hỏi cung rồi mà chưa có các thủ tục với Đảng, thì ít nhất cũng phải cố “xóa tên/khai trừ” xong thì mới được đưa ra xét xử. Thế là họ đã phải cố hoàn tất thủ tục, sau khi nhận ra quả thực tôi vẫn đang là đảng viên, và không thể bác bỏ được lập luận của tôi dựa trên các văn bản của Đảng cùng bằng chứng.

Ông Nguyễn Hữu Vinh (bìa phải) cùng cha, mẹ, anh cả (bìa trái), thăm nhà sàn của cố Chủ tịch Việt Nam ông Hồ Chí Minh, năm 1974 (hình tư liệu gia đình do tác giả cung cấp)

Dù bị “xóa tên” (một cách vội vã và sai nguyên tắc), tôi vẫn tuyên bố trước cả hai phiên tòa “tôi đang là đảng viên ĐCSVN”, và “tôi hoàn toàn vô tội”; vẫn tiếp tục khiếu nại. Phần lớn trong số 30 đơn khiếu nại của tôi trong vụ án, cơ quan pháp luật đã không cho các luật sư được tiếp cận, bất chấp đó là việc làm trái luật. Họ muốn che đậy những thông tin quá nhạy cảm trong đó.

Để ghi lại những cảm xúc, tự động viên mình suốt những năm tháng tù, tôi có hơn trăm bài thơ, chẳng ca ngợi Đảng, mà ngược lại:

Cha tôi theo Đảng trọn đời bởi đơn giản là ông tin yêu nó, gắn bó gần cả cuộc đời sự nghiệp với nó. Dù có nhận thấy bao nhiêu tiêu cực về Đảng, ông cũng vẫn nhất quyết bảo vệ.

Có hai cuốn sách viết về tôi. Một cuốn về nghề thám tử tư của Công ty tôi sáng lập, điều hành (với bao nhiêu gian nan, bởi ngành Công an tìm mọi cách cản trở hoạt động, thu giấy phép nhưng không thành. Họ coi chúng tôi như kẻ sẽ “soi lưng” họ). Cuốn thứ hai, ra đời khi tôi trong tù, gồm nhiều bài viết về vụ án của tôi. Tôi xem đó cũng là những đóng góp gián tiếp của mình cho mục tiêu “theo Đảng đến cùng”.


Chung mục đích, khác con đường

Ông Nguyễn Hữu Khiếu (phải) và thông gia, cố Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học Công an, ông Lê Quang Thành, năm 1994 (hình tư liệu gia đình do tác giả cung cấp)

Cha tôi theo Đảng trọn đời bởi đơn giản là ông tin yêu nó, gắn bó gần cả cuộc đời sự nghiệp với nó. Dù có nhận thấy bao nhiêu tiêu cực về Đảng, ông cũng vẫn nhất quyết bảo vệ.

Tôi “theo” Đảng tới cùng, chẳng phải còn yêu quý gì nó, mà là muốn truy kích nó, lật ra những gì phi lý, tệ hại trong cả bản chất lẫn thực tế cuộc đời nó, để cho mọi người cùng thấy.

Áp đặt những quy định của Đảng cao hơn mọi văn bản pháp luật trong hoạt động tố tụng đã mặc nhiên ban cho người đảng viên có đặc quyền dễ lẩn tránh sự trừng phạt nếu như phạm tội; nó “trói tay” các cơ quan tố tụng hoặc tiếp tay cho cán bộ tha hóa lợi dụng (mà hậu quả là công cuộc chống tham nhũng kém hiệu quả, có lý do này).

Tôi “theo” Đảng tới cùng, chẳng phải còn yêu quý gì nó, mà là muốn truy kích nó, lật ra những gì phi lý, tệ hại trong cả bản chất lẫn thực tế cuộc đời nó, để cho mọi người cùng thấy

Thế nhưng, tưởng như Đảng là cao nhất, hóa ra nhiều khi không hẳn. Chính cơ quan pháp luật – ngành công an, với quyền lực to lớn của mình, họ có thể bỏ qua những quy định của Đảng. Trong trường hợp của tôi, thấy rõ: không sinh hoạt Đảng nhiều năm, vẫn được coi như là “có” rất dễ dàng. Muốn xóa tên đảng viên để phục vụ phiên tòa, họ làm được hết, bất chấp quy định của Đảng là phải xác minh lý do vì sao tôi không sinh hoạt đảng suốt 20 năm trời, xem có chính đáng hay không.

Hai ví dụ đó chỉ là chút minh họa, bề nổi của vô vàn thứ sai trái, phi lý cần phải được vạch ra; để từng đảng viên, mọi người dân thấy rõ thêm sự tồn tại độc tôn của ĐCSVN ngày nay đã và sẽ mang lại cái gì cho Dân tộc? Phải làm gì với nó đây? Có hy vọng nó thay đổi, tự cứu chữa được không với những căn bệnh như ung thư giai đoạn cuối? v.v..

Một cuốn sách được in ấn và phát hành công khai bởi một nhà xuất bản tại Việt Nam về ‘Anh Ba Sàm’

Với riêng tôi, sẽ “theo” Đảng đến trọn đời của nó nếu như ông Trời cho tôi sống dai hơn nó; bằng nhiều những việc làm, bài viết nữa, về những kinh nghiệm và quan điểm của mình, cả trong tù lẫn ngoài đời, để trả lời những câu hỏi trên.

Nghĩ về con đường của cha và của mình, tôi thấy rõ là có chung mục đích – độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Có điều, tôi đang tham gia làm nốt phần việc mà cha tôi chưa làm được – Dân tôi chưa được tự do, hạnh phúc.

Bài viết thể hiện văn phong và phản ánh quan điểm riêng của tác giả, cựu Thiếu tá An ninh công An Việt Nam, từng làm việc tại Cục bảo vệ chính trị 1, cựu tù nhân chính trị, ông hiện đang sinh sống tại Hà Nội như một blogger và nhà báo tự do .
-----------

*:Thân phụ của tác giả, ông Nguyễn Hữu Khiếu (1915-2005), từng là Ủy viên Trung ương Đảng CSVN, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, cựu Bộ trưởng Lao động Việt Nam và cựu Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô.

copy từ blog Ba Sàm

Tuesday, February 18, 2020

Chuyện tưởng như bịa...

Nguyễn Qúy Phương: Đúng thực là Rất lạ. Năm 2013. Không rõ tập thơ có bị rút phép thông công không? Và cả tác giả nữa? Còn chuyện "thìa đục lỗ" ở Ninh Bình nữa. Cũng đã qua tuổi thanh niên ở thời kì đó nhưng mình không tin là thật trước khi đọc những cái còm trong bài. Một thời...gì nhỉ?

Nhân chuyện người lính buồn trong thơ Văn Lê.

Trước và sau tiểu thuyết nổi tiếng : “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh, văn học dòng chính thống của chế độ đương thời, chừng như chưa có tác phẩm nào dám dựng chân dung buồn đau tới tận cùng của người lính chiến?
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, câu thơ của Phạm Tiến Duật có thể đại diện cho hình ảnh người lính chiến đi vào chỗ chết trong văn học mà vui như tết, mà vỗ tay vỗ chân hát hò mê sảng hơn trúng số ! Cho nên, Tố Hữu – ông trùm của thi ca cách mạng mới khẳng định tính chất sắt đá đến phi nhân của đảng cầm quyền, một đảng không biết hỉ nộ ái ố, không có trái tim như sau : “Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt/ Đảng ta đây xương sắt da đồng”

Rất lạ, năm 2013, nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân đã cho xuất bản tập thơ “ Vé trở về” của nhà thơ, nhà văn, nhà biên kịch điện ảnh, đạo diễn Văn Lê với hình ảnh người lính buồn từ A tới Z.

Người lính của thơ Văn Lê khác một trời một vực với người lính của Phạm Tiến Duật, khi anh được giấy gọi đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu:
“Anh nhìn con dấu đỏ tươi trên lệnh động binh
Lòng trống vắng như vòm trời không đáy
Cánh đồng ngơ ngẩn buồn
Anh cũng ngơ ngẩn buồn trong váng nắng chiều sót lại”

Quê hương người lính không phải là thiên đường xã hội chủ nghĩa như tuyên truyền, mà là một cảnh loạn lạc, bi ai, tráo trở, buồn thương của đám tang cha mẹ:

“Rắn rết trong hang bò ra đầy ngõ
Náo loạn làng quê chó sủa
Náo loạn bầu trời vẩn vũ chim bay
Cuộc trở mình của tự nhiên diễn ra giữa ban ngày
Mọi trật tự bỗng nhiên gãy đổ
Sông suối thay lòng đổi dạ
Cuộc đưa ma tại làng quê nhức nhối tiếng gọi hồn”

Người lính trong thơ Văn Lê ra trận trong nỗi buồn sầu thảm :

“Đồng chiều ngơ ngẩn buồn
Anh ngơ ngẩn buồn bước về quá khứ
Ở đâu đó giữa hoang vu chợt cất lên tiếng thánh ca âm u khổ sở
Âm u khổ sở tiếng thánh ca của muôn loài sinh vật tiễn đưa anh”

Hãy nhìn hình ảnh người em gái cô đơn tiễn anh ra trận qua chữ nghĩa Văn Lê :

‘Em gái anh
Dáng như bà già
Khoác chiếc áo tơi mỏng manh như món đồ dễ vỡ
Nó đứng chờ anh ở ngay đầu ngõ
Miệng cười lóe vệt trăng non”

Và người lính ấy mang nỗi buồn vô tận vào cuộc chiến để chết buồn như chiếc lá :

“Câu chuyện về người lính hy sinh buồn như lá thu bay”

Các anh đã chết cho cái gì vậy :

“Những năm chiến tranh đất nước gieo neo
Giấy báo tử về làng như lá rụng
Khủng khiếp nhất là phải làm người sống
Sáng mở mắt ra đã nơm nớp trong lòng”

Hãy đọc tiếp niềm đau buồn của thơ Văn Lê khi anh tả nỗi buồn cô đơn của cô em gái –người thân duy nhất còn sót lại của người tử sĩ buồn:

“Ngày anh trai hi sinh bến nước bơ vơ
Cô chẳng còn ai mà chờ đợi nữa
Mọi trật tự trong cô sụp đổ
Cô lang thang cuối đất cùng trời
Xác xơ như bà lão ăn mày
Vô cảm như người điên ngoài chợ”

Cô gái đi tìm người anh đã chết trận như một người điên, trên quê hương điên, với những lý tưởng viển vông điên dại ai mang đến lừa mị quê hương :

“Những hi vọng tìm anh sau chiến tranh
Tràn ngập trong cô như nước mùa tháng tám
Xé lòng cô như cánh đồng gặp hạn
Ăn mòn cô như nắng lột da người”

Những người lính sinh Bắc tử Nam , chiến đấu để giải phóng nhân dân, để xây thiên đường xã hội chủ nghĩa ư ? Hãy nhìn đáp số cuộc chiến tranh chết hàng chục triệu người qua thơ Văn Lê viết về nỗi buồn lính :

“Quê anh bây giờ lôm nhôm lam nham
Anh ngắm nhìn mà thương con mắt
Những bức tường đá xanh biến mất
Nhường chỗ cho những ngôi nhà mái bằng nép sát vào nhau
Cao thấp nhấp nhô như người bị chắt đầu
Chẳng tìm đâu ra những mái nhà đội nón
Cuộc sống dường như đảo lộn
Chẳng còn ai vướng bận đến quá khứ xa xưa
Có lẽ vậy nên làng anh bây giờ
Cuộc sống mất đi cái hồn cái vía…”

Chao ôi, hàng triệu người lính đã chết trận để sau ngót bốn mươi năm, quê hương ta chỉ còn là cái xác không hồn ? Những câu thơ Văn Lê bình dị, lắng đọng, sâu xa mà như một lời lên án bọn đầu nậu chiến tranh đã dùng máu mấy triệu người để làm cuộc buôn lớn có tên là cách mạng.

Hãy nhìn xã hội tham nhũng vô phương cứu chữa, kẻ cầm quyền giàu có hóa thành tư bản để vô sản hóa nhân dân, tiếp tục cho nhân dân ăn bả lừa thiên đường thiên điếc. Nhà thơ quân đội, nhà văn cách mạng, nhà biên kịch đạo diễn có hạng Văn Lê đã vượt lên trước đội hình nhà văn lề phải để lý giải, để thúc giục nhân dân tỉnh ra sau khi bị ăn bả cách mạng thành ngớ ngẩn, thành mất trí :

“LÀNG QUÊ U U MÊ MÊ
NGƯỜI TA NHƯ ĂN CHÁO LÚ”...

Cám ơn thi sĩ Văn Lê đã gọi sự vật bằng tên của nó, khi ông đanh thép tố cáo “trò lừa lý tưởng” cho dân ăn cháo lú của những ông lú cầm quyền :

“ Họ ( nhân dân –chú của TMH) lao ra bến sông bãi chợ
Giành giật miếng ăn của nhau
Chợ quê tràn ngập đồ Tàu
Chẳng thiếu thứ gì, ngoại trừ đồ thật !”

Thật đau thương cho một nhân dân sau khi đã cống hiến hàng triệu con em làm vật hiến tế hi sinh cho các cuộc chiến vì lợi ích ngoại bang như lời cố tổng bí thư Lê Duẩn từng nói : “ Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”, như lời thơ Tố Hữu : “ Ta vì ta ba chục triệu người / Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”…lại được trả công bằng hàng giả cả từ tinh thần đến vật chất thế này ư ?

Văn Lê lý giải hiện tượng làng anh tha hóa, mất hết hồn dân tộc, đang tan tác như đám gà gặp cáo chỉ vì thờ sai thần, vào nhầm miếu:

“CÓ NGƯỜI BẢO DÂN LÀNG ANH NHƯ THẾ
ĐÃ VÀO NHẦM MIẾU LẠI CÚNG NHẦM THẦN"

Đọc đến đây, ai là người còn tấm lòng với đất nước đều hiểu nhà thơ Văn Lê không chỉ nói làng anh, mà nói dân tộc anh đã thờ nhầm thần Marx –Lenin, đã vào nhầm miếu cộng sản nên đất nước mới thành ra tan nát thế!

Một tập thơ tâm huyết thế này, trung thực và xúc động dám nói thẳng nói thật tận tâm can như thế này, lại được một nhà xuất bản lề phải Quân Đội Nhân Dân cho in, liệu có phải là tin mừng hay không?

Viết đến đây, chúng tôi xin kể một kỷ niệm với nhà thơ Văn Lê (anh từng được giải thơ cùng hạng A với Hữu Thỉnh và Anh Ngọc trong cuộc thi thơ Báo Văn Nghệ năm 1975-1976); rằng sau khi thống nhất đất nước, Văn Lê rủ chúng tôi từ Sài Gòn ra Bắc về thăm quê hương (Hà Nam Ninh) sau ngót mười năm xa vắng. Chia tay Văn Lê ở thị xã Ninh Bình cuối năm 1975, hai đứa chúng tôi vào một quán phở mậu dịch. Bát phở được bưng ra, chúng tôi cầm thìa lên múc phở nhưng thìa chảy hết nước ra ngoài, không thể ăn được. Mọi người bảo hai chú bộ đội từ chiến trường ra à, rằng thìa ở đây đã được cấp ủy duyệt cho cửa hàng phở lấy đinh đục nát thìa ra lỗ chỗ như hố bom để cho nhân dân chúng nó không còn ăn cắp thìa mang về nhà làm của riêng được nữa. Văn Lê ngồi khóc. Anh thương nhân dân quê hương Ninh Bình của mình khổ đến thế để đánh thắng Mỹ mà không ăn nổi bát phở, đành để cho hai ba ông ăn mày giành nhau…Còn tôi kìm xúc cảm, vẫn ăn hết bát phở để chia tay Văn Lê, lấy sức đi bộ về quê Nghĩa Hưng Nam Định…”

Kể chuyện này, có lẽ nhiều người bảo chúng tôi bịa, rằng làm gì có chuyện đó. Vâng, tôi xin lấy danh dự ra mà nói rằng, còn nhiều chuyện kinh thiên động địa hơn chi tiết này rất nhiều nhưng vẫn là sự thật. Bây giờ thì đất nước ta, đảng ta không còn phải đục thìa ra để nhân dân ăn phở thoải mái mà không sợ bị mất như ngày sau cuộc chiến tranh xưa nữa; nhưng những cái thìa tinh thần của dân tộc ta, thì than ôi, đã và đang bị ai đó cùng với các đồng chí bốn tốt 16 chữ vàng đục lỗ chỗ ra hết, có phải không nhà thơ Văn Lê ?

Sài Gòn ngày 30 tháng tư năm 2014
Trần Mạnh Hảo
© Đàn Chim Việt