Friday, August 1, 2014

Kỷ niệm về rau muối Hungari- Emlékem a magyar libaparéjrol

Rau muối là kỷ niệm một thời đi sơ tán của tôi. Vào khoảng từ lớp 4 đến lớp 7, tôi ở Hồng Châu (Hòn Ngọc Hồng), còn gọi là Bãi Tự Nhiên, một hòn đảo nhỏ giữa Sông Hồng nơi các cụ Chử Đồng Tử và Tiên Dung gặp nhau. Bãi Tự Nhiên đẹp tuyệt, mênh mông cát trắng và phù sa. Chúng tôi đi học trong làng bên kia sông, cách bãi một nhánh sông khô về mùa cạn, về mùa nước lại thành một con sông. Cho đến bây giờ, gần 50 năm trôi qua, tôi vẫn nằm mơ thấy mình trở về Bãi Tự Nhiên, mênh mông sóng nước và cát trắng. Trên bãi cát lẫn phù sa, có những vạt khoai lang, các bạn đã chỉ cho tôi những ngọn rau muối.

Một lần mẹ đi dạy về muộn. Đến bữa, tôi chạy ra đồng bãi hái những ngọn rau lang, và cũng hái được một ít rau muối. Tôi thử nấu một nồi canh, nếm thử thấy ngon tuyệt. Từ bữa đó, ở đâu thấy rau muối tôi cũng hái về. Rau muối, lá nhọn như mũi giáo, xanh nhạt, cuống rau có sắc tím, trên mặt lá có một lớp tinh thể trắng, long lanh như muối, có lẽ vì thế mà thành tên. Vì màu xanh nhạt và lá hình mũi giáo, rau muối rất dễ lẫn với rau khúc, một thứ rau, nhỏ thấp hơn, thường để làm bánh khúc, nhưng ăn như là rau thì không có vị gì. Rau muối khá hiếm, nên rất quý và phải mất công mới đủ một nồi rau.

    Tôi nhớ lần đầu tiên tôi đi dạo với Magdi vào lúc xâm xẩm tối. Mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn, nền trời ngả màu tím sẫm. Không khí nguội dần và mát rượi, nhưng vẫn tràn đầy một hương vị gì đó rất ấm áp. Chiều mùa hè Hungari nồng nàn và đẹp tuyệt. Chúng tôi đi giữa đồng bao la. Thỉnh thoảng có những lùm cây phong hoặc bạch dương. Mãi sau này tôi mới biết tên tiếng Việt của cây nyirfa và nyárfa như thế. Thành ngữ tiếng Hung có câu "Sziszeg mint a nyirfa" dịch là "xào xạc như cây phong". Đặc biệt nhất là hương vị của không khí của những chiều mùa hè Hungari không thể nào quên.

     Gió thổi, tóc chúng tôi bay trong gió. Nàng chỉ nói tôi đi theo nàng, tôi cũng không biết sẽ đi đâu. Chưa bao giờ tôi đi dạo riêng với một người con gái nào. Ý nghĩ đó làm tôi lúng túng, mất chủ động, bởi vì không biết phải làm gì và nói gì. Vì thế tôi thành thói quen im lặng mỗi khi đi với Magdi. Cũng không có gì thực sự lãng mạn như tôi tưởng tượng, khi chỉ có một cặp nam nữ một mình giữa đồng bao la như vậy, không hề nắm tay hay khoác vai gì. Tôi cũng thấy hơi kỳ quái, có vẻ thiếu khí phách nam nhi và có thể ảnh hưởng tới quốc thể.

Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy rau muối. Cơ man là rau muối, mọc trùng trùng điệp điệp. Rau muối Hungari mọc dày, cây cao lá mơn mởn, trông rất ngon lành. Kỷ niệm về Hồng Châu, về mẹ và em gái tôi và những buổi chiều hè sơ tán chợt tràn về. Tôi quỳ xuống vuốt ve những ngọn rau muối thân thương của thời thơ ấu. Tôi hỏi Magdi "Em có biết cây gì đây không". Tôi muốn kể cho nàng nghe về thời sơ tán, bãi cát phù sa và những bát canh đơn sơ mà tôi nấu từ cây rau nhặt ngoài đồng này. Magdi như đang theo đuổi một ý nghĩ riêng nào đó của mình, lơ đãng đáp "Em không biết. Thường gọi là cỏ thôi." Tôi thầm nghĩ, có lẽ có những điều tôi sẽ không bao giờ chia sẻ được với nàng.

Trên đường về, chúng tôi ghé vào một trại nuôi ngựa. Magdi nói chuyện rất sôi nổi với một ông già nuôi ngựa (có lẽ không già lắm, nhưng đối với tôi thời đó là già). Ông ta say mê nhìn nàng, dạy nàng cách cưỡi ngựa, và dắt hẳn một con ngựa lực lưỡng để nàng cưỡi. Nàng cười khanh khách, vui vẻ. Ông già lăng xăng dắt ngựa. Sau đó ông ta cao hứng lôi một vò rượu ra mời chúng tôi uống. Rượu lê Hungari, rất mạnh và thơm ngát, làm chúng tôi thấy nóng rực và vui vẻ. Trên đường về, tôi nói với Magdi "Ông già này có những phong cách trẻ trung." Magdi ranh mãnh cười "Ông ấy đang yêu mà."   
Tôi lại chìm trong suy nghĩ về rau muối, không nhớ là đã chia tay như thế nào với nàng.

Cũng lạ là sau đó, suốt thời gian ở Hungari, tôi không bao giờ thử ăn rau muối Hungari. Mặc dù, tôi, Khánh và Bình "to" nhiều lần vào thung lũng lạnh hái nấm về ăn, nấu đủ món. Mãi sau này khi sang Nga, tôi mới hái rau muối dọc triền sông Volga về nấu ăn, rất ngon. Rau muối ở Nga cũng mọc dày đặc như ở Hung. Đó là thời Andropov cầm quyền, kinh tế Liên Xô bắt đầu có dấu hiệu đi xuống, trong các cửa hàng không có bất cứ loại rau gì. Khi đi hái rau muối về, gặp mấy cô gái Nga, các cô hỏi các anh hái về làm gì, tôi nói là cho thỏ ăn, các cô thật thà xúm vào hái giúp.

    Tôi chưa bao giờ biết người Hung và người Nga biết ăn rau muối. Nhưng tra cứu một lúc thì thấy không phải vậy. Người Hung vốn có biết ăn rau muối mà còn biết dược tính của nó. Tên tiếng Hung là rau chân ngỗng, cùng họ với paraj, paréj, spenót,... tiếng Việt Nam có thể là rau dền, rau chân vịt. Nhưng có lẽ đời sống hiện đại làm họ quên mất món rau này.

    Tôi rất tiến cử cho các bạn, đặc biệt là các bạn đang ở Hungari, nên thử món rau này. Rất ngon và rất đặc sắc, hơn rất nhiều loại rau mà chúng ta thường ăn. Chính vì loại rau này không bao giờ bày bán ở cửa hàng, nên biết được hương vị của nó là một món quà trời cho, không nên bỏ lỡ cơ hội, nếu có dịp được thưởng thức.

Libatop

Kevesen tudják, hogy néhány, ma gyomnak tekintett libatop kitűnő levélzöldség, többen pedig a népgyógyászat régi gyógynövényei.
Libatopok
A libatopfélék családjába tartozó (Chenopodiaceate) kétéves növény.  A libatopfélék közé mintegy 1500 faj tartozik. Leegyszerűsödött virágaik szélporozták. Toktermésük gomoly-terméságazatban fejlődik. Sós talajokat viselő, sztyeppe és félsivatagos körülmények között élő fajai közül sokan pozsgásak. Számos takarmány- és főzeléknövény található közöttük.fehér libatop
A nálunk is honos libatopok népi elnevezése a levél alakjára utaló libatalpból származik. Angol neve is hasonló jelentésű (goosefoot). A libatopok régi zöldségnövényei voltak a magyar konyhának, amíg a spenót ki nem szorította őket, és mára már gyomnövénnyé degradálódtak. A fehér libatop (Chenopodium album) és a paraj libatop (Chenopodium bonus-henricus) levelei virágzás előtt gyűjthetők étkezési céllal. Régebb házikertekben termesztették, nem csak étkezési céllal:  Péppé zúzott levelét gyulladáscsökkentő borogatásként használták, és a disznóknak is remek takarmányul szolgált.seprőfű
A gyomtársulásokban is gyakori vesszős seprőfű (Kochia scoparia) nevére utal, hogy ágai vesszősek, levelei lándzsásak. Dr. Zelenyák János, letéri plébános, “A gyógynövények hatása és használata” című, 1908-ban megjelent  könyvében így ír:Hajtásait levágva udvarseprésre előszeretettel használták.  A népgyógyászatban ülőfürdőhöz adva rühösséget kezeltek vele.  Manapság a dekorációs és térformáló egynyáriak közé tartozik. Nem a virágaiért ültetjük, hanem azért, mert gyors fejlődésű, és nagy  zöldtömeget ad.bárányfarkú libatop
A plébános több libatopot is említ, melyeket a népgyógyászat alkalmazott. Ilyenek többek közt a büdös libatop (Chenopodium vulvaria), amelyet fejfájás, gyomorgörcs, “hysterikus és más görcsöknél, kimaradt havibaj” esetén használtak. A sok népi elnevezése közül a most bárányfarkú libatopnak említett Chenopodium Botrys már kellemesebb illatú, főzetét édesgyökérrel együtt hurutoldónak, “vérköpés” ellen ajánlja, valamint külsőleg olajban főzve hasgörcs elleni borogatásként írja hatásosnak.


3 comments:

  1. Một kỷ niệm đẹp của thời thơ ấu và của Tình Yêu. Nhưng nó chưa thật trọn vẹn vì AV đã ko chia sẻ với Magdi về kỷ niệm rau muối ở Hồng Châu, kể cho nàng nghe về bãi cát bồi này, về truyền thuyết Tiên Dung và Chử Đồng tử... như vậy sẽ hay hơn và cũng hòa nhập được với chuyện của nàng hơn. Nhưng hai người này tới nay vẫn là một cặp "đẹp đôi" (dù AV có vẻ "giữ thể diện" và "tư cách" ,may mà ko nặng nề như tôi với Kati) và có được nhiều kỷ niệm rất đáng nhớ. Udv.!

    ReplyDelete
  2. Về hưu AV viết truyện và hồi ký dễ là best-seller lắm đấy.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Chắc sẽ kiếm bộn tiền và nổi danh nữa, mình sẽ vẽ minh họa cho sách của AV :)

      Delete