Sunday, August 31, 2014

Con đường của dân tộc: Từ cuộc cách mạng giành độc lập và chặng đường đến tương lai (2)

(các bạn trở lại phần mở đầu ở đây)

Phần 1: Đội Nai - OSS và Cơ hội bị bỏ lỡ

Năm 1945, Đội Nai - OSS (Deer Team - Office of Strategic Services) đã nhảy dù xuống khu rừng già Kim Lũng, Tân Trào. Ở đây họ đã gặp Mr. Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) với nhiệm vụ huấn luyện Việt Minh cách sử dụng vũ khí bộ binh. Trong 2 tuần rưỡi, họ đã huấn luyện cho 85 người. Tất cả những người này đều thông minh, có học thức và trở thành hạt nhân của quân đội Hồ Chí Minh.

Bộ phim tài liệu "Có một cơ hội bị bỏ lỡ" (đạo diễn Nguyễn Mộng Long) được thực hiện về Henry Arthur Prunier, một trong số 7 thành viên của Deer Team - OSS (DTO). Ông Henry từng học tại Đại học Berkeley và học tiếng Việt (sau khi gia nhập quân đội). Sau đó ông được Cục Tình báo Chiến lược (OSS) tuyển chọn và tiếp tục huấn luyện đặc biệt cho đến khi đến Texas học lớp huấn luyện cơ bản để chuẩn bị cho nhiệm vụ "tình nguyện đến Đông Dương". Sau đó, ông được chuyển đến Calcutta và bay đến căn cứ OSS tại Côn Minh. Đội DTO được thành lập ngày 16.05.1945 và chuẩn bị nhảy dù xuống căn cứ của Việt Minh vào tháng 8 cùng năm với nhiệm vụ mới.
      Nói về chủ tịch Hồ Chí Minh, Henry Prunier thuật lại: "lúc mới đến, ông chưa thể gặp ngay Mr. Hồ, bởi lúc ấy Mr. Hồ bị bệnh sốt rét và một số bệnh nhiệt đới khá nặng. Quân y sĩ Paul Hoagland của DTO đã điều trị cho ông bằng ký ninh với một phác đồ thuốc trị liệu và sau đó, tình hình đã khá hơn một chút. Khi tôi gặp ông ấy, ông ta chỉ có da bọc xương. Tuy nhiên, ông có cặp mắt sáng. Đôi mắt của ông rất sáng, và rất thông minh. Tôi thực sự thoải mái khi trò chuyện với ông ấy. Ông ấy nói được tiếng Anh. Nhưng tôi với ông ấy trao đổi với nhau bằng tiếng Pháp. Tiếng Việt của tôi không đủ để trò chuyện (dù đã được học 3 năm và đảm nhiệm vai trò phiên dịch của DTO). Khi tôi nói là tôi ở Massachusetts, ông đã vui vẻ nói về chuyện này bởi vì ông từng có thời gian ở Boston. Trong thực tế, ông đã ghi chú lên sổ văn phòng của Parker House, vốn là khách sạn nổi tiếng tại Boston. Ông đã có thời gian ở Boston nhưng lưu lại ở New York lâu hơn..."
      Bộ phim như "những trang hồi ký" làm sáng tỏ quá khứ của Henry với những ý kiến, bài viết của một số nhà nghiên cứu sử học, nhà báo, cựu chiến binh... trong và ngoài nước về những khởi đầu trong quan hệ Việt Mỹ. Đặc biệt là cuộc phỏng vấn đại tá Archimedes Patti nói về chính sách của Mỹ đối với VN năm 1945. Patti từng phụ trách Ban Đông Dương thuộc Pháp của OSS, là người đứng đầu phái bộ tiền trạm OSS đến Hà Nội vào tháng 8.1945 và tiếp xúc mấy lần với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Patti được coi là một trong số những "người trong cuộc" hiểu biết rất nhiều tình hình lịch sử VN.
     Có hai vấn đề chính được đặt ra trong phim:
      1. Trong lịch sử quan hệ Việt Mỹ, từng có sự hợp tác và tạo dựng được mối quan hệ tốt đẹp giữa OSS với Việt Minh trong thời kỳ chống phát xít Nhật. Nhưng tại sao DTO đã sớm rút đi và những bức thư của Hồ Chủ tịch gửi chính phủ Mỹ, trong đó có nội dung chủ yếu "...Mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ"; thế nhưng Tổng thống Truman đã không trả lời bất cứ văn bản nào.
      2. Vì sao người Mỹ lại ủng hộ Pháp chiếm lại Đông Dương? Lẽ ra, VN đã không bị đẩy vào thế đối đầu với Pháp mạnh hơn mình gấp trăm lần và sau đó với chính người Mỹ mạnh gấp ngàn lần!

Tuy nhiên, với góc nhìn chiến lược từ kinh nghiệm Đông Dương, ông Patti nhận định:
  ..."Chúng ta đã có Hồ Chí Minh. Chúng ta đã có Việt Minh. Chúng ta đã nắm vấn đề Đông Dương. Nhưng vì lý do bất chấp logic mà hôm nay chúng ta đã nhận ra rằng, chúng ta đã ủng hộ người Pháp trong cuộc chiến mà chính họ còn gọi là "la sale guerre" (cuộc chiến bẩn thỉu). Chúng ta đã gánh 80% chiến phí cho người Pháp và sau đó 100% cho cuộc chiến giữa Mỹ và VN."
      Henry Prunier từng bị chỉ trích vì cho rằng: "lẽ ra không nên để xảy ra cuộc chiến tranh với Việt Nam". Claude Berube cũng tán thành quan điểm này: "Rất tiếc cho Henry Prunier đã bị chỉ trích trong khi ông lại có cái nhìn hết sức độc đáo về những người lãnh đạo cuộc chiến chống Hoa Kỳ. Đó chính là cơ hội bị bỏ lỡ."

Deer Team - OSS chụp ảnh cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Henry Prunier là người đứng thứ tư (từ phải qua ), click vào hình để xem rõ hơn.
OSS Deer Team members pose with Viet Minh leaders Ho Chi Minh and Vo Nguyen Giap during training at Tan Trao in August 1945. Deer Team members standing, l to r, are Rene Defourneaux, (Ho), Allison Thomas, (Giap), Henry Prunier and Paul Hoagland, far right. Kneeling, left, are Lawrence Vogt and Aaron Squires. (Rene Defourneaux)


(tóm lược từ bài "Gặp người cuối cùng của Đội Nai-OSS năm 1945" của Kim Ửng, KTNN No.866)

(Các bạn xem tiếp Phần 2 ở đây)

Cao Xuân Việt

Tatiosz


"Khi bạn ước mong mọi người chú ý đến mình, hiểu mình và yêu thương mình, hãy nhở rằng những người khác cũng ước mong như vậy." 


Bác học và tài xế

      Sau khi đưa ra thuyết tương đối của mình, Einstein đi khắp các trường đại học ở Mỹ và giảng bài cùng với người tài xế của mình tên là Harry, người luôn ngồi ở hàng ghế cuối chăm chú nghe mỗi khi ông giảng bài.
      Một hôm, Harry nói với ông:
      - Thưa giáo sư, tôi đã nghe bài giảng của ông rất nhiều lần, và nếu có một cơ hội, tôi hoàn toàn có thể giảng lại bài đó!
      Einstein trả lời:
      - Tốt quá! Tuần tới tôi sẽ đến Dartmouth. Ở đó họ không biết tôi, anh sẽ là Einstein giảng bài, còn tôi là tài xế!
      Và thế là... Harry đã giảng bài một cách hoàn hảo, không sai một chỗ ngắt câu, còn Einstein thỏa chí ngủ ở hàng ghế cuối.
      Nhưng khi Harry rời bục giảng, một nghiên cứu sinh chặn anh ta lại và hỏi những câu hỏi chằng chịt tính toán và phương trình. Harry bình thản trả lời:
      - Ồ! Câu hỏi này dễ lắm, dễ cực kỳ, để tôi gọi tài xế của tôi trả lời cho anh!

Những bí ẩn trong nghệ thuật (1)

"Từ xa xưa, lịch sử nghệ thuật đã có nhiều bí ẩn. Một số do chính các nghệ sĩ tạo ra, một số khác do sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Trong nghệ thuật cũng như lịch sử, có những lỗ đen nhiều khi rất hấp dẫn. Người ta tìm thấy chúng trong các vật dụng thời trung cổ cũng như những kiệt tác thời phục hưng hoặc thời hiện đại. Làm sao có thể thực hiện các bức bích họa thời tiền sử? Những chiếc hộp quý giá của Paris thời trung cổ dùng để cất dấu cái gì? Ai là người mẫu để Raphael vẽ bức tranh "Fornarina"? Tại sao Hergé thường nói đến hai con số 7 và 3? Bức chân dung Stalin do Picasso vẽ có số phận ra sao? Ai nấp phía sau nghệ sĩ Bansky, mà cái đầu luôn được trùm bằng chiếc mũ vải và không ai biết tại sao? Nhiều câu hỏi đặt ra đôi khi có câu trả lời, nhưng hầu hết chỉ là những giả thuyết có khi dẫn đến những câu hỏi khác."

Những bức tranh thời tiền sử
Khi hình vẽ những con bò rừng tại Altamira (Tây Ban Nha) được phát hiện năm 1879, người ta cho rằng đó là những tác phẩm giả mạo vì những bức vẽ trong hang động tối tăm từ hàng chục ngàn năm trước khó có thể tinh xảo đến thế... Tuy nhiên những phát hiện như vậy ngày càng nhiều hơn ở Niaux (Ariège), Lascaux (Dordogne), Chauvetpont-d'Arc (Ardèche)...làm người ta nghĩ đến việc các siêu phẩm do tổ tiên homo sapiens xa xưa của loài người để lại này vẫn còn đầy bí ẩn là do chưa được quan tâm nên ít có thời gian để nghiên cứu. Gần đây, bí ẩn vẽ trên vách đá tăm tối được Bertrand David giải thích trong cuốn sách của mình (Bí ẩn cổ xưa nhất của loài người, 2013) khi cho rằng người tiền sử đã vẽ bằng cách "chiếu hình" và "sao chép hàng loạt" từ các mẫu vật để vẽ theo hình bóng những con thú như bay trên vách hang (bất chấp sự gồ ghề) một cách hoàn hảo (vì vậy trên các bức vẽ, các con vật phần nhiều giống nhau với đầu hơi nghiêng và mắt của chúng nằm ở những chỗ rất mơ hồ). Tuy nhiên, việc giải thích như vậy đã bị nhiều người khác phản đối, thậm chí có người còn nổi điên như Gilles Tosello, tiến sĩ tiền sử học, phụ trách sao chép các bức tranh trong hang Chauvet, vì cho rằng những giải thích trên có những điểm thiếu nhất quán ở mọi cấp bậc.

Những chiếc hộp thời trung cổ
Đó là những chiếc hộp thánh tích bằng gỗ, bọc da, viền sắt, phía trong nắp có bản in khắc gỗ nhiều màu sắc mô tả các thánh tích. Chúng có kích thước: dài 30cm và cao 15cm; Có khoảng 120 cái hộp như vậy nằm ở các viện bảo tàng rải rác khắp thế giới. Michel Huynh, quản thủ Viện Bảo tàng Cluny, cho biết tất cả các hộp này đã được mở từ thế kỷ 18, nhưng bên trong không chứa gì cả.

Fornarina
Khi Raphael qua đời năm 1520, người ta tìm thấy bức tranh này tại xưởng vẽ của ông ở Rome. Ai là người đẹp trong bức tranh mang tên "Cô thợ làm bánh mì" (Fornarina, tiếng Ý) của họa sĩ?
Theo Giorgio Vasari, tác giả quyển "Cuộc đời của các họa sĩ, điêu khắc gia và kiến trúc sư lừng danh nhất nước Ý" (1550), người mẫu của họa sĩ chính là vợ bé của ông. Trên dải băng vải mang trên tay trái của cô gái có ký hiệu của họa sĩ: Raphael Urbanus. Theo một số nhà sử học, dải băng này chính là bằng chứng cho thấy họa sĩ đã lén lút lấy nàng. Nhưng nếu chính ông đã vẽ Fornarina, tại sao trước đó mấy năm lại vẽ bức "Bà Velata" (La Donna Velata)? Đó cũng là chân dung của chính người phụ nữ này, với cùng tư thế: cánh tay phải đặt dưới ngực trái, nhưng mặc quần áo đầy đủ!
(còn tiếp)
Lược trích từ Kiến thức ngày nay No.866 (Tác giả Đinh Công Thành)

Saturday, August 30, 2014

Đức Phật

"Bất kể hôm qua khó khăn như thế nào,
hôm nay bạn vẫn có thể lại bắt đầu mọi thứ từ đầu."




Friday, August 29, 2014

FRISSÍTVE! Mi a legmenőbb az új Várkert bazárban? - Chúng ta thấy gì từ Várbazár?

Várbazár là một nỗ lực mới của người Hung trong mục đích thay đổi một phần cảnh quan của Budai Vár thuộc phạm vi được UNESCO công nhận là di sản thế giới của Budapest (Duna-part látképe). Đây là khu vực trên sườn đồi Vár và những công trình nằm dọc bờ sông, bên dưới cung điện Vár/Várpalota. 

Toàn cảnh Várkert bazár - ZOA (các bạn click vào hình để xem rõ hơn):
Chú thích:  1. Khu nhà phía Nam của cung điện/Déli palotaépületek (itt bérlakások voltak egykor); 2. Khu nhà trước đây dùng để cung cấp nước/Az egykori vízvezetéki épület; 3. Dãy chợ phía Nam/ Déli bazársor (benne az Erzsébet-lépcső); 4. Cổng vào khán phòng đa năng/Fülkepavilon (nem volt funkciója, csak a szimmetria kedvéért épült; ma ez a multifunkciós terem bejárata); 5. Vườn Neo-Renaissance/Neoreneszánsz kert; 6. Cổng vào đường dốc/Gloriett a rámpákkal; 7. Đường bậc thang có mái che phía Nam/Déli kortinafal a Vízhordó lépcsővel; 8. Cổng vào đường bậc thang/Lépcsőpavilon; 9. Sân nhà đúc/Öntőház udvar; 10. Đường bậc thang có mái che phía Bắc/Északi kortinafal; 11. Dãy chợ phía Bắc/Északi bazársor; 12. Khu nhà bảo vệ/Testőrségi palota. 

Các phối cảnh 3D/kiến trúc & sân vườn - ZOA
                              
Phối cảnh 3D/Nội thất: Sảnh ngoài - khán phòng đa năng
A Konferenciaterem/multifunkciós terem előcsarnokának látványterve - ZOA
Mỹ quan là vấn đề hàng đầu đặt ra cho khu mua sắm này. Đó là, từ trên cao phải thấy được khung cảnh đẹp của Vár, và ngược lại: từ Pest phải thấy một cảnh quan/kiến trúc được xử lý ổn thỏa về mọi mặt và tôn thêm giá trị của cung điện Vár so với trước đây.
      Hình bên dưới cho thấy phần sân cung điện phía Nam được bao che bằng kính, bên trong là không gian dành cho các gian hàng. Phía Bắc gồm 2 không gian rộng lớn gồm một tiệm bánh và một khu dành cho các gian hàng thuộc công ty CBA. 
                            
Phía sau chợ người ta khoét vào sườn đồi làm bãi đậu xe ngầm một khán phòng nhiều chức năng.Và người ta làm thêm một tầng như vậy nữa ở phía trên (xem mặt cắt bên dưới):
Dưới đây là hình ảnh của những hành lang/lối đi trên sườn đồi Vár/Közlekedési folyosók a Vár oldalában: 
                    
                            
 Hành lang ngầm và một số hình ảnh khác của bazár
Várkert bazár là một thể hiện về sự đổi mới của Budapest.Với mục đích tạo thêm những cảm xúc khi được đi bộ dạo chơi và lên cung điện Vár, những người thực hiện công trình này đã tạo thêm cho Budapest những thay đổi mới mẻ đầy sáng tạo.
(tổng hợp và biên dịch từ Index )

Ralph Waldo Emerson

"Trong một thế giới luôn cám dỗ để bạn thay đổi thành một người khác không phải là bạn, việc không bao giờ đánh mất mình là một trong những kết quả tuyệt vời nhất." 


Hỏi bạn

Một anh chàng hỏi bạn:
-Cậu có biết điểm giống nhau giữa bạn gái và điện thoại di động là gì không?
- Ờ... thì cả hai đều không liên lạc được khi... hết tiền. 

Thursday, August 28, 2014

Magyarország címere - Quốc huy Hungary qua các thời kỳ lịch sử


Magyarország jelenlegi címere (Kiscímert)

Quốc huy này gồm các biểu tượng phổ biến nhất: Vương miện Thánh tích Hungary; tấm lá chắn với hình thức polya (những dải màu nằm ngang), chữ thập kép (crux gemina) và vương miện nhà vua. Theo truyền thống Kitô giáo, chữ thập kép là dấu hiệu của vua Szent István với sứ mạng cùng các tông đồ  thành lập Giáo Hội tại Hungary .
Sau khi thay đi chế đ năm 1990, quốc hội đã tranh luận về việc chọn quốc huy Kossuth hoc quốc huy kiscímert, mà thực chất là sự lựa chọn giữa cách mng dân ch hoc thể chế truyn thng hàng nghìn năm. Cui cùng, phn ln các thành viên quc hi cánh hu MDF đã chn quốc huy kiscímert từ ngày 03.07.1990 (Đây cũng là quốc huy từ năm 1867).




1918-ban az első magyar köztársaság a Kossuth-címert tekintette állami jelképének.

Năm 1918, Quốc huy của nền cộng hòa đầu tiên (Quốc huy Kossuth). Quốc huy này lại được sử dụng từ năm 1946 đến năm 1948 và lần cuối với cuộc cách mạng 1956)









Từ năm 1949 đến 1955 là thời kỳ Rákosi theo mô hình của Liên Xô với quốc huy mới (thường được gọi là "Quốc huy Rákosi"). Bông lúa mì và búa tượng trưng cho giai cấp nông dân và giai cấp công nhân. Bản sắc dân tộc chỉ được giới hạn ở những màu sắc của dải băng phía dưới, như một dấu hiệu của Hungary. 







Từ năm 1957 đến 1989, Quốc huy mang bản sắc dân tộc nhiều hơn (Quốc huy Kadar). Tấm lá chắn của Kossuth với màu cờ Hungary được đặt ở giữa. Vòng hoa lúa mì ở phía bên trái với dải băng mang màu quốc kỳ thể hiện tinh thần "yêu nước xã hội chủ nghĩa", vòng hoa lúa mì bên phải với dải băng đỏ thể hiện tinh thần "quốc tế vô sản".





Trên đây là 1 số quốc huy của Hungary trong thời gian từ 1918 đến nay. Các bạn xem thêm nhiều mẫu khác ở đây
(A Wikipédiából, a szabad enciklopédiából)

Florence Shinn


"Trò chơi cuộc đời là trò chơi bumơrang.
Những suy nghĩ, hành động và lời nói của chúng ta
sớm muộn cũng quay trở lại với chúng ta,
với sự chính xác đáng kinh ngạc." 




Vương miện Thánh tích Hungary - A magyar Szent Korona

Vương miện Thánh tích Hungary (A magyar Szent Korona) là một trong những vương miện lâu đời nhất còn nguyên vẹn ở châu Âu. Nó là biểu tượng đi cùng lịch sử của Nhà nước Hungary, ít nhất là từ thế kỷ 12. Nó mang lại lợi thế trong các cuộc đấu tranh giành quyền lực Hoàng gia. Vương miện Thánh tích học được thiết lập nhằm phục vụ cho chức năng của nhà nước với biểu tượng của Vương miện Thánh tích là một trong những khởi đầu cho sự phát triển của luật pháp Hungary. Đây là nền tảng của hiến pháp Hungary từ cuối thời Anjou đến khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Theo đó, nguồn gốc cuối cùng của pháp luật cơ bản của đất nước và hệ thống pháp lý đều do Vương miện Thánh tích mà thực thể pháp lý của nó là Nhà nước Hungary định đoạt. Theo truyền thống lịch sử, ngày 15 tháng 8 năm 1038, ngày của Đức Mẹ Lên Trời, vua Istvan Đệ Nhất (Stephen I) của Hungary, người mang sứ mệnh của Vương miện Thánh tích đã dâng hiến đất nước Hungary cho Đức mẹ đồng trinh Maria. Sự kiện này đã bắt đầu một quá trình lịch sử theo đó vương miện của Vương quốc Hungary đã trở thành biểu tượng của nhà nước Hungary.
                                                                               
  

(A Wikipédiából, a szabad enciklopédiából)

Wednesday, August 27, 2014

Popper Péter


"Không quan trọng là bạn sống trong thế giới nào,
mà là thế giới nào sống trong bạn."




Tuesday, August 26, 2014

Cầu Erzsébet

Năm học đầu tiên ở NEI, trong những bài học tiếng Hung có một bài về cầu Erzsébet mà tôi rất thích. Cầu Erzsébet và Halászbástya là những hình ảnh đầu tiên của Hungary đã để lại ấn tượng mạnh với tôi khi còn học ở Hà Nội những năm phổ thông. Do đó, với riêng tôi nó mang một kỷ niệm đặc biệt hơn so với những cây cầu khác. Vì bây giờ không thể post được đúng bài học đó nên tôi sẽ ghi lại những nét chính và cảm nhận của mình về cây cầu tuyệt đẹp này; cây cầu màu trắng duyên dáng vô cùng ấn tượng mỗi lần tôi qua, nó đã mang lại cho tôi nhiều cảm xúc khác nhau với những khung cảnh có một không hai... để đến bây giờ vẫn còn nhớ mãi. 

Là một trong những cây cầu nổi tiếng nhất của Budapest, cầu Erzsébet nối quận V (Pest) và quận I (Buda) với nhau. Đây là cây cầu được nhìn thấy rõ nhất trong toàn cảnh (panorama) nổi tiếng của Budapest trên dòng Duna. Nó đã được dựng lại thay cho cây cầu cũ bị phá hủy trong chiến tranh thế giới thứ 2.
      Về cảm nhận, ấn tượng ban đầu của tôi khi xem cầu Erzsébet qua ảnh chụp so với ấn tượng nhìn từ đỉnh Gellért là một sự khác biệt rất lớn. Cầu Erzsébet nhẹ nhàng mảnh mai không che khuất cảnh quan phía sau. Hình ảnh cân đối của nó với những đường cong tuyệt mỹ trong toàn cảnh của Budapest không một bức ảnh chụp nào có thể sánh nổi vì chúng không thể hiện hết sự tuyệt vời của một khung cảnh được con người và thiên nhiên tạo ra, hòa quện với nhau thành một kiệt tác "nhạc không gian" mà không ngôn ngữ nào diễn tả hết được.


Erzsébet là cây cầu cuối cùng của Budapest được xây dựng lại. Nó đã gây nhiều tranh cãi vì nhiều người muốn khôi phục lại như cây cầu cũ và không muốn có một cây cầu mới theo phong cách hiện đại. Cuối cùng, cầu Erzsébet đã được thực hiện như chúng ta thấy; Sávoly Pál là người đã mang lại dáng vẻ cho cây cầu mới này. Mọi việc bắt đầu từ năm 1961 trên nền móng của cây cầu cũ còn lại. Để thực hiện được yêu cầu thiết kế về mặt kỹ thuật, các kỹ sư Hungary đã có nhiều sáng tạo vào thời đó khi chọn giải pháp cầu treo và hoàn thành vào năm 1964.
      Từ việc này, tôi nhận thấy được một vấn đề: đó là việc bảo tồn giá trị cũ và sáng tạo những giá trị mới đều cần thiết để phát triển.

Tại sao Budapest không chọn giải pháp khôi phục cây cầu cũ mà lại làm cầu treo hiện đại; trong khi vẫn khôi phục những cây cầu khác y như cũ?

       Ở cả Buda và Pest, chúng ta đều thấy những kiến trúc cũ và mới xen lẫn nhau nhưng không phá vỡ cảnh quan, chúng hài hòa với nhau trong một đô thị được quản lý tốt, có ý thức và trách nhiệm với di sản lịch sử trong việc xóa bỏ và đổi mới. Chính vì vậy, cầu Erzsébet hoặc Hilton Hotel (dù nằm sát Halászbástya và Mátyás-templom) vẫn rất đẹp trong tổng thể kiến trúc/cảnh quan của toàn khu vực. Chúng đều được xem xét và nghiên cứu rất kỹ lưỡng để mang lại những vẻ đẹp mới bên cạnh những vẻ đẹp cũ. Và người Hung đã thành công trong việc phát triển và giữ gìn vẻ đẹp của Budapest qua nhiều giai đoạn lịch sử với nhiều công trình mang những phong cách khác nhau. Họ tạo được sự phong phú cho bộ mặt kiến trúc của thành phố, một thành phố nổi tiếng về vẻ đẹp đa dạng của châu Âu chứ không phải là những tòa nhà chọc trời. Và tôi thấy rằng với óc thẩm mỹ của mình người Hung hoàn toàn có quyền tự hào về những thành quả của họ. Họ đã rất quyết đoán, có thể đã rất khó khăn và tiếc nuối khi dám xóa bỏ một công trình đẹp đẽ của thời trước để thay thế bằng một công trình tiêu biểu cho cái mới vì nếu không từ bỏ cái cũ thì cái mới không thể có được chỗ đứng xứng đáng với nó.
(các bạn click vào hình để xem rõ hơn)

Huy hiệu của Budapest

 "Huy hiệu của thành phố là một biểu tượng theo phong cách gothic màu đỏ, được chia làm hai phần bởi dòng nước bạc của Duna (thể hiện bằng màu trắng) uốn lượn cắt ngang. Phần trên của tấm lá chắn tượng trưng cho Pest bằng biểu tượng thành quách màu vàng với một tháp, một cổng. Phần dưới tượng trưng cho Buda và Óbuda bằng biểu tượng thành quách màu vàng với ba tháp, hai cổng. Tất cả các cổng đều mở cho thấy bên trong lối vào mang màu xanh da trời của không gian phía sau. Phía bên phải của tấm lá chắn là một con sư tử vàng (từ huy hiệu trước đây của Buda), bên trái là một con thú có cánh đầu chim (từ huy hiệu trước đây của Pest). Bên trên tấm lá chắn là chiếc Vương miện Thánh tích nổi tiếng của Hungary (A magyar Szent Korona)."
Huy hiệu được họa sĩ Friedrich Lajos thực hiện theo yêu cầu của Ủy ban trù bị hợp nhất của thành phố năm 1873.
Huy hiệu được sử dụng làm biểu tượng của thành phố đến 1964, nhưnng từ năm 1945 không có vương miện. Huy hiệu mới sau này được sử dụng trong thời gian từ 1964 đến 1990.
(Wikipédia)                      
Và đây là huy hiệu của Budapest trong những năm từ 1964 đến 1990 (thời của chúng ta học ở Hungary)  
Szent Korona được bảo vệ trong hộp kính chống động đất đặt ở sảnh dưới mái vòm Parlament, để bảo quản báu vật linh thiêng, bên trong hộp kính là nitơ thay cho oxy thông thường.

Andrew Matthews

"Cuộc đời ly kỳ nếu chúng ta
tạo ra những điều mới lạ.
Nếu luôn chỉ tim kiếm sự an toàn,
điều đó sẽ làm héo mòn sức sống của chúng ta."



Monday, August 25, 2014

Ấn Độ: Sự vươn lên của một cường quốc

Từ một quốc gia đặc biệt với sức mạnh tâm linh và văn hóa tinh thần độc đáo, Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947 sau cuộc đấu tranh bất bạo động do Mahatma Gandhi lãnh đạo với tên chính thức là Cộng hòa ấn Độ.

      Hiện nay, nền kinh tế Ấn Độ đứng hàng thứ 10 (GDP) và đứng thứ 3 thế giới về lực mua. Tiếp sau những cải cách kinh tế dựa vào thị trường năm 1991, Ấn Độ là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh chóng nhất và được xem như một nước mới được công nghiệp hóa.
      Là một trong những nước có vũ khí nguyên tử, Ấn Độ là cường quốc có chi tiêu quốc phòng đứng thứ 8 trên thế giới.
      Với thể chế của một Liên bang Lập hiến (federal constitutional republic), Ấn Độ có hệ thống nghị viện (lưỡng viện) gồm 29 bang và 7 lãnh địa liên minh (union territories). Ấn Độ có 6 đảng được thừa nhận trong toàn quốc và hơn 40 đảng khu vực.
      Vì dân số đông, nhiều chủng tộc, nhiều tôn giáo nên Ấn Độ vẫn phải đối diện với sự nghèo đói, tham nhũng...và những tác động nặng nề từ những tranh chấp trong xã hội.
      Xã hội Ấn Độ truyền thống được xác định bởi cấp bậc, tôn tri; quan trọng nhất là hệ thống đẳng cấp. Từ năm 1947, Ấn Độ đã ban hành các luật chống kỳ thị đẳng cấp trong xã hội.
      Ấn Độ có 1 nền dân chủ độc đáo dựa trên hiến pháp1950 (do Ambedkar, một người thuộc đẳng cấp thấp nhất Ấn Độ, soạn thảo). Trên thực tế, Ấn Độ đã duy trì được 1 đất nước đa chủng tộc, đa tôn giáo hòa đồng mà không buộc người dân phải theo một hình thức/chính thể đồng nhất nào.
      Đảng Quốc đại (National Congress) là đảng phái chủ trương nâng cao cuộc sống của mọi thành phần xã hội. Đặc biệt tập trung vào chính sách cải thiện tầng lớp nghèo. Về kinh tế, đảng có xu hướng chấp nhận chính sách thị trường tự do do Manmohan Singh đề xướng trong những năm 90's.
      Khi làm thủ tướng (2004-2014), Tiến sĩ Singh tiếp tục khuyến khích sự lớn mạnh của thị trường Ấn Độ, đưa mức tăng trưởng kinh tế lên 8-9% mỗi năm với những cải cách về ngân hàng và tài chính cũng như các công ty khu vực công cùng việc tiếp tục chương trình hiện đại hóa các xa lộ. Dưới thời ông, đã có thêm 8 Viện Công nghệ Ấn Độ được thành lập.
      Thủ tướng hiện nay, Narendra Modi (người của đảng đối lập Nhân dân Ấn độ - BJP) là một chiến lược gia của đảng, người giữ chức Thủ hiến bang Gujarat lâu nhất; yếu tố quan trọng nhất đưa ông đến chức thủ tướng Ấn Độ là chính sách kinh tế tạo ra môi trường thuận lợi, biến Gujarat thành 1 bang phát triển năng động và phồn vinh trong những năm qua. Với một nội các gọn nhẹ (23 bộ trưởng), ông Modi kêu gọi dân chúng ủng hộ ông trong vòng 10 năm để đưa Ấn Độ trở thành 1 cường quốc thật sự trên thế giới.
      Một thành công khác của BJP vào thời thủ tướng Atal Bihari Vajpayee cầm quyền (từ 1998), là việc đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, khai thác nguồn nhân lực tại chỗ và phát triển công nghệ sinh học.
      Khi thủ tướng Manmohan Singh (thân Mỹ) qua Washington với đề nghị chấp nhận tình trạng vũ khí hạt nhân của Ấn độ và những yêu cầu khác vào tháng 3.2005, Mỹ đã thay đổi chính sách, tuyên bố sẽ giúp Ấn Độ trở thành cường quốc trong thế kỷ 21.
      Về Giáo dục, chính phủ Ấn Độ muốn nâng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông học tiếp lên đại học từ mức 12% hiện nay lên 30% vào năm 2025 – ngang bằng với nhiều nước phương Tây. Hệ thống đại học sẽ được mở rộng để đáp ứng nguyện vọng của tầng lớp trung lưu ngày một đông đảo, mở rộng diện tiếp cận, và trở thành một “cường quốc tri thức”. Năm ngoái, theo một số báo cáo, có tới 50 đại học nước ngoài muốn được mở trường tại Ấn Độ. Tình hình càng nhộn nhịp hơn trong chuyến thăm của tổng thống Mỹ Barack Obama cùng phái đoàn gồm hiệu trưởng các trường đại học Mỹ. Ngân sách trung ương đầu tư cho giáo dục trong kế hoạch 5 năm (2010-2015) lớn gấp 9 lần giai đoạn 5 năm trước đó. Không giống như Singapore và Trung Quốc, chính phủ Ấn Độ không muốn ưu đãi các trường nước ngoài bằng cách cung cấp tiền công hay cấp những khu đất lớn.
      Với những lợi thế hiện nay, Ấn Độ đang có những quan hệ phát triển mật thiết hơn với các nước BRICS và mở rộng hơn nữa vai trò của mình trên thế giới. Là một người cổ vũ chủ nghĩa dân tộc theo Ấn giáo - thường được coi như mối đe dọa rõ rệt nhất cho nền tự do dân chủ của nước này - ông Modi có thoát ly được mục tiêu cơ bản của BJP là hạ thấp địa vị xã hội của các nhóm thiểu số tôn giáo để tạo nên một hình ảnh thích hợp hơn cho một nước Ấn Độ đang trỗi dậy nhanh chóng để trở thành một cường quốc trên thế giới?
(trích đăng từ Kiến thức ngày nay No.861, tác giả: Huỳnh Ngọc Phiên)