GIA ĐÌNH THẾ NÀO XÃ HỘI THẾ ẤY
Lời Đức LÉO XIII
Dân gian có câu: Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Thế còn bố nó đâu?
Thời bây giờ thì bố cháu chắc ở quán nhậu, chủ yếu tán láo với chúng bạn là chính.
Nên cái câu: Con hơn cha là nhà có phúc ngày trước nay chả mấy ai nói nữa...
′′ I actually learned about where I live from a Chinese chef. When I was working in Sanghaj, Hilton, during a dinner I showed on the map where I was born, where is Hungary, the Dunakanyar and Vác. After dinner, one of my favorite Chinese colleagues called me and said: do you know where you live? Here is a west-east river (the Danube) that has turned north-south in Dunakanyar. In addition, it is surrounded by two mountains (Börzsöny and Pilis), so according to the Chinese perception it is an energy field. The changing river gives life, the mountains give protection, and behind the mountain lives the dragon, who protects it. Believe it or not, but it is certain that I feel at home ever since." / László Mihályi, pastry chef /
Bài hỏi đáp rất hay về việc nhịn ăn thanh lọc cơ thể, mình đọc được từ một nhóm FB khác, xin chép lại chia sẻ vào đây.
#sk_duongsinh #sk_detox #sk_phongbenh
Tịch Cốc thế nào
Thích Vạn Hạnh pháp sư
Hỏi: một số người chúng tôi muốn tịch cốc, có người nói ba ngày đầu nên uống nước táo ép, nước rau ép và sữa đậu nành; mỗi ngày tắm nước lạnh ít nhất hai lần, lúc tắm vỗ liên tục lên da thịt, tuyệt đối không dùng sản phẩm tắm gội hoá học nào. Một số lại nói không được ngủ. Còn một số khác lại nói không được đánh răng, bởi vì kem đánh răng là chất hoá học v.v. Nhiều ý kiến quá. Chúng tôi không biết cách tịch cốc như nào là khoa học nhất, hữu hiệu nhất, nên mới đến thỉnh giáo thượng sư.
Sư: thời gian tịch cốc muốn tắm cứ tắm, nhưng không được dùng sản phẩm tắm gội hoá học, dùng nước ấm mà tắm. Bời vì thời gian tịch cốc lỗ chân lông mở to, chất hoá học dễ dàng thâm nhập cơ thể. Sau ba ngày tịch cốc thì có thể khôi phục bình thường. Có thể đánh răng được, kem đánh răng loại không có tác dụng phụ. Đừng nghĩ tịch cốc thì là chịu đói, tịch cốc và chịu đói hoàn toàn khác nhau. Tịch cốc giúp đạt được thân nhẹ như én, tai thính mắt sáng, ta nên thoải mái hưởng thụ nó.
Thời gian tịch cốc, uống càng nhiều nước đun sôi càng tốt, phơi nắng nhiều, mỗi ngày tối thiểu một giờ. Tại phương nam, thời điểm này đang là tiết mùa xuân, nên phơi nắng trước 10 giờ sáng và sau 4 giờ chiều. Vào các mùa khác nhau, thời gian phơi nắng khác nhau. Mùa hạ thì trước 9 giờ sáng và sau 5 giờ chiều. Mùa đông có thể tắm nắng vào chính ngọ. Thời gian tịch cốc, lỗ chân lông mở to, khi tắm nắng, năng lượng sẽ thâm nhập cơ thể, có thể bổ xung rất nhiều canxi cho cơ thể. Nhưng nếu quá mạnh thì ánh sáng mặt trời sẽ độc, sẽ thương hại đến cơ thể, điều này thì tự bản thân ta cảm nhận. Phơi nắng quan trọng phải để nắng chiếu vào lưng vì lưng thuộc dương. Thời kỳ tịch cốc, vẫn phải hoạt động hoặc vận động thích đáng, để thân thể ra một ít mồ hôi. Sau khi đổ mồ hôi, nếu cảm thấy mệt mỏi, nên đi ngủ ngay, chỉ cần buông lỏng đi ngủ, cơ thể ngay lập tức tự động tiếp thu được năng lượng tự nhiên. Buổi trưa cũng nên nghỉ ngơi như thường.
Hỏi: Đến ngày thứ tư lúc đói, lúc không; lúc có khí lực, lúc không có. Điều này là tại sao?
Sư: Bởi vì năng lượng thức ăn đã hết, năng lượng tiềm tàng trong cơ thể lúc khởi lên, lúc trầm xuống. Chỉ cần giữ tâm bình thản, không vì toàn thân thiếu lực mà lập tức lo lắng sợ hãi. Để bổ sung năng lượng hậu thiên, năng lượng tiên thiên tự nhiên sẽ sinh ra để công tác. Nếu như tố chất tâm lý của bạn không tốt, khi đói lập tức ăn uống này nọ, bổ sung dinh dưỡng, thì năng lượng tiên thiên vừa mới thức dậy lại một lần nữa chìm vào giấc ngủ, không xuất ra để làm công tác thay thế nữa.
Hỏi: Làm thế nào để năng lượng tiên thiên xuất ra?
Sư: Chỉ khi không ăn uống gì cả, không bổ sung năng lượng hậu thiên, đến ngày thứ tư, năng lượng tiên thiên sẽ có cơ hội dần dần thức tỉnh, bắt đầu công tác. Tôi mỗi năm đều có một tháng không ăn gì cả. Có một vài bằng hữu thậm chí không ăn ba tháng. Cái này xét về mặt khoa học là không có ý nghĩa. Thực tế, lúc này lỗ chân lông trên cơ thể mở ra, cùng với không khí bên ngoài tiến hành giao lưu, trao đổi, trực tiếp tạo ra năng lượng.
Hỏi: Chúng tôi không làm được phải không?
Sư: Tịch ba tháng, phải đạt được lỗ chân lông cùng với đại tự nhiên trực tiếp thông hành. Cơ thể chúng ta như một bình tích điện, một người bình thường tích điện ba quý để cung cấp cho ba tháng thì không vấn đề gì. Động vật có thể ngủ đông ba tháng, con người chúng ta cũng có thể ba tháng không ăn gì. Lý luận nói trên chính là trường hợp này. Nhưng do tố chất tâm lý người thường không qua khỏi ngưỡng cửa nên không làm được. Trong tình huống bình thường, mươi ngày nửa tháng cũng không vấn đề gì, chỉ cần sạc đủ “điện” rồi xuất ra để dùng. Ngày thứ bẩy đổ về trước, năng lượng tiên thiên vẫn chưa hoàn toàn thức tỉnh, chưa có để xuất ra dùng, tiêu hao năng lượng hiện tại chỉ là ở dinh dưỡng hiện có, đó là năng lượng do ngũ cốc tạp lương sinh ra. Ngày thứ bẩy về sau mới điều động được năng lượng tiên thiên.
Hỏi: Tịch cốc bao nhiêu ngày thì thích hợp?
Sư: Mỗi lần tịch cốc tối thiểu phải là một tuần, bởi vì tế bào cơ thể chúng ta cứ chu kì bẩy ngày là thay thế một lần.
Hỏi: Trong thời gian tịch cốc, chúng ta tiêu hao nguồn năng lượng gì?
Sư: Như vừa nói ở trên, cơ thể con người chúng ta giống như cái bình tích điện, ăn cơm giống như sạc điện, một năm có tứ quý, ba quý đầu không ngừng nhồi nhét thực phẩm vào, đủ cho cơ thể chúng ta sung túc điện, để khi đông đến không cần phải nạp nữa, rút điện nguồn ra dùng - tránh dùng ngũ cốc tạp lương. Giống như một số động vật, ngay khi lập đông là bắt đầu ngủ đông, dùng hẳn ba quý tồn trữ năng lượng để dùng, cái “bình điện” này luôn luôn được dùng để tích và phóng điện. Tuy nhiên, bình điện của người thường được sạc trong nhiều thập niên, mà chưa bao giờ xả hết điện, chưa từng thải độc, bởi vậy tế bào lão hoá rất nhanh. Nhưng tịch cốc thì tương tự với việc để tế bào của ta thay đổi một lượt từ trong đến ngoài. Vì thế, trong thời gian tịch cốc, cho dù ta có ở trong phòng, không ra ngoài, không vận động, khi đi tắm vẫn có cáu bẩn, đó là do thay đổi tế bào rơi ra.
Hỏi: Tại sao người lớn tuổi lúc tịch cốc hay bị nôn?
Sư: Loại nôn mửa này không phải là phản ứng bài độc, mà là kết quả của năng lượng xung kích vào các viêm nhiễm tiên thiên cũng như hậu thiên bên trong thân thể. Khi ta tịch cốc, âm khí giáng xuống, dương khí thăng lên. Dương khí một khi mạnh lên sẽ vận hành, khi vận hành thì sẽ xung kích các viêm nhiễm mắc phải, tạo thành hiện tượng hoa mắt chóng mặt và nôn mửa. Một số người trong thời gian tịch cốc mồ hôi tiết ra có mùi đặc biệt lạ, nước tiểu cũng đặc biệt khó ngửi. Tại sao lúc ăn cơm không có hiện tượng này? Đó là vì trong thời kỳ tịch cốc, cơ thể con người bài độc.
Hỏi: Trẻ em có cần tịch cốc không?
Sư: Trước mười hai tuổi không cần. Bởi vì nó vẫn chưa hình thành một “bình điện” hoàn chỉnh, không tồn tại vấn đề sạc điện và phóng điện. Sau 12 tuổi có thể thực hành được. Thời gian tịch cốc, bất kỳ phản ứng nào của cơ thể cũng là bình thường, đều là quá trình cơ thể tự điều chỉnh, tự thích hợp. Thân thể buông lỏng, không căng thẳng, tốc độ thích hợp sẽ nhanh, dao động trong quá trình thích hợp sẽ nhỏ. Tâm lí căng thẳng tương đương với việc làm cho cơ thể gia tăng trở lực, phản ứng sẽ mạnh mẽ hơn, tốc độ thích hợp sẽ chậm hơn. Vì vậy, lượng nước uống trong thời gian tịch cốc tăng gấp đôi bình thường, uống càng nhiều càng tốt, muốn uống bao nhiêu thì uống. Nhưng nhất định phải uống nước sôi. Nước sôi là nước được nấu chín, thuộc dương. Nước chưa đun sôi thuộc âm, uống vào dễ bị phong thấp, để lại nhưng tai hoạ không nhìn thấy được.
Hỏi: mỗi năm nên tịch cốc bao nhiêu lần? Thời gian nào là tốt nhất?
Sư: Mỗi năm tốt nhất một lần. Theo thông lệ, mùa đông tịch cốc tốt nhất. Bởi vì lập đông, dương khí của trái đất bắt đầu đi xuống, vạn vật bắt đầu nội liễm. Lúc này, bắt đầu tịch cốc là thích hợp nhất, có thể tịch một mạch đến lập xuân năm sau. Bởi vì ngày lập xuân, dương khí bắt đầu đi lên, vạn vật bắt đầu hồi tỉnh. Vì vậy, Đả Thiền Thất của các chùa miếu thời cổ đều lấy lập đông để bắt đầu, và đến ngày lập xuân thì kết thúc. Tịch cốc cũng cần phải đồng bộ với đại tự nhiên (thiên nhiên) để có được hiệu quả tốt. Hai ngày đầu, tốt nhất nên tịch cốc trên núi, uống nước suối trên núi. Nếu tịch cốc thường xuyên, thì tập quán này cũng không có vấn đề gì cả.
Thời kỳ tịch cốc, tốt nhất là không ăn bất cứ thứ gì. Nếu tố chất tâm lý không vượt qua được quan ải, hàng ngày vào 9 giờ sáng, ta có thể ăn một quả. Bởi vì sau thời điểm này, tì vị khai mở, dễ dàng hấp thu dinh dưỡng trong thức ăn. Nhưng phải luôn ăn đồ ăn dương tính, là những thứ mọc trên mặt đất được ánh sáng mặt trời chiếu vào; không được ăn những thứ âm tính thuộc rễ, tỉ như khoai lang, khoai sọ v.v. Bởi vì trong thời gian tịch cốc, dương khí của ta được triệt để đánh thức 100%. Trong quá khứ, con người tịch cốc để kết nối với thiên nhiên, với vũ trụ, nhằm gia tăng công lực bản thân, khắc kì thủ chứng. Nói một cách khác, tịch cốc là một giai đoạn tăng cường trong quá trình tu hành. Tỉ như tu đến một giai đoạn nhất định thì sẽ khai đỉnh, nếu như tịch cốc có thể đạt được 100% hiệu quả mong đợi. Bởi vì thông qua tịch cốc, toàn bộ âm khí trong cơ thể tiêu tan, trở thành khí thuần dương, lại phối hợp với niệm chú ngữ [hōng] (trong Om Mani Padme Hum), “hōng địa nhất hạ linh thể tựu xuất khứ liễu”, thì không thể nào khí âm không xuất ra. Đây cũng là cái lý của tuyệt chiêu khai đỉnh của Phật môn.
Hỏi: thận hư thì dương khí bất túc, phải không ạ?
Sư: Chính nó, cứ tịch cốc tốt đi. Khi mà âm khí trong cơ thể người ta quá nặng, kể cả uống thuốc, thuốc cũng không đến được bộ vị bị bệnh. Sau khi tịch cốc, dương khí đầy đủ, sẽ lập tức đẩy nó (âm khí - ND)đi. Nhân lúc dương khí hư, âm khí sẽ trầm tụ lại, khi tụ lại sẽ gây ung thư. Cho dù là bệnh này hay bệnh khác đều do nguyên nhân này cả. Chẳng hạn như bệnh gan có thể thông qua tịch cốc, rồi phối hợp với dùng thuốc để điều trị. Tịch cốc có thể giúp tăng cường sức xuyên thấu của dược tính, tăng đại tác dụng lực của dược tính, làm cho nó trở nên tốt hơn. Ung thư chính xác do âm khí trong cơ thể tụ tập lại với nhau, dương khí không đủ, không thể đẩy được, vì thế âm khí mới tụ lại sản sinh bệnh tật. Khi tịch cốc, dương khí đủ thì sẽ đẩy. Âm khí tụ tập sẽ bị đẩy tan, tự nhiên sẽ khoẻ lên. Lý luận này với những những điều nói ở trên cùng một dạng. Tuy nhiên, do có rất nhiều người tố chất tâm lý yếu kém, khi những vấn đề như thế này xảy ra, họ không dám sử dụng phương thức điều trị bằng tịch cốc. Họ cơ bản cho rằng khi bệnh tật thì cơ thể suy nhược, cần phải gia tăng dinh dưỡng cho tương xứng. Đây là một quan niệm sai lầm. Càng bị bệnh càng không được ăn uống quá nhiều. Vì dương khí trong cơ thể bất túc nên không vận chuyển và tiêu hoá thức ăn được. Thay vào đó, âm khí hội tụ nặng lên, bệnh tình theo đó cũng nặng lên. Vì thế, càng ốm càng nên không ăn hoặc ăn ít đi để nhường cho dương khí sinh sản và phát huy tốt hơn, tấn công vào những chỗ viêm nhiễm. Bổ thận dương có thể uống trà cẩu kỳ tử, uống buổi sáng hấp thu sẽ tốt hơn.
Trong thời gian tịch cốc, có thể cảm thấy tâm hoảng, tai ù, nhiệt độ trên mặt cao hơn bình thường một chút, đi lại cảm thấy hơi phiêu. Điều này hoàn toàn bình thường. Đó là phản ứng của việc phục hồi dương khí. Dương khí đi lên trên, âm khí đi xuống dưới. Vì vậy, người âm khí nặng bước đi “huỳnh huỵch”, người dương khí mạnh bước đi rất thanh thoát.
Dạ dày chúng ta nhu động, mỗi khi nhu động thì sản sinh ma sát. Khi trong dạ đay có thức ăn thì thức ăn sẽ được ma sát; sau một thời gian dài không ăn, dạ dày chẳng có gì, thành bên trong dạ dày sẽ ma sát vào nhau. Vì vậy, ba ngày đầu tịch cốc, cần phải làm cho bên trong dạ dày sung mãn không khí. Làm thế này là để cho dạ dày không cảm thấy đau do tự ma sát sinh ra. Sau ba ngày, thành bên trong dạ dày tự động sản sinh một lớp niêm mạc rất dày, giống như thuốc bôi trơn, làm cho ma sát không còn là vấn để nữa. Ba ngày đầu, vấn đề ma sát dạ dày có thể thông qua “thực khí pháp” (ăn không khí) để giải quyết. Phương pháp là mở miệng ra nhưng không hít khí, sau đó ngậm miệng lại một cách tự nhiên, nuốt “ực” một tiếng xuống, bên trong dạ dày có không khí lập tức căng lên. Nếu có thế kiên trì phép này một thời gian, công năng dạ dày sẽ trở nên tốt hơn. Bởi vì niêm mạc dạ dày dày lên, dịch vị nhiều lên, nên dạ dày cũng khoẻ lên. Tịch cốc là phương pháp hữu hiệu nhất để tăng cường công năng của ruột, dạ dày và thận. Khởi đầu, một ngày “ăn khí” đúng ba lần. Bởi vì thần kinh dạ dày có chức năng ghi nhớ, hàng ngày sáng trưa tối đến giờ dùng bữa là nó nhớ đến ăn. Nếu không ăn đúng giờ thì một hai tiếng sau dạ dày sẽ sôi “ùng ục, ùng ục”, để nhắc ta phải đi ăn. Nói chung, nó (dạ dày) có thể đợi đến hai tiếng, nếu tiếp tục không được ăn thì nó sẽ phản kháng. Vì vậy, khi nó phản kháng, ta ăn không khí. Kết quả của ăn vài miếng này như nào bạn tự cảm nhận. Ăn khí thời quan trọng là nuốt khí xuống, làm thế này để không bị nấc cụt, nếu không lưu tại lồng ngực sẽ bị nấc cụt.
Hỏi: sau khi kết thúc tịch cốc, nên hay không nên bỏ bữa tối?
Sư: Có thể ăn một chút gì đó thanh đạm, húp chút cháo cũng được. Cơ bản thân thể ta buổi tối nên nghỉ ngơi, không nên ăn quá nhiều thứ để bắt nó phải làm việc. Thời gian khoẻ nhất cho năng lực làm việc của cơ thể là trước ngọ. Sau ngọ, nó bắt đầu giảm nhược, hạ xuống dần dần. Giảm đến giờ mão sáng sớm ngày hôm sau thì bắt đầu thăng lên, thăng đến khoảng 9-10 giờ sáng là đạt trạng thái vượng thịnh nhất. Lúc này, ăn gì cũng dễ tiêu hoá, hấp thu và chuyển hoá. Công năng của dạ dày vào giờ tị đạt đỉnh cao nhất, vào giờ tí hạ xuống thấp nhất. Vì thế tự viện ăn sáng vào lúc sáu giờ sáng, bởi vì năm đến bảy giờ sáng là thời điểm vượng thịnh nhất của tì vị. Ăn bất cứ thứ gì đều có thể tiêu hoá và hấp thu trăm phần trăm. Qua khoảng thời gian này, hiệu quả sẽ kém đi. Đây chính là đạo lí của Trung Quốc, được giảng giải rõ ràng trong sách “Hoàng Đế Nội Kinh”.
Hỏi: thời gian tịch cốc có phải tốt nhất là không nên làm gì phải không?
Sư: Không, phải làm thậm chí làm nhiều hơn. Chúng ta sạc điện một giờ là để rút ra khỏi nguồn điện và sau đó dùng lượng điện sạc này. Một năm sạc ba quý để rồi sang quý thứ tư sử dụng. Thời gian tịch cốc mỗi ngày tối thiểu toạ thiền hai tiếng.
Hỏi: Không toạ được thì phải làm gì?
Sư: Có thể chia ra mà toạ, mỗi lần toạ thiền nửa tiếng, phải để bản thân triệt để buông lỏng, mệt mỏi thì dùng tư thế cát tường ngoạ thiền giống như tư thế nằm ngủ (nằm nghiêng bên phải, thân như hình cung)
Hỏi: Nếu ta tịch cốc bảy ngày, sang đến ngày thứ tám bắt đầu ăn, lúc này nên ăn gì? Cần lưu ý gì?
Sư: Lúc mới ăn thì nên ăn đồ ăn lỏng, dễ tiêu hoá, tỉ như cháo, táo, chuối v.v. Táo là dễ tiêu hoá nhất. Nó có đặc điểm là ăn hôm nay thì hôm nay sẽ bài xuất ra ngoài cơ thể, không lưu đọng tích tụ tại tràng vị. Tốt hơn hết không ăn đồ chiên rán, nhiều mỡ, có hàm lượng mỡ cao. Nên ăn ít nhưng nhiều bữa, lúc đầu chỉ ăn no 50% thôi, mỗi ngày có thể ăn năm, sáu bữa. Một số người mươi ngày nửa tháng không ăn, đột nhiên ăn rất no, tràng vị sẽ bị co rút. Nếu như tràng vị co rút, đặt lỏng hai tay lên bụng dưới, bàn tay trái áp lên bàn tay phải thuận chiều kim đồng hồ mát xa thì sẽ hết. Sau ba ngày có thể khôi phục chế độ ăn uống bình thường. Những người tịch cốc nhiều lần, tố chất tâm lý đã vượt qua mọi trở ngại, ngay khi tịch cốc xong có thể lập tức quay lại chế độ ăn uống bình thường. Tịch cốc lần đầu còn có vẻ lo lắng, lần thứ hai sẽ mạnh dạn hơn, tâm lý cũng thoải mái hơn.
Mỗi cá nhân đều có thời gian sinh lý thích hợp với tịch cốc của riêng mình, không nhất định phải vào mùa đông. Nó giống như sạc điện thoại di động, có cái sạc một giờ thì đầy, có cái ba giờ, có cái tám giờ mới có thể đầy. Theo lý thuyết của cá nhân tôi, mỗi năm vào tháng sáu nông lịch, khoảng trước sau ba ngày, tôi tự động không ăn. Nếu phải ra ngoài làm việc, tôi cũng chỉ ăn một chút chút. Qua tháng này, khẩu vị lại khai mở. Thời gian bế quan của tôi hàng năm là vào tháng sáu âm, rất chính xác. Hiện tại không phải bế quan, nhưng một khi đến tháng sáu thì tự động không ăn, hoặc giả ăn cực ít.
Hỏi: Lý do gì mà rất nhiều người khi tịch cốc đòi hỏi phải có được hoàn cảnh tốt, nếu không chỉ nghỉ ngơi, không làm gì cả?
Sư: Đây là một loại tâm lý sợ hãi, cho rằng không ăn uống gì mà lại làm việc sẽ tiêu hao nguyên khí nhiều hơn. Cách nghĩ này hoàn toàn sai. Thời gian tịch cốc không cần phải đình chỉ công tác, thậm chí vẫn thông qua hoạt động hoặc vận động thích hợp, dương khí tồn trữ cùng với chức năng sinh lý tiên thiên sẽ được đánh thức, kích hoạt. Vì vậy, hàng ngày nên có lượng vận động thích hợp cho đến khi toát được chút mồ hôi. Tố chất tâm lý tốt có thể đi leo núi, nhưng không được xuất nhiều mồ hôi, chỉ có thể đến độ cảm giác quần áo hơi ẩm một chút. Đối với kẻ tu hành thời cổ, thời gian tịch cốc chính là lúc công lực lớn mạnh.
Hỏi: Có một loại phương thức Bế Hắc Quan là giam mình trong phòng kín, không ăn cũng không động, loại này là gì?
Sư: Bế Hắc Quan không phải là để kích hoạt hay đánh thức năng lượng ngủ say hay chức năng sinh lý, mà để khai thiên nhãn.
Hỏi: Liệu có phải tốt hơn hết không nên tịch cốc vào mùa hạ? Vì kể cả không vận động cũng vẫn xuất mồ hôi.
Sư: Đại bộ phận người ta đều tịch cốc trước sau lập đông. Một bộ phận nhỏ người chưa đến lập đông điện đã sạc đầy, lúc này cũng có thể tịch.
Hỏi: Thời gian tịch cốc cảm thấy lạnh, tại sao lại thế?
Sư: Thế có nghĩa là dương khí cơ thể bạn vẫn chưa thức tỉnh. Người bình thường không ăn cơ thể lập tức không có nhiệt lượng. Khi dương khí chưa thức tỉnh, ta sẽ cảm thấy lạnh. Không ăn chính là để dương khí của cơ thể thức tỉnh, khi thức tỉnh thì tự nhiên không lạnh nữa. Cho dù cơ thể có phản ứng gì đi chăng nữa, hãy thả lỏng hoàn toàn, hãy coi nó là hiện tượng bình thường tất yếu xảy ra. Hơn nữa, cần phải tin tưởng không chút nghi ngờ vào bản thân mình, hãy tin rằng: bàn thân ta chính là một bình tích điện, đã được sạc nhiều tháng rồi, hiện tại không cần phải sạc nữa, cần phải xả điện, sử dụng chỗ điện đã được sạc đầy. Khi tiếp thu quan niệm này bằng tâm, ta sẽ không còn tư tưởng sai lầm coi tịch cốc là suy dinh dưỡng và hủy hoại thân thể nữa.
Bình thường ăn càng nhiều càng no, càng dễ buồn ngủ. Ăn những thứ giã không kỹ, thanh đạm, chỉ ăn no khoảng 60%, tuyệt đối sẽ không buồn ngủ. Nhược bằng ăn no hoàn toàn, nhất định sẽ buồn ngủ. Bởi vì chúng ta ăn thức ăn vào để sản sinh năng lượng, mười phần thì tối thiểu phải dùng ba phần để hỗ trợ vận chuyển và tiêu hoá thức ăn, hấp thu dinh dưỡng, vì thế thực chất chỉ thu hoạch được bẩy phần. Bởi thế, ăn càng nhiều thì càng no, càng nặng gánh. Nếu như trà thô cơm nhạt rất nhanh hấp thu tiêu hoá, không cần phải quá nhiều năng lượng hỗ trợ cho tiêu hoá và hấp thu.
Tại thời kỳ tịch cốc, hệ thống miễn dịch của ta dễ được kích thích đầy đủ nhất. Cảm mạo là do hệ thống miễn dịch bị rối loạn, dẫn tới miễn dịch lực bị hạ thấp. Tịch cốc không chỉ có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch mà còn có thể khôi phục nó lại bình thường. Tịch cốc đến ngày thứ tư, nước bọt bắt đầu tăng nhiều. Nếu là người có công lực nhất định, nước bọt sẽ đặc biệt nhiều. Nước bọt nhiều biểu thị thận thuỷ sung túc, tinh lực sung mãn. Người bình thường khó có thể tiết nước bọt. Người xưa, để giữ cho trẻ lâu, thường nghĩ đến phương pháp kích hoạt tiết nước bọt, dùng đầu lưỡi khuấy bên trong miệng, nước bọt sẽ tiết ra nhiều. Nếu thân thể khỏe mạnh, không cần phải khuấy đầu lưỡi. Nhấc nửa sau của đầu lưỡi lên chạm đỉnh (không cần phải cuộn lưỡi), nước bọt sẽ tự nhiên sinh. Dùng nước bọt để tiêu viêm, sát khuẩn là tốt nhất. Hầu hết mọi người đều biết rắn rất độc, cắn người một phát là có thể trúng độc, thậm chí tử vong. Trên thực tế, nếu con người chúng ta cắn con rắn một cái rồi nhổ nước bọt lên chỗ ta cắn con rắn, con rắn sẽ bị ta giết chết. Nước bọt của con người chúng ta thậm chí còn hơn cả rắn xét về độ độc. Ở nông thôn, người ta nếu bị muỗi đốt, họ đều lấy nước bọt xoa xát lên là hết. Thời nhỏ, tôi bị rách tay, không có thuốc tiêu viêm, cũng dùng nước bọt bôi lên miệng vết thương rồi xoa đi xoa lại để tiêu viêm. Nhưng nếu như miệng khô mà miễn cưỡng bắt nó phải tiết nước bọt ra thì hiệu quả không tốt. Chỉ có nước bọt tự động sản sinh ra mới đạt được hiệu quả tiêu viêm sát khuẩn 100%. Nước bọt trẻ em đa phần là do tuyến thượng thận tiết ra nên tốt. Người già, nước bọt ít dần đi. Đây cũng là tiêu chí để nhận biết chức năng thận suy thoái.
Phàm những người bị viêm họng đều là do tuyến thượng thận tiết ra không đủ, cổ họng thiếu nước bọt trong một thời gian dài, nên nó không được sát khuẩn. Nếu như thận thuỷ đủ thì sẽ không tồn tại vấn đề này. Thận thuỷ sung túc, mọi chứng viêm đều khỏi.
Hỏi: Bình thường chúng ta nên hay không nên nuốt nhiều nước bọt?
Sư: Đúng. Nước bọt nhiều, thanh âm của anh sẽ trong, nhuận, không bị tình trạng tê liệt hay khàn giọng. Người tu hành tốt thanh âm tuyệt đối không bị khàn. Người thận thuỷ túc giọng nói, thanh âm nhất định trong sáng, hồn hậu.
Hỏi: Mỗi lần tôi đến một nơi có không khí không tốt, cổ họng liền thấy khó chịu và có đờm. Nhưng tại những nơi không khí tốt thì không bị phản ứng này. Có vẻ như cổ họng tôi là một loại máy kiểm trắc khí dùng để đo độ trong lành của không khí ở từng địa phương. Mọi người nói do tôi bị viêm họng. Cái này so với cái thầy nói ở trên có cùng một dạng không?
Sư: Không phải viêm họng, do cơ thể anh tự bảo vệ.
Hỏi: Việc dễ bị viêm đường hô hấp nói trên cùng với bệnh viêm phế quản là như thế nào?
Sư: Đều do thận thuỷ bất túc. Thận thủy bất túc hãy dùng phương pháp vừa nói ở trên, đặt đầu lưỡi lên đỉnh thượng ngạc, tuyến thượng thận sẽ tiết nhiều hơn, nước bọt sẽ sản sinh, nuốt nước bọt này xuống sẽ đạt được hiệu quả tiêu viêm.
Hỏi: Khu vực Nhân Trung có phải điểm liên kết hai mạch Nhâm Đốc không?
Sư: Điểm liên kết hai mạch Nhâm Đốc tại Sơn Căn nằm trên mũi. Phàm những kẻ công thành danh tựu hoặc là tinh lực sung mãn, sơn căn nhất định phải thẳng tắp kết nối, ở giữa không có vết trũng xuống hay đứt đoạn. Ở giữa đứt hay hõm xuống nghĩa là Nhâm Đốc hai mạch không kết nối tốt, hoặc là ống nối này không thông sướng, lưu thông năng lượng bị trở ngại.
Hỏi: Đối với những người sự nghiệp thành công, Sơn Căn liệu có rộng rãi hơn không?
Sư: Không nhất định là người có sự nghiệp thành công, mà người tinh lực sung mãn cũng vậy. Nếu anh muốn làm Sơn Căn dày lên, dùng ý niệm dẫn Đốc mạch đi xuống để cho năng lượng nói ở trên đi xuống, tị căn sẽ tự nhiên dày lên. Người bình thường năng lượng xuống đến Mi Tiêm (đỉnh lông mày) thì không thể xuống tiếp được nữa. Giống như tiếp điểm của hai ống trên và dưới không giống nhau, nên nước ở trên không thể chảy xuống được. Thông qua thiền định, có thể kéo năng lượng ở trên xuống kết nối với năng lượng bên dưới.
Hỏi: Toạ thiền có yêu cầu phương hướng không?
Sư: Chỗ nào thông gió, có thể quay về hướng dương (hướng mặt trời, hướng nam).
Hỏi: Có nên bắt đầu luyện công?
Sư: Có thể luyện. Thời gian tịch cốc, bởi vì dương khí đủ, thời gian ngủ tự nhiên giảm thiểu. Khoảng hai, ba giờ sáng là có thể thức dậy, dậy rồi thì có thể đả toạ. Mỗi ngày có thể đả toạ ba, bốn lần. Sau khi ngồi bắt chéo chân, khí sinh lý trầm xuống, cơ thể sẽ giống như cái bình phun khí, khí được bơm vào sẽ bốc lên bên trong cơ thể, phía trên lên đến đỉnh đầu, phía dưới xuống đến lòng bàn chân, vươn tới thần kinh ngoại vi của cơ thể. Do đó hoàn thành quá trình trao đổi tế bào của cơ thể. Quá trình suy lão của người toạ thiền rất chậm, bởi vì số lần thay đổi tế bào nhiều hơn người thường.
Hỏi: Tại giao hiện nay có nhiều thiên tai nhân hoạ như thế này?
Sư: Bởi vì địa cầu cần phải điều chỉnh cho hoà hợp, cần phải trường tồn. Con người chúng ta cũng một dạng, muốn sống lâu thì phải tu luyện và phục hồi bản thân mình. Với tư cách là con người sống trên trái đất này, chúng ta phải tu hành, nhưng chúng ta không làm theo; thiên tai sinh ra để nhắc nhở chúng ta tu hành.
Hỏi: Có cần phải ghi nhớ hoặc bắt buộc tịch cốc không?
Sư: Không cần, không ăn thì cơ thể tự nhiên sẽ tịch cốc. Chỉ khi thân thể ốm đau, để trị bệnh, mới phải bắt buộc tịch cốc để đánh thức năng lượng tiên thiên.
Hỏi: Có phải hồng trà thì bổ dương khí?
Sư: Đúng, có tác dụng ôn bổ.
Phan Anh Sơn
Rạp xiếc và Quốc hội
-----------------------
- Sự khác nhau giữa rạp xiếc và Quốc hội là gì?
- ???
- Trong rạp xiếc, những người thông minh diễn trò lố bịch, còn trong Quốc hội, những người lố bịch
diễn trò thông minh.
Cirkusz és Parlament
-----------------------
- Mi a különbség a cirkusz és a Parlament között?
- ???
- A cirkuszban okos emberek hülyéskednek, a Parlamentben meg hülye
emberek okoskodnak.
Nguyễn Ngô Việt (DEBRECEN.vidi73)
CON HỔ CỦA ĐÔNG DƯƠNG!
Người Pháp nói: "Được rồi, chúng tôi sẽ tạo lập thể chế mới là Liên Hiệp Pháp". Ông Hồ không có lựa chọn nhưng vẫn cố đàm phán, rồi nhanh chóng nhận ra đó là trò bịp.
Ngày nào ông ấy cũng nói chuyện với tôi và cánh nhà báo. "Các anh biết Pháp đề nghị gì trong quan hệ kiểu mới không? "À, chúng tôi (Pháp) là nước nhiều kinh nghiệm nhất, nên sẽ lo về ngoại giao. Chúng tôi hùng mạnh nhất, nên sẽ lo cả về quốc phòng. Rồi cả kinh tế, hải quan và di dân nữa...""
Ông Hồ nói: "Không ổn rồi, chiến tranh sẽ sớm bùng nổ."
Tôi hỏi: "Ngài sẽ đánh thế nào với quân đội Pháp hiện đại?"
Ông Hồ: "Chúng tôi có một vũ khí bí mật, đó là CHỦ NGHĨA DÂN TỘC". Tôi cười khúc khích khi nghe vậy.
Ông Hồ: "Chẳng phù hợp tí nào khi NGƯỜI MỸ CƯỜI CỢT về việc này. Các anh lập quốc dựa trên tinh thần yêu nước. Chủ nghĩa quốc gia của các anh là một động lực vĩ đại. Và đừng hỏi tôi sẽ đánh Pháp thế nào. Tôi đã thấy trong sách lịch sử của các anh những bức tranh về các nhóm du kích khốn khổ dưới sự dẫn dắt của tướng Washington. Họ thậm chí còn chẳng có giày. Tôi thấy những bộ quần áo tả tơi dính máu. Và các anh tự hào về những thứ tả tơi dính máu đó. Sao giờ anh lại nói tôi không thể làm điều đó?"
"Tôi không có ý xúc phạm ngài, thưa Hồ Chủ tịch. Nhưng đó là thế kỷ 18 rồi. Giờ là thế kỷ 20 và vũ khí mạnh hơn rất nhiều."
Ông Hồ: "Hãy nhớ lời tôi. Giữa thế kỷ 20, con người khao khát tự do thậm chí còn hơn cả vào thế kỷ 18. Và sự khát khao tự do mạnh hơn vũ khí. Đừng quên điều đó."
Ông Hồ tiếp tục: "Để tôi nói cho anh cuộc chiến sẽ thế nào. Đó là cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu con hổ của Đông Dương bị tóm bởi con voi của Pháp ngoài đồng trống, nó sẽ bị ngà voi mạnh mẽ xuyên thủng và bị giẫm nát. Nhưng hổ không thể bị tóm, vì chúng tôi sẽ ẩn trong rừng vào ban ngày, khẽ khàng ra ngoài vào ban đêm, nhảy lên lưng voi và khoét ra từng miếng thịt lớn, rồi từ từ con voi sẽ mất máu, kiệt sức quỵ xuống trên những cánh đồng của chúng tôi."
Đó là chuyện vào tháng 8/1946 (tại Pháp). Nhiều bạn có thể còn nhớ bài báo của tôi về hổ và voi (vào thời điểm đó), một dự báo về cuộc chiến. Và nó đã được đánh đúng như vậy.
______________
(Trích dịch từ nguyên tác "Vietnam. How did we get in? How can we get out" của nhà báo kỳ cựu David Schoenbrun. David làm phim này sau khi gặp lại Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1967. Đoạn văn trong phim được thượng nghị sĩ Fulbright trích dẫn tại thượng viện Mỹ vào tháng 3/1968, sau Tết Mậu Thân. Đến lúc này, chính giới Mỹ mới cố tìm hiểu mọi nguồn xem họ đang chiến đấu với ai mà kiên cường đến vậy.)
Tôi Yêu Việt Nam
Tôi xin gửi những dòng này đến vong linh của anh, 1 người chân chính đã khuất, Đại ca đích thực của tôi!
Đường đời muôn nẻo ko thể đi hết, người trải nghiệm cả niềm vui, nỗi buồn và đau khổ mới thật sự sống trong trần thế.
Luôn trung thực theo con đường của mình, tận lực với những điều đúng đắn và toàn tâm với sự lựa chọn của mình.
Thế là đủ!
Cảnh sát cưỡi ngựa
--------------
Buổi sáng Nô-en, viên cảnh sát cưỡi ngựa phụ trách khu vực ngã rẽ.
Phát hiện thấy một cậu bé đang đi một chiếc xe đạp mới toanh bóng loáng, viên cảnh sát nói với cậu ta:
- Cháu có chiếc xe đạp mới đẹp thế! Không phải Ông già Nô-en tặng cháu đấy chứ?
- Nhưng mà đúng thế đấy! – cậu bé trả lời.
- Thế thì lần sau hãy nói với Ông già Nô-en là hãy tặng cả đèn theo xe nữa nhé!
- viên cảnh sát nói và đưa cho cậu bé một thẻ phạt.
Cậu bé vừa đạp xe đi vừa nói với lại:
- Chú có con ngựa đẹp thế, Không phải Ông già Nô-en tặng chú đấy chứ?
- Nhưng mà đúng thế đấy! – viên cảnh sát cũng đùa lại – tất nhiên là Ông già Nô-en rồi.
- Thế thì chú nói với Ông già Nô-en là lần sau nếu tặng cho chú ngựa thì nhớ để c*c ngựa dưới bụng, đừng để trên lưng ngựa nhé!
Lovasrendőr
--------------
Karácsony reggelén a lovasrendőr figyeli az útkereszteződést.
Észrevesz egy kisfiút, aki egy vadonatúj, csillogó biciklivel
kerekezik. Odaszól neki:
- Szép új bringád van! Csak nem a Mikulás hozta?
- De igen! - így a fiúcska.
- Na akkor jövőre mondd meg a Mikulásnak, hogy lámpát is hozzon rá!
- mondja a rendőr, és átad egy bűntetőcédulát.
A fiú elmenőben még visszaszól:
- Szép lovad van, csak nem neked is a Mikulás hozta?
- De igen - veszi a rendőr a tréfát - persze hogy az.
- Na akkor mondd meg a Mikulásnak, ha jövőre is lovat hoz neked, akkor
a faszt a ló alá tegye, ne föléje!
Trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội đầu thế kỷ 20
Trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội là một trong những trường trung học nổi tiếng nhất ở Đông Dương, Trường được thành lập năm 1919, giải thể năm 1965. Đây là nơi nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Đông Dương từng học.
Năm 1902, chính quyền thực dân Pháp đã cho thành lập trường Paul Bert (Collège Paul Bert) tại Hà Nội để đào tạo bậc trung học bán phần cho con các quan chức Pháp tại Đông Dương, đồng thời các con quan chức cao cấp người Việt làm cho Pháp, nhằm đào tạo đội ngũ kế tiếp làm việc cho Pháp tại Đông Dương. Trường sở được đặt tại Boulevard Rollandes, nay là Trường Trung học Phổ thông Trần Phú – Hoàn Kiếm.
Lúc đầu trường chỉ có các lớp trung học đệ nhất cấp (classes du 1er cycle), từ năm 1912 mới bắt đầu có các lớp trung học đệ nhị cấp (classes du 2e cycle), với 143 học sinh, trong đó có 2 người Trung Hoa và 1 người Nhật.
Năm 1913, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut đã ra quyết định nâng bậc trường Paul Bert từ Collège lên bậc Lycée để thành lập một trường trung học toàn phần như các trường ở chính quốc với đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học tại Hà Nội, là trường Albert Sarraut. Trường có nhiệm vụ thu nhận học sinh người Pháp và cả học sinh là con em các quan chức cao cấp người Việt Nam, người Miên, người Lào.
Mặc dù gặp khó khăn do Thế chiến I (1914 – 1918), năm 1914 công trình vẫn được khởi công trên một khuôn viên rộng, vuông vắn, nằm trước Phủ Toàn Quyền, tiếp giáp với đại lộ Cộng Hòa (Avenue de la République) sau đổi là Honoré Tissot, nay là phố Hoàng Văn Thụ, đại lộ Brière de l’Isle nay là phố Hùng Vương, đại lộ Carnot nay là phố Phan Đình Phùng, và phố Destenay nay là phố Nguyễn Cảnh Chân; cổng chính nhìn ra đại lộ Cộng Hòa. Công trình do kiến trúc sư Adolphe Bussy thiết kế gồm khu trường chính (khu học đường, khu hiệu bộ, khu nội trú – y tế) và khu giáo dục thể chất, hoạt động thể dục thể thao. Khu học đường và khu hiệu bộ đều nằm trong 2 dãy nhà cao 2 – 3 tầng được xây song song với đại lộ Cộng Hòa; giữa 2 dãy nhà này là 2 sân chơi ngoài trời rộng, ngăn cách bởi một giàn cây hình vòm xanh mát, giữa có treo chiếc chuông để đánh báo giờ. Giáp đầu ngoài 2 sân có 2 nhà chơi khá lớn kèm hàng chục phòng tắm có gương sen. Khu nội trú – y tế nằm trong dãy nhà thứ 3 ở phía sau dãy thứ 2, các hành lang có mái che lợp ngói nối liền 2 dãy nhà này với nhau. Một cổng phụ mở ra trên phố Destenay đón học sinh đến học hàng ngày, đồng thời cho phép thầy trò dễ dàng đi sang khu giáo dục thể chất. Khoảng năm 1948 mở thêm một cổng phụ nữa nhìn ra đại lộ Brière de l’Isle. Khu giáo dục thể chất gồm sân quần vợt, sân bóng đá, sân bóng rổ, sân bóng chuyền, khu điền kinh (hố cát để tập nhảy cao, nhảy xa, xà đơn, xà kép, xà lệch…), ngăn cách với khu trường chính bởi phố Destenay. (Từ năm 1954 khu này đã được dùng để xây trụ sở Ban Tuyên Giáo trung ương còn khu trường chính được dùng làm trụ sở Trung ương Đảng CS Việt Nam).
Sau 4 năm công trình được hoàn thành và ngày 1 – 1 – 1919 trường trung học Hà Nội (Lycée de Hanoi) ra đời. Trường gồm 2 phân hiệu, phân hiệu I chỉ mở các lớp trên được đặt ở đây, phân hiệu II chỉ mở các lớp dưới nằm ở đại lộ Rollandes. Để phân biệt, phân hiệu II được gọi là Petit Lycée (trường Trung học Nhỏ), còn phân hiệu I được gọi là Grand Lycée (trường Trung học Lớn). Năm 1923, phân hiệu I được xây bổ sung mặt tiền chính (façade principale) và được đặt tên là trường Trung học An-be Sa-rô (Lycée Albert Sarraut) để tỏ lòng tri ân Toàn quyền An-be Sa-rô, người đã ra quyết định xây dựng trường trước đây, còn phân hiệu II lấy lại tên là trường Paul Bert như trước. Trường An-be Sa-rô được tổ chức và giảng dạy giống như một lycée ở Pháp, lực lượng giảng dạy gồm các giáo sư cử nhân (professeur licencié) và các giáo sư thạc sĩ (professeur agrégé), trang thiết bị đầy đủ gồm các phòng thí nghiệm kèm bên cạnh các phòng học bộ môn cho các môn khoa học thực nghiệm Lý Hóa Sinh, các phòng học vẽ, học nhạc, một thư viện riêng cho các giáo sư và một thư viện cho học sinh với đầy đủ các sách giáo khoa và các sách tham khảo cho tất cả các bộ môn, học sinh có thể ký quỹ thuê sách ở thư viện để học, các phòng học đều đúng tiêu chuẩn, rộng rãi, sáng sủa.
Năm học đầu tiên (1924 – 25), trường đã thu nhận 800 học sinh, có cả học sinh Miên, Lào và 370 học sinh Việt Nam. Kể từ năm học sau (1925 – 26), với ông Autigeon làm Quyền Hiệu trưởng, trường hạn chế nhận học sinh Việt Nam nên chỉ có 510 học sinh trong đó có 210 học sinh VN, phần lớn học sinh VN vào học ở trường Bảo Hộ (Lycée du Protectorat) được thành lập năm 1924, sau này trở thành trường THPT Chu văn An. Cao điểm nhất là năm 1940, trường có tới 1405 học sinh.
Năm 1943, trường bị ném bom, phải sơ tán khỏi Hà Nội. Phần lớn nhà trường, đứng đầu là hiệu trưởng Loubet, sơ tán đến Tam Đảo, một bộ phận nhỏ ghép với trường Paul Bert, cùng hiệu trưởng Silhou, sơ tán vào Sầm Sơn. Một số học sinh chạy vào Đà Lạt, xin học tiếp ở trường trung học Yersin. Sau đảo chính 9 – 3 – 1945, trường tạm ngừng hoạt động.
Ngày 4 – 2 – 1947, dưới sự điều hành của bà Raspail, trước đây là hiệu trưởng Trường Con Gái Pháp (Collège des Jeunes Filles Francaises), trường Albert Sarraut mở cửa trở lại đón 700 học sinh, tạm thời ở địa điểm của Trường Con Gái phố Félix Faure, nay là phố Trần Phú, bởi một phần trường sở cũ bị hư hại do chiến tranh, cần có kinh phí và thời gian để sửa chữa. Tháng 9 – 1948 trường trở về địa điểm cũ và liên tục phát triển, đến niên khóa 1953 – 54, số học sinh lên tới 2400.
Sau hiệp định Genève năm 1954, chính phủ Pháp ký với chính phủ Việt Nam một Thỏa ước văn hóa (7 – 4 – 1955), theo đó trường trung học Albert Sarraut được tiếp tục hoạt động trong 10 năm nữa song phải dời về địa điểm của trường Paul Bert ở phố Rollandes (nay là phố Hai bà Trưng) trước đây và trở thành một trường tư thục do Tổ chức Lương Hội Pháp (Mission laique francaise) mở, giảng dạy theo chương trình 10 năm của Việt Nam, bằng tiếng Việt Nam, trừ môn Toán, tiếng Pháp chỉ là ngoại ngữ chính, được học từ cấp I; học sinh không phải đóng học phí. Năm học 1955 – 1956 trường bắt đầu hoạt động theo quy chế mới như trên với 590 học sinh. Số học sinh cao nhất là vào năm học 1959 – 60 (1420 học sinh), năm học cuối cùng 1964 – 65 có 966 học sinh. Sau năm học này, trường trung học Albert Sarraut Hanoi chính thức ngừng hoạt động hẳn.
Sau 46 năm tồn tại và hoạt động (1919 – 1965), trường trung học Albert Sarraut Hanoi đã đào tạo hàng chục ngàn học sinh, trong đó có hàng ngàn học sinh Việt Nam, nhiều người nổi tiếng như đại tướng Võ Nguyên Giáp, thủ tướng Phạm Văn Đồng, học giả Hoàng Xuân Hãn, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, nhà thơ Phạm Huy Thông (tốt nghiệp Tú tài Triết học năm 1934), nhà triết học Trần Đức Thảo (tốt nghiệp Tú tài Triết học năm 1935). Có người như Phạm Duy Khiêm học giỏi, được học bổng sang Pháp, đã thi đỗ vào trường danh tiếng bậc nhất của Pháp là trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm (Ecole Normale Supérieure rue d’Ulm), tốt nghiệp năm 1931…Một số học sinh Lào đã từng học ở trường An-be Sa-rô, về sau cũng rất nổi tiếng như hoàng thân Xu-va-na Phu-ma, hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Các cựu học sinh An-be Sa-rô kể trên, với các cống hiến to lớn của mình, xứng đáng là những tấm gương sáng cho các thế hệ thanh niên noi theo. Nhiều thế hệ học sinh An-be Sa-rô sau này ở Việt Nam cũng đã nêu cao tinh thần yêu nước, tích cực tham gia 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; nhiều học sinh của trường những năm học sau 1954 đang hăng hái tham gia vào công cuộc Đổi Mới, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Nguyễn Minh Vũ – Cựu học sinh chuyên khoa (1951 – 54).
Nếu bạn có thể thở vào thở ra và bước đi với tinh thần “đã về – đã tới – bây giờ – ở đây” thì bạn sẽ thấy mình vững chãi và tự do hơn ngay lập tức.
Bạn đã đứng vững được trong hiện tại, ngay tại địa chỉ chính thức của bạn. Không có gì thúc đẩy khiến bạn phải chạy hoặc sợ hãi. Bạn được giải phóng khỏi những lo âu quá khứ. Bạn cũng sẽ không còn bị bế tắc, nghĩ tới những gì chưa xảy ra và những gì bạn không kiểm soát được.
Bạn được tự do, không còn mặc cảm phạm lỗi thời quá khứ và cũng không lo lắng về tương lai nữa.
Chỉ khi có tự do người ta mới có hạnh phúc. Số lượng hạnh phúc bạn có tùy thuộc vào số lượng tự do mà bạn có trong tâm.
(Sư Ông Làng Mai - Thiền sư Nhất Hạnh)
Chánh niệm mỗi ngày - Ít thôi, nhưng đều đặn
#côngphumỗingày #ThiềnBócLịch2021
"Con không đi cái xe đấy đâu, xấu hổ lắm, bạn bè con toàn đi xe ga, mẹ mua xe ga con mới đi….”
Câu chuyện của hai mẹ con cự nự nhau sau lưng trong quán cafe trưa nay làm tôi bất giác có một chút buồn, nhưng rồi lại chợt cảm thấy ấm lên một niềm vui khi nghĩ về một câu chuyện tương tự của bố con tôi hơn 10 năm về trước.
"Bố cho con cái gì?" - Nhớ một thời “trẻ trâu”, tôi đã có đủ dũng cảm hỏi cha mình câu đó, lần đầu tiên và cũng là duy nhất. Đó là một ngày không lâu sau khi nhận tin đỗ vào đại học. Một cuộc trò chuyện rất nghiêm túc và thẳng thắn giữa hai người đàn ông.
Bố tôi trả lời một cách không thể bình thản hơn "Bố mẹ bố cho bố cái gì, bố sẽ cho lại con cái đó: Một lý lịch trong sạch để con không bao giờ phải xấu hổ về bố và một sự giáo dục tốt nhất trong khả năng của mình. Con có khả năng học đến đâu bố sẽ hỗ trợ đến đó. Hết".
Bố tôi phân định rất rõ ràng: "Đây là nhà của bố nhé, đây là xe của bố nhé. Và con đang... ở nhờ và đi nhờ. Không hài lòng hả, quyền đi bộ... luôn thuộc về con".
Nếu nhờ tôi giúp việc gì không nằm trong trách nhiệm của con cái, thay vì thuê người ngoài, bố sẽ thuê tôi làm và trả tiền rất sòng phẳng, không quên thể hiện là một khách hàng khó tính. Không tự ái, không phiền lòng, tôi biết rõ mình chỉ có một con đường nếu muốn có ngôi nhà riêng của mình: Tự mua. Cũng có người nghe thấy và thắc mắc cái kiểu nói ấy: "Nhà của bác thì sau này không của nó thì của ai, sao bác lại nói thế...". Và bố tôi chỉnh ngay: "Của tôi chứ, nếu nó không cố gắng, tôi sẽ cho từ thiện". Bố tôi thì chẳng giàu như Bill Gates, nhưng dám làm như Bill Gates thì tôi tin là làm thật.
Bữa ăn ít người của nhà tôi luôn có những câu chuyện về các loài vật, những câu chuyện được lặp đi lặp lại, được kể lúc này lúc khác.
Bố hay nói chuyện: Con gà con đến tuổi tự kiếm ăn, gà mẹ sẽ đuổi chạy chí chết nếu gà con cố đến gần hoặc đi theo. Hay câu chuyện về loài đại bàng: Đại bàng con sẽ được mẹ nuôi mớm trong tổ đến khi đủ lông đủ cánh, và sau đó nó sẽ cắp con bay lên đỉnh núi thật cao và thả xuống. Con nào chịu đập cánh vào không trung và bay đi thì sống và bắt đầu cuộc đời mới, con nào không tự bay được thì sẽ tự rớt xuống và vực thẳm sẽ chờ ở dưới. Quy luật tự nhiên là vậy, và con người là một phần của tự nhiên, nên cũng không là ngoại lệ. Mùi răn đe trong những câu chuyện thơm nức suốt những năm tháng tuổi thơ tôi.
Rất nhiều lúc tôi đã tự hỏi mình “Vậy sau cùng, bố sẽ cho mình cái gì nhỉ?”
Và mười năm sau cuộc nói chuyện sòng phẳng đấy, vào lúc tôi tự mua được căn nhà và chiếc xe hơi đầu tiên của riêng mình mà chẳng phải xin xỏ gì bố, tôi mới thấu hiểu hết tình thương vô bờ bến và gia tài vô giá mà bố đã để dành cho riêng tôi mấy chục năm nay.
Cho con lòng tự trọng và tinh thần tự lực đã là cho tất cả rồi.
Tin Matniem (Những câu chuyện thú vị)
Sex khi về già
---------------------
Bác sĩ khám sức khỏe cho một bác cao tuổi:
- Thật đáng mừng là bác rất khỏe mạnh, không bệnh tật gì cả. Bác có cần hỏi gì không?
- Có, thưa bác sĩ. Khi ngủ với vợ, tôi cảm thấy rất nóng và toát mồ hôi, và khi chúng tôi làm lại chuyện đó thì tôi lại bị lạnh run cả người.
Bác sĩ cũng khám sức khỏe cho bác gái, bác gái cũng khoẻ mạnh. Bác sĩ kể cho bác gái nghe vấn đề kỳ lạ của bác trai, nghe vậy bác gái trả lời thế này:
- ÔI, ông già lẩm cẩm! Sở dĩ như vậy là lần đầu xảy ra vào tháng 7 và lần thứ hai vào tháng 12!
Idős korban a szex
---------------------
Egy idős bácsit vizsgál az orvos:
- Maga kitűnő egészségnek örvend, semmi baja sincs. Van valami
kérdése?
- Van, doktor úr. Amikor lefekszem a feleségemmel, nagyon melegem van és
izzadok, és amikor megismételjük a dolgot, akkor meg fázom és ráz a
hideg.
Az orvos a feleséget is megvizsgálja, ő is egészséges. Elmeséli neki,
hogy a férjének milyen furcsa problémája van, erre a néni így felel:
- Ó, a vén bolond! Hát ez azért van, mert az első alkalom júliusban
van, a második meg decemberben!
Nguyễn Ngô Việt (DEBRECEN.vidi73)
Là mở mắt dậy, thấy mình vẫn sống, vẫn có cơ hội để tiếp tục đam mê đang theo đuổi.
Là thấy những người thân yêu vẫn bình an, khỏe mạnh.
Là người mình thương vẫn nắm tay và mỉm cười ấm áp.
Là bữa cơm gia đình quây quần cùng bên nhau, một cuộc sống thật bình thường, thật nhẹ nhàng, không phải bon chen hay ganh đua với đời.
Là khi mỏi mệt ở đời vẫn có vòng tay dang rộng đón ta vào lòng và an ủi "Không sao, mọi chuyện sẽ ổn cả thôi mà!".
Là được ăn món mình thèm, lấy người mình thương, đến nơi mình muốn và sống theo đam mê.
Là bản thân thực sự dứt bỏ được những khúc mắc trong lòng bấy lâu.
Đơn giản là được ở một mình và tận hưởng trọn vẹn khoảng không tĩnh lặng đó.
Bình yên của những người xa quê là bắt kịp chuyến tàu xe về nhà ăn Tết...
Bình yên của Cha Mẹ là nhìn thấy con cái mình ngày một khôn lớn trưởng thành, hạnh phúc...
Bình yên của thầy cô là nhìn thấy những thành công của đứa học trò nhỏ mình dìu dắt năm nào.
Bình yên của những-người đang yêu là được cùng người mình thương làm những điều nhỏ bé mà ấm áp.
Bình yên của những người cô đơn là những khoảng trống tĩnh lặng, là niềm hi vọng tìm được một người tâm sự, chở che.
Bình yên của mình chỉ đơn giản là nhìn thấy Mẹ mạnh khoẻ, và con cái trưởng thành cùng người mình thương bên nhau hạnh phúc và đôi khi tụ tập lũ bạn nói vài ba câu chuyện vô tư.
Ai cũng có trong mình một khoảng trời bình yên, là động lực, cũng là hi vọng cho những điều tốt đẹp hơn...
Vậy, bình yên của bạn là gì…?
THC – 2021.
CÔNG THỨC TOÁN HỌC TÍNH GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Nhà toán học vĩ đại người Irắc, Muhammad Ibn Musa Al-Khwarizmi được xếp thứ 10 trong 19 nhà toán học vĩ đại nhất thế giới.Ông là người sáng tạo môn đại số, nhân tài lỗi lạc của toán học Ả rập, nămsinh/mất khoảng năm 780/khoảng năm 850, cách nay gần 1200 năm. Điều thú vị là ông đã lập ra công thức tính toán GIÁ TRỊ của một người như sau:
Nền tảng con người là đạo đức. Nếu có đạo đức thì giá trị của bạn là 1.
Nếu cũng thông minh, thêm một số 0 và giá trị của bạn là 10.
Nếu cũng giàu có, thêm một số 0 nữa và giá trị của bạn là 100.
Nếu trên tất cả bạn lại còn xinh đẹp, lại thêm một số 0 và giá trị tổng của bạn là 1000.
Nhưng nếu bạn không có đạo đức, nghĩa là bị mất số 1, thì giá trị của bạn chỉ còn là con số 0.
Nghĩa là bạn đã mất tất cả các giá trị. Và giá trị con người bạn lúc này chỉ bằng 0 !
Nguyễn Minh st
Halló! Xin hỏi nhổ răng chỗ anh bao nhiêu tiền mỗi chiếc?
- Bảy nghìn forint.
- Có thể rẻ hơn được không?
- Ừ…ưm, bốn nghìn nếu không dùng thuốc tê.
- Đắt quá. Có phương án nào rẻ hơn không?
- Nếu thay cho bác sỹ, một bác sỹ thực tập nhổ thì chỉ hai nghìn.
- Tuyệt vời! Tôi xin đăng ký trước cho mẹ vợ tôi vào sang thứ hai nhé.
-----------
Halló! mennyibe kerül Önöknél egy foghúzás?
- Hétezer forint.
- Nem lehetne olcsóbban?
- Hát, érzéstelenítés nélkül négyezer.
- Túl drága. Megoldható olcsóbban?
- Ha a doktor úr helyett az egyik gyakorló orvos csinálja, akkor csak kétezer.
- Nagyszerű! Szeretném, ha előjegyeznék az anyósomat hétfőre.
Nguyễn Ngô Việt (DEBRECEN.vidi73)
Đỗ Bá Khang: Đây là lớp dự bị ở Budaorsi, chụp với thầy Osváth Gábor. Bạn nào thấy mình trong đó lên tiếng để tìm cách liên lạc nhau nhé.
TIẾNG VIỆT NGÀY NAY RẤT LẠ
Một lần chờ xe buýt , tôi có dịp trò chuyện với một người rất trẻ , ăn mặc lịch sự , tóc hớt ngắn , đeo kính trắng nhìn có vẻ trí thức , áo chemise trắng , tay manchette thắt cravats sọc careau thanh nhã ...
Bà già và Anh chàng này lại đi cùng tuyến đường , lên xe ngồi cạnh nhau .
Qua giới thiệu tôi được biết anh này là sinh viên vừa tốt nghiệp khoa ngữ văn trường Đại học nhân văn , hiện anh được giữ lại trường làm trợ giảng cho các buổi dạy sinh viên ... Chắc chưa tới 25 tuổi
Tôi cũng tự giới thiệu mình là giáo viên đã về hưu gần 10 năm , lụm cụm nhưng có nhiều thắc mắc muốn hỏi , mà không biết hỏi ai , may mắn gặp được anh bạn trẻ này , tôi liền xin được trò chuyện , anh chàng rất nhiệt tình và lễ phép , tôi bắt đầu thẩm vấn :
__ Con ơi , cô thấy tiếng Việt ngày xưa phong phú và cách ghép từ theo luật quy định , có phương pháp rõ ràng, sao tiếng Việt bây giờ nó nghèo nàn và thô thiển quá . Thằng nhỏ mắt sáng lên, nhanh nhẹn
__ Cô nêu ví dụ cụ thể đi cô ! Nếu con biết con sẽ giải thích cho cô rõ
__ Cô rất vui , cám ơn con ... Tôi mạnh dạn đặt câu hỏi :
__ Ngày xưa cô có :
+ Từ thịnh soạn , linh đình ... Để nói về một bữa ăn , bữa tiệc ...
+ Từ tráng lệ , nguy Nga ... Để nói về ngôi nhà hay biệt thự đẹp .
+ Từ lộng lẫy , sang trọng ... Để nói về cách ăn mặc , những đồ vật , xe cộ ...
__ Ngày nay người ta chỉ xài có một từ :
" HOÀNH TRÁNG " thí dụ :
+ Bữa tiệc |[
+Biệt thự |[. Hoành tráng
+ Cái xe hơi |[
Là xong , không phải chọn lựa từ cho thích hợp ... Như vậy có phải làm cho tiếng Việt mình ngày càng nghèo nàn , thô thiển không ???
Mà Hoành tráng là cái gì ??? Từ này không có trong tự điển tiếng Việt
Thằng nhỏ còn chưa kịp trả lời , bà già tui bồi thêm :
Cô xem trên Tivi những game show , các giám khảo nghe và bình luận về giọng ca của thí sinh nào đó , họ nói :
___ Giọng ca đẹp ... Cô rất khó chịu vì giọng ca mà đẹp là sao ??? Họ lặp đi lặp lại nhiều lần , mà nhiều giám khảo sử dụng từ đẹp cho một giọng ca ... Là sao ??? Thay vì nói một giọng ca truyền cảm , giọng ca trầm ấm , giọng ca du dương , hay trong trẻo ...
Thêm một chưởng nữa bà già tui tiếp luôn :
Vẫn là xướng ngôn viên trên Tivi đọc tin tức họ nói :
nào là đinh tặc , cát tặc , lâm tặc , hải tặc , không tặc , cáp tặc ... Chó tặc ... Họ đọc một cách hồn nhiên ... Cô nghe mà ... Muốn khóc cho tiếng Việt thời nay ....
Những từ như " động não , manh động , trẻ em hòa nhập ... Được nghe rất bình thường ...
Cô đồng ý là từ ngữ có ngày sinh , nó xuất hiện theo thời ... Và nó cũng có ngày mất do người ta quên không sử dụng nữa thì nó mất do không còn thấy xuất hiện nữa ...
Thằng nhỏ ngồi nghe mà không nói được câu nào , nó nhìn bà già tui có vẻ gì khó hiểu , một lúc sau nó mới mở lời :
__ Cô ơi , để con về trao đổi lại với Thầy con ... Mong hôm khác gặp lại cô ...
Xe dừng , không biết là nơi thằng nhỏ muốn đến , hay nó ngại ngồi nghe bà già chất vấn ...
Cuối cùng , Thằng nhỏ xuống xe và đi như trốn chạy ! Tội nghiệp quá ! Thiệt tình thì bà già rất muốn biết tại sao Tiếng Việt ngày nay trở nên nghèo nàn như vậy thôi ... vì không ai nhìn thấy hay do người ta luôn bị cuốn hút vào đời sống Công nghệ thông tin rồi quên mất ...
Học trò của Bà Già tới nhà thăm cô , Bà Già tui làm bánh cho tụi nó ăn , vừa ăn , nó vừa xít xoa :
__ Bánh cô làm hơi bị ngon !
__ Ngon mà sao bị ??? Học ở đâu ra ??
Bà già tui bắt đầu giảng cho nghe một bài ... Tụi nó mở mắt nhìn mà không nói , chắc là do thói quen ...
Thế nhưng ... Có lẽ mình đã hết thời rồi , sắp lên núi mà cứ muốn ở !
NB Pham
Duy trì tình trạng perfect/hoàn hảo, sung mãn cả tinh thần và thể chất là điều bình thường nhưng nay đã trở thành khó khăn cho thấy cuộc sống ko dễ dàng chút nào!
A delicious Hungarian bar snack, zsíroskenyér is an open-faced sandwich slathered with lard, rings of sliced onion, and a hint of paprika. Conveniently, it pairs really well with draft beer and it's also wallet friendly (I paid €1 for this one). A few places also serve a VIP version made with Mangalitsa lard.
When the hunger for zsíroskenyér arises, I usually go to Grinzingi, an old-school, unfussy neighborhood joint in downtown Budapest.
(Offbeat Budapest)
1983. Siófok: Az üdülő 1981. március 13- án nyitott. A büfé blokk egy évvel később. Ez a fotó 1983--ban készült (Erika Horvath)
Ảnh: Szocializmus hagyatéka
LÚC TRẺ VÀ BÂY GIỜ
1. Lúc trẻ, tưởng đóng đinh thì đóng đinh, không thích thì là có thể nhổ, bây giờ cảm nhận được đinh có thể nhổ nhưng vết sâu vẫn còn...
2. Lúc trẻ, tưởng khóc là buồn, bây giờ phát hiện buồn nhất là không thể khóc được, cứ trống rỗng, tỉnh táo và vô hồn.
3. Lúc trẻ, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm, chỉ đến ở những chỗ không người, đến giờ mới hiểu, lúc bên nhau, sự ấm áp mới thật mong manh, mà nỗi cô đơn sao lại gần gũi thế.
4. Lúc trẻ, tưởng thành người lớn là lớn, bây giờ đã thấy có nhiều người đã lớn mà vẫn chưa thành người lớn, và đến khi thật sự thành người lớn thì người ta sẽ biết không bao giờ bé trở lại được.
5. Lúc trẻ, tưởng mình có thể thay đổi cá thế giới, giờ thấy được ngay cả 1 người còn chẳng có khả năng thay đổi. Có chăng, vẫn chỉ là tự thay đổi mình.
6. Lúc trẻ, tưởng yêu một người thì dễ, quên một người mới khó. Giờ thấy mình quên đi nhiều người cũng dễ dàng, nhưng để yêu, mới khó làm sao.
7. Lúc trẻ, vẫn nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi, tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời. Giờ thì biết yêu đến đó, rồi đi đó, như mưa bóng mây, hay dù có như chớp bể mưa nguồn thì cũng vậy, có đó rồi mất đó. Và thật sự cũng chẳng biết thứ gì là quan trọng nhất.
8. Lúc trẻ, mẹ nói yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại, giờ lớn lên chợt nhận ra, có những yêu thương chỉ cho mà không nhận.
9. Lúc trẻ, mong mình lớn, giờ đây lớn rồi sao mong mình bé lại quá chừng.
10. Lúc trẻ, tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm, giờ mới biết nó chỉ cách nhau một lằn chỉ mong manh.
11. Lúc trẻ, tưởng rằng trung thực là điều tốt,giờ mới biết sống trung thực với mình thôi cũng là điều khó biết bao.
12. Lúc trẻ, tưởng rằng những gì đến rồi sẽ đi, giờ mới biết niềm vui đến thi qua mau, còn nỗi buồn tưởng như dài vô tận.
13. Lúc trẻ, cứ nghĩ: “Tiền bạc, Tình yêu rồi mới đến Sức khỏe”, về già mới khám phá sự đảo ngược: “Sức khỏe,Tình yêu, Tiền bạc”. Lúc trẻ rất sợ phải chết, nhưng về già “Sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái chết rất nhiều”.
14. Lúc trẻ, tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm, giờ mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản là những thứ bình dị xung quanh ta, có chăng là mình đã không nhận thấy.
15. Lúc trẻ, tưởng nói quên là có thể quên được, giờ mới biết có những chuyện càng muốn quên thì nó lại càng ở mãi trong lòng.
16. Lúc trẻ, cứ mơ ước lớn lên sẽ trở thành người này người kia. Về già mới biết: “được trở thành chính mình mới là hạnh phúc nhất”.
17. Cuối cùng, lúc trẻ cứ tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm. Về già mới hiểu nó chỉ cách nhau một lằn chỉ mong manh. Và lúc đó chúng ta thanh thản ra đi để khởi đầu một cuộc hành trình cuối cùng: Bước Nhảy Vọt Vào Bóng Tối.
St
#ncctv
Sáng nay thấy bà con cãi cọ trên mạng xem cho con học loại trường nào thì thành công. Học chuyên, học trường công, trường tư hay trường quốc tế thì thành công nhỉ? Đi du học thì vào trường oách xà lách hay trường thường thì thành công?
Túm lại cái này cãi nhau tới Tết Congo cũng chả hết cãi. Là vì thành công hay không nó có ba, bảy đường khác nhau. Và thành công của từng đứa con cũng khác nhau.
Nhìn vào lớp trung học của mình là thấy. Vài bạn xưa học dốt nhất lớp nay rất thành công. Là vì các bạn ra trường một cái chả học lên gì hết. Hồi đó 1 lớp có vài bạn đậu đại học thôi, còn lại học cao đẳng, trung cấp và đi làm ngay. Nên các bạn này ra trường là đi buôn. Nói thẳng như vậy cho vuông. Và 17-18 tuổi đã lao vào thương trường, bắt đầu từ buôn bé ngoài chợ, ngoài vỉa hè cho tới khi buôn to bán nhớn. Và vì nếu không lao vào chăm chỉ buôn bán thì lấy gì mà cạnh tranh với đời khi học vấn không cao, thành ra các bạn thành công. Còn 1 số bạn học đại học, thì chủ yếu làm thuê, ít ai làm chủ. Và có lãnh lương cao đi nữa nhưng các bạn đã làm thuê thì không giàu có như các bạn đi buôn được rồi. Song đời sống cũng thoải mái, gia đình con cái phương trưởng.
Tóm lại, bài toán ở đây chỉ là may đo thôi. Có cháu thì học trường công hay trường chuyên sẽ thành công. Có cháu thì nên vào trường tư hay trường quốc tế mới thành công. Có cháu vào trường oách thì thành công mà có cháu chỉ học trường bình thường cũng thành công vang dội.
Làm gì có công thức như nhất cho mọi học sinh. Chỉ là cha mẹ phải lo tìm hiểu xem con mình là ai, năng lực thế nào, nó mong muốn gì và cha mẹ có hỗ trợ hay hợp tác với con được hay không. Từ đó tìm ra con đường định hướng phù hợp nhất cho con, cho điều kiện và túi tiền của gia đình.
Cái gì phù hợp thì sẽ bền vững và có thành tựu. Còn cái gì ở mức quá thấp hay quá cao thì đều có thể làm hỏng con. Một là cho nó chơi nhiều thành lười biếng. Và hai là áp lực quá nó cũng hóa rồ. Và đứa nào hợp đi làm thì cho đi làm, đứa nào hợp đi buôn thì cho đi buôn, đứa hợp học hành cao lên thì cho nó học cao lên. Nếu hợp là sẽ có thành công tùy sức của nó và công cha mẹ đầu tư vào nó.
Vấn đề là có bao nhiêu cha mẹ bỏ công ra suy nghĩ, tìm tòi, định hướng theo 1 con đường phù hợp nhất cho con mà thôi. Vì nhiều nhà vẫn chạy theo phong trào, ai làm gì thì làm theo nấy cho đỡ phải nghĩ. Hoặc là một số khác chỉ cho con cơm ăn 3 bữa quần áo mặc cả ngày, sáng chở đi tới trường chiều rước về, còn lại thì con tự bơi trong trường, tới đâu thì tới được đâu thì được.
Gặp may thì cũng có con mà cha mẹ bỏ bẵng hay lo lắng rất ít mà nó vẫn thành công. Nhưng cái này ít thôi, hiếm lắm. Đa phần là do cha mẹ phải nát đầu nghĩ cách và cố gắng không ngừng tìm đường cho con đi. Và làm sao để nó tự đi được sau khi đã có các kỹ năng tự lập và tự học.
Người thầy vĩ đại của hạnh phúc, Epicurus, đã chia nhu cầu của con người thành ba cấp:
- Thứ nhất, nhu cầu tự nhiên và cần thiết: Đây là những cái gây ra đau khổ nếu không được thỏa mãn. Điều này chỉ bao gồm quần áo và thực phẩm. Để thỏa mãn nó không khó.
- Thứ hai, nhu cầu tự nhiên, nhưng không cần thiết: Đó là nhu cầu quan hệ tình dục .Để thỏa mãn đã khó hơn rồi.
- Thứ ba, nhu cầu không tự nhiên, cũng không cần thiết: Đó là sự xa hoa, giàu có, lộng lẫy. Số lượng của chúng là vô hạn và rất khó để thỏa mãn chúng.
FB-Ngô Mạnh Hùng
“ Người Thanh-Nghệ-Tĩnh keo kiệt, cư xử thô lỗ, nóng nảy…”
“ Con đi học chớ có chơi với bọn Thanh- Nghệ -Tĩnh con nhé..”
“ Các Doanh nghiệp đua nhau tẩy chay lao động Thanh- Nghệ -Tĩnh…”
“ Bọn nó chó lắm..”
Tôi rất đau lòng khi vô tình nghe được, đọc được những câu nói, những đánh giá kiểu như thế trên xe bus hay trên những trang báo..
Ngày bé, tôi luôn háo hức khi nghĩ một ngày nào đó, tôi sẽ lớn lên, sẽ được ra thủ đô học tập. Thủ đô có Hồ Gươm, có phố cổ, có lăng Bác, có những con phố đêm sáng đèn tuyệt đẹp, và đặc biệt, tôi sẽ được gặp gỡ, học tập cùng bạn bè khắp mọi miền Tổ Quốc…Đâu có ngờ…
Mới đầu đi học, tôi có nghe một vài câu chuyện xa xôi về việc kì thị vùng miền, tôi không để tâm lắm vì tôi nghĩ chắc người ta cứ phức tạp hóa mấy vụ đánh nhau vớ vẩn thôi …Dạo gần đây, tôi nghe những câu chuyện từ những “nạn nhân” có thật của việc kì thị vùng miền, tìm hiểu thêm qua sách báo, internet, tôi mới thực sự sốc khi nhận ra kì thị vùng miền trở thành một trào lưu,một vấn nạn xã hội đang ngày càng trầm trọng. ĐỪNG XEM NHẸ VẤN ĐỀ NÀY !
Người ta nói người Thanh- Nghệ -Tĩnh bủn xỉn, hay đánh nhau, hay bảo vệ cho nhau, quậy phá trong nơi làm việc…Thậm chí còn có những người lập nhóm những người ghét dân Thanh-Nghệ -Tĩnh và suốt ngày chửi bới thô thiển, tục tĩu, có những doanh nghiệp ở Bình Dương, Đồng Nai..còn thẳng thừng không nhận công nhân Thanh-Nghệ -Tĩnh, xóm trọ không cho Thanh-Nghệ-Tĩnh thuê, nhiều người còn cố tránh xa những con người vùng này như lánh người bệnh phong, bệnh hủi…
Có người từng chứng kiến cảnh gây lộn của người Thanh-Nghệ -Tĩnh, nhưng phần lớn còn lại chỉ ghét người 3 tỉnh này vì ….nghe người khác chứ chưa một lần tiếp xúc với họ. Các doanh nghiệp cũng truyền cho nhau những thứ được họ gọi là “ kinh nghiệm tuyển công nhân” theo kiểu cách tương tự. Thật là vô lí, thật nực cười và vô cùng bất công… Cái lối a dua, hùa theo, cách phán xét chủ quan, phiến diện, đánh đồng của họ đã khiến rất nhiều người Thanh-Nghệ -Tĩnh cảm thấy bị xúc phạm, nhiều lao động mất việc làm, rơi vào hoàn cảnh trớ trêu khi họ đã lặn lội đường xa, rời mảnh đất quê hương nghèo khó lên đường tìm miếng cơm manh áo để nuôi gia đình nhưng lại bị đối xử bất công, phải bán rẻ sức lao động, lại còn bị xúc phạm phũ phàng…
Phải, rất nhiều người dân Thanh-Nghệ-Tĩnh nóng nảy,hay bảo vệ nhau, hay quậy phá, tiết kiệm thái quá…nhưng những điều kiện khách quan đã khiến họ trở nên như vậy. Quanh năm phải oằn mình hứng chịu thiên tai, bão lũ, cái nắng gay gắt của mùa hè cùng gió lào rát bỏng khiến con người họ trở nên nóng nảy, hay gắt gỏng. Để chống lại sức mạnh tàn phá của thiên nhiên, họ phải cùng nhau hợp lực, giúp đỡ nhau để vượt qua những thời kì gian nan nhất của cuộc đời khi nhà cửa bị cuốn trôi, khi những đứa trẻ trở nên mồ côi sau một đêm giông bão…Trên mảnh đất cằn cỗi trơ sỏi đá ấy, để kiếm được đồng tiền, hạt gạo nuôi thân, họ đã phải trải qua những cuộc mưu sinh đầy gian nan và có phần nguy hiểm. Thế nhưng họ quật cường, họ không chịu khuất phục và cũng vì thế mà họ quý đồng tiền, họ tiết kiệm từng đồng xu, họ đau lòng khi thấy những đồng tiền mình chắt góp được bởi bao mồ hôi nước mắt bỗng chốc tiêu tùng trong một bữa tiệc xa xỉ hay một lần tham gia nhậu nhẹt cùng bạn bè (vì nể nang)…Cái đó bị coi là xấu xa, là đáng xấu hổ sao?
Cái nóng nảy, cương cường của con người Bắc miền Trung luôn đi kèm với sự thẳng thắn ,thật thà, ý chí sắt đá không dễ khuất phục. Con người nơi đây không ưa thích sự nịnh bợ, quanh co, hoa lá trong giao tiếp hay sự nhún nhường, nhượng bộ trong ứng xử, có lẽ vì thế mà họ không được lòng nhiều người và bị coi là thô thiển. Đứng trước khó khăn thử thách, họ không mấy khi nhụt chí bởi họ là những con người từng trải,ý chí của họ đã được tôi luyện ngay từ trong bụng người mẹ mang thai đập đá, trèo đèo, lội suối., hơn ai hết, họ ý thức được rằng nếu họ bị khuất phục, họ không thể tồn tại.
Ý chí quật cường ấy đã bao lần ghi danh trong lịch sử qua những chiến công hiểm hách của những vị anh hùng bất tử Lê Lợi, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Trần Can…đặc biệt là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, của quần chúng lao động trên toàn thế giới Hồ Chí Minh… Đó mãi là những bản anh hùng ca bất diệt của hàng ngàn thế hệ, những người con xứ Thanh-Nghệ-Tĩnh đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Con người Thanh-Nghệ -Tĩnh tôn trọng sự công bằng, họ dám đứng lên đấu tranh khi họ bị bóc lột sức lao động, khi công sức của họ bị rẻ rúng,và vô hình dung, họ bị coi là những phần tử phá rối trong doanh nghiệp, và họ bị tẩy chay trong tuyển dụng.
“ Người xứ Thanh-Nghệ -Tĩnh đoàn kết, hay bảo vệ nhau, đi đâu cũng hội đồng hương”…bạn không thích điều đó ư? bạn nghĩ điều đó là tiêu cực hạn chế ư? Chỉ khi người ta lợi dụng sự đoàn kết ấy cho những hành động sai lệch thôi bạn ạ. Nhưng phần lớn, tính đoàn kết đã phát huy tác dụng đúng chỗ, nó mang sự giúp đỡ, mang những buổi gặp mặt thân tình, mang cả quê hương đến với họ nơi chốn đất khách quê người, giúp họ được ấm lòng, được san sẻ, được cảm nhận những tình cảm thân thuộc đã ăn sâu vào máu, vào từng thớ thịt của họ.
Có thể bạn không may mắn khi đã gặp phải những người xấu từ xứ Thanh-Nghệ-Tĩnh nhưng xin đừng vì một vài người mà đánh giá gần 1/10 dân số Việt Nam là xấu xa. Thật ra, ở đâu cũng có người xấu, người tốt. Tôi đã không khỏi ngạc nhiên khi tận mắt trông thấy những “ nam thanh, nữ tú” Hà Thành buông những lời chửi thề tục tĩu nơi công cộng. Họ hồn nhiên buông thõng những câu nói không thể lọt tai mà không chút ngượng ngùng, nó trở thành những câu cửa miệng của một lớp người luôn tự hào là “ Tràng An thanh lịch” . Rồi biết bao vụ đâm thuê chém mướn giết người man rợ khắp nơi chả ai thèm để ý, nhưng hễ có một vụ người Thanh-Nghệ-Tĩnh ăn cắp hay đánh lộn thì y như rằng trở thành chủ đề cho các cuộc “hội thảo” ở chợ búa, quán trà đá vỉa hè hay thậm chí là trong công sở…
Với nhiều bạn trẻ hiện nay, sự cảm tính luôn chiếm một phần lớn trong thái độ yêu ghét một thứ gì đó: Đã ghét cái gì thì nhìn đâu cũng thấy xấu. Đó là cách nhìn nông cạn, phiến diện của những con người sống hời hợt, thiếu suy nghĩ. Rất mong các bạn suy nghĩ sâu xa, toàn diện một chút. Tất cả chúng ta là người một nhà, các thế hệ cha anh đã biết bao hy sinh xương máu để giành độc lập cho Tổ Quốc, để đất nước thống nhất, nhân dân 3 miền Bắc Trung Nam được sum vầy, thế mà chúng ta lại phụ lại sự hy sinh ấy, chia rẽ kì thị vùng miền, thử hỏi thế có đáng không? Mảnh đất bắc miền Trung là khúc ruột không thể tách rời của Tổ Quốc Việt Nam, con người bắc miền Trung là thành viên không thể thiếu trong đại gia đình dân tộc Việt Nam đoàn kết, hùng cường.
Nhân đây, để không phải chịu cảnh “ con sâu làm rầu nồi canh” , rất mong các bạn là người con của xứ Thanh- Nghệ -Tĩnh hào hùng, hãy cố gắng gìn giữ và phát huy những tinh hoa truyền thống tốt đẹp và loại bỏ dần những thói hư tật xấu của mỗi cá nhân.
Tôi viết bài này dựa trên sự hiểu biết của người con mảnh đất bắc miền Trung nhưng đứng trên lập trường khách quan của người con của dân tộc Việt Nam với một nỗi niềm đau đáu: mong sao cho những việc đáng buồn như thế này đừng bao giờ xảy ra đối với một đất nước mà triệu triệu đồng bào đã cùng nhau vượt qua bao sóng gió trong lịch sử dựng nước và giữ nước như đất nước Việt Nam mình.
Cao Huy Bình (Đại học Dược Hà Nội)
Dưới đây là lời dẫn trong loạt bài “Xét tật mình” của nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh đăng trên tờ Đông dương Tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh là chủ bút xuất bản năm 1913 tại Hà nội.
Sau hơn 100 năm ngẫm lại, hầu hết các tật xấu mà tác giả phê phán vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
LỜI TỰA
Các nết xấu, các hủ tục của người Việt Nam ta, cần nói hết ra, đừng có giấu diếm, ai cũng biết thì mới sửa được. Luân lý là phải dạy người ta biết gốc rễ điều ác để tự nguyện tránh, mầm mống điều thiện để tự giác làm điều thiện .Nếu cứ nói, cứ bắt buộc phải thế này, không được thế kia thì khó nghe, uổng công nói, mà phải biết cho rõ làm việc thiện lợi thế nào, làm điều xấu hại ra sao thì người ta dễ theo. Người có bệnh phải biết rõ bệnh, căn nguyên bệnh thì mới uống đúng thuốc mà khỏi. Trong xã hội có nhiều hủ tục, đã thành thói quen của cộng đồng, một người hay một thiểu số không đủ sức đấu tranh để sửa mà nên phô bày ra, rõ ràng cái xấu, căn nguyên cái hại để Nhà nước biết, để đa số nhân dân biết, khi đó lệnh của nhà nước hợp với ý dân thì mới sửa được.
Vì vậy mỗi số sau sẽ trình bày cụ thể một tệ hủ bại, phân tích rõ gốc rễ và điều hại cho dân cho nước để cùng nhau sửa .
Đông dương tạp chí số 6 – 1913.
TÍNH Ỷ LẠI
Dân ta có một nết xấu mà hầu như mọi người đều cho là hay đó là tính ỷ lại trong cuộc sống, sung sướng mà ỷ lại vào người, vui vẻ và hãnh diện mà cho người khác ỷ lại vào mình. Các nước văn minh người ta khinh ghét nhất sự ỷ lại. Trong cuộc sống, tự hào nhất là bằng lao động của đôi tay, khối óc mà tự mưu sinh, không nhờ vả vào ai. Đến mức, cha mẹ có nghề của cha mẹ, dù có vất vả cũng sống giản dị với nghề đó, thấy con ăn nên làm ra, giàu có thì mừng cho con mà chẳng nhờ cậy. Chỉ khi thật sự già yếu quá mới yêu cầu con cái giúp đỡ. Còn dân ta thì hoàn toàn ngược lại, coi việc được sống dựa vào sự giàu có của người khác là một vinh dự, đến độ thấy người sang bắt quàng làm họ, một người làm quan cả họ được nhờ, đến mức bỏ cả việc đang làm để bám vào người mà ăn không ngồi rồi. Cách nhờ vả này người nghèo càng nghèo mà chính người giàu cũng chẳng hay, phải tìm cách bất lương để có thêm tiền, làm quan thì phải ra sức ức hiếp dân mà ăn của đút… Quanh quẩn đất nước thêm nghèo, dân ta lún sâu trong lạc hậu.
Đông dương tạp chí số 8 – 1913.
TÍNH NÓI DỐI
Các quan Tây thường chê dân ta là hay ăn gian nói dối. Điều đó quả thật, nhưng chỉ với các quan Tây cũng như ta. Còn ở dưới nông thôn thì không thế. Đại đa số nông dân phân biệt rõ thiện, ác và tin rằng ăn ở thật lòng với nhau là quý, mới được bạn bè hàng xóm láng giềng yêu mến, giúp đỡ. Với nhau, họ rất chân thật. Vậy vì sao các quan Tây chê vậy?
Thưa rằng quả thực đối với các quan nói dối là cách tự vệ của dân đen .Các quan tự nêu hư danh là phụ mẫu của dân, vì dân mà cầm cán cân công lý. Sự thật đâu có thế! Quan chỉ vì tiền, ai đưa cho quan nhiều bổng lộc thì quan ra sức bênh, đè nén áp bức là việc hàng ngày của quan. Vì vậy đã tới cửa quan thì người đi kiện cố nhiên cũng phải nói dối để quan xử cho có lợi , người bị kiện tất nhiên cũng phải nói dối để mong đỡ bị hại, gặp quan: sợ quan nên nói dối mà nịnh quan cũng nói dối. Thế là với quan ta, ai cũng nói dối cả thì tránh sao khỏi nói dối với quan Tây, là quan của quan, nói thật sao được!
Đông dương tạp chí số 9 – 1913.
THÓI TRẢ NỢ MIỆNG
Ở chốn dân thôn, các thói xấu nên hổ thẹn nhất, nên lên án và bài trừ, là thói coi ăn uống là việc quan trọng hàng đầu trong quan hệ xã hội. Việc hiếu nghĩa mà không có mâm to bình lớn, ăn uống thỏa thuê thì bất thành hiếu nghĩa. Gia đình nếu không may có ông bà, cha mẹ nằm xuống, nỗi lo lắng nhất là làm sao đủ lợn, gà, rượu, gạo, để thết đãi các chức sắc và dân làng. Hàng mấy chục người quần quật, tíu tít vào việc này, đến nỗi lòng thương nhớ người chết cũng bị chìm đi trước nỗi lo đãi người sống. Mà không lo sao được? Nghe hơi có người chết đám Tổng Lý kỳ cựu đã chuẩn bị mồm chờ ăn, chờ uống gân cổ cười nói, bẹp tai hút sách. Thiếu một chút là dài mồm dè bửu, coi là bất hiếu. Tốn phí vô cùng, chỉ mấy ngày mấy chục vị chức sắc ưa thích và bảo vệ, nhân dân trong lòng đâu có muốn đến mức ấy, nhưng không ăn ai dám tự ý làm khác. Cũng chỉ vì, khi còn sống, ai cũng đã từng ăn uống như thế ở nhà khác, nay chết đi, con cháu phải tổ chức ăn uống để trả nợ miệng cho người chết. Hàng nghìn đời trả nợ miệng như thế, nước ta vẫn đắm mình trong nghèo khó, lạc hậu. Nếu cả nước đồng lòng, đem công sức của cải góp phần lo trả nợ nước thì văn minh, khoa học sẽ đến với chúng ta. Thói ăn uống hủ bại như trên đúng là miếng ăn là miếng nhục.
Đông dương tạp chí số 10 – 1913.
THÓI TỰ TY
Dân ta rất cần mẫn chăm chỉ , biểu hiện rõ ở nông thôn tấc đất tấc vàng, không một mảnh đất nhỏ nào để hoang chỉ hiềm một nỗi, không biết tự hào về sự cần mẫn này, không thấy sản phẩm do lao động mình làm ra quyết định sự tồn tại của xã hội. Có ai, dù là vua quan, những kẻ làm sĩ, những người buôn bán, những người làm thợ thuyền… Không ai có thể sống nổi nếu không có lương thực, thực phẩm do nhà nông sản xuất. Tất cả các nghề khác đều như vậy, mỗi nghề đều góp phần tạo điều kiện cho xã hội tồn tại và phát triển, đều vinh quang nếu họ biết vì lợi ích của xã hội trong đó có lợi ích của chính mình mà lao động.
Dù anh làm nghề gì, nếu anh không phục vụ tốt cho xã hội thì anh không được tôn trọng. Làm quan, một nghề nói chung được trọng vọng, nhưng nếu ông quan lại buôn quyền, bán chức, đàn áp nhân dân để kiếm lợi riêng thì có lợi gì cho ai, làm sao khỏi bị khinh ghét. Làm thợ mà biết tính toán khéo léo, làm ra những sản phẩm hoặc công cụ, có ích cho đời, vừa bền vừa đẹp thì làm sao mà không được yêu quý. Những người làm nghề buôn bán, làm nghề vận chuyển, hàng trăm nghìn nghề mà xã hội cần, không có nghề nào hèn. Mà chỉ cần ai làm nghề gì biết tự hào và lo học tập rút kinh nghiệm để phục vụ xã hội tốt mãi lên. Đó là con đường tiến bộ của cá nhân gắn liền với sự tiến bộ của xã hội, nghề nào cũng dẫn đến giàu có, vinh quang. Chớ có giầu rồi lại phụ nghề, đem tiền của do nghề làm ra mà đi mua chức vị nọ kia; ông hàn, ông bát, và coi thường nghề cũ.
Tóm lại cần mẫn phải gắn liền với lòng yêu nghề, với tinh thần vì cộng đồng xã hội trong đó có bản thân mà hành nghề, không ngừng rèn luyện để thạo nghề. Phục vụ xã hội và làm giàu song song phát triển, thúc đẩy lẫn nhau tiến lên mãi.
Đông dương tạp chí số 11 – 1913.
THÓI TIÊU TIỀN
Người nông dân cần mẫn có thừa, hàng ngày hai sương một nắng, quanh năm vất vả mà vẫn nghèo khó. Tại sao? Chung quy, họ là nạn nhân của điều kiện kinh tế xã hội kéo dài từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Sức người cộng với công cụ thủ công, cùng nhất là con trâu kéo cái cày cái bừa. Nhất nước nhì phân nhưng cả hai đều khó khăn mà con người không chủ động được. Cho nên làm ra nông sản, kiếm được tiền đã vô cùng khó khăn, làm sao giữ được tiền, làm sao chi ra hợp lý, phục vụ cuộc sống cũng khó khăn không kém.
Giữ được cũng cực kỳ khó. Người nông dân đủ bát ăn là đối tượng bị kỳ hào lớn nhỏ trong xã nhòm ngó, tìm cớ đục khoét; khá hơn thì được sự chú ý xét nét của cấp tổng, mà tương đối giàu có thì các quan trên huyện, phủ, tỉnh, dựa vào cấp tổng, xã thành một hệ thống đèn trời, soi vào túi dân vơ vét. Số tiền còn giữ được người dân cũng không làm chủ hẳn. Hủ tục ma chay, giỗ chạp đã buộc phải chi ra một phần lớn như bài trước đã nói, vì thế mang tiếng hoang phí, không biết tích lũy dự phòng. Số chi cho cuộc sống đã ít lại gặp nhiều khó khăn. Chỉ sửa chữa nhà cũng sợ các kỳ hào trông vào, kẻ gian dòm ngó, lòng tham nổi lên thì chết. Chi cho cái ăn mặc sang trọng một chút, ở nông thôn đâu có dễ, không biết mà mua, không có mà mua, nên số còn dư chút ít chỉ có cách nơm nớp lo cất dấu, khi có thời cơ thì mua ruộng, chuẩn bị chia cho con cháu. Đó là cách dự phòng mà người nông dân cho là chắc chắn nhất, thích hợp nhất với hoàn cảnh xã hội ở nông thôn, thích hợp với tâm lý; nhiều tiền chẳng những không biết tiêu gì, lại còn sinh nhiễu sự ra, kém vế thì nhiều khi tiền mất tật mang, bị kẻ khác ăn hiếp, mà có khi còn làm lụy tới thân.
Đông dương tạp chí cố 12 – 1913.
THÓI NGHI NGỜ
Dân ta lại có cái tật cái gì cũng bán tín bán nghi nên làm hay không làm; theo hay không theo, chẳng dứt khoát mặt nào. Lấy thí dụ điều này bộc lộ rõ trong vấn đề được các cha cố dạy kỹ về giáo lý; vẫn còn không ít người thường xuyên đi nhà thờ lễ, nhưng khi đến các điện phủ, chùa chiền có tiếng là linh thiêng thì vẫn lễ bái không kém ai, với quan điểm “bên cha cũng lễ, bên mẹ cũng vái”. Những người theo Phật giáo hoặc tin vào sự linh thiêng của các thánh thần thì khỏi nói, họ tụng kinh Phật, miệng không ngớt Nam mô A di đà Phật, nhưng có chút hiểu biết gì về phật lý đâu. Vì thế đền chùa họ thắp nhang lễ lia lịa ở khắp nơi, trừ chính diện ra nếu hai bên, ra góc cột đến gốc cây với ý thức đâu cũng linh thiêng, càng lễ nhiều càng được phúc, vừa lễ vừa xin đủ thứ. Sự lễ bái cầu lợi này tạo cơ hội cho các chùa chiền, đền đài biến thành nơi buôn thần bán phật.
Đông dương tạp chí số 13 – 1913.
THÓI BẮT CHƯỚC
Sự huyền hồ về nhận thức tư tưởng của dân ta không ngừng lại ở lĩnh vực tôn giáo mà nó chi phối rộng rãi mọi hoạt động tư duy, vay mượn của Trung Quốc nhiều, ít chất thực tiễn Việt Nam. Ví như làm thơ, viết văn đều xính xuất phát tự thiên nhiên Trung Quốc, từ phong cảnh đẹp đặc trưng, khí hậu băng tuyết, đến con người với tinh thần, tâm lý rất xa lạ… trong khi bầy ra trước mắt biết bao cảnh sông, núi, rừng đẹp tuyệt vời của chính quê hương, con người và điển tích Việt Nam diễn ra trong suốt mấy ngàn năm lịch sử thì bị quên lãng. Như vậy làm sao có được cảm xúc thực phù hợp với tâm hồn Việt Nam? Đều như vậy, trong hội họa, trạm khắc đúc tượng cũng lấy đề tài và rập khuôn Trung Quốc mà người nghệ sĩ chưa hề được chiêm ngưỡng tận mắt. Cho đến Pháp luật, một lĩnh vực phải quán triệt 100% Việt Nam, con người kinh tế, xã hội và chính trị Việt Nam thì cũng vẫn bị vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức ban hành luật mới bằng cách sao chép của Tàu, luật mà như thế, làm sao mà cải tạo được thực tiễn Việt Nam. Phong tục Việt Nam phải là của người Việt Nam xây dựng trong mấy nghìn năm tồn tại thì cũng tìm trong “Thọ Mai Gia Lễ” hoặc “Văn Công Gia Lễ” xem ở bên Tàu con khóc cha như thế nào mà bắt chước. Thật buồn cười! Thật huyền hồ đã làm cho tư duy và bản sắc dân tộc Việt Nam không phát triển được. Chúng ta phải triệt bỏ.
Đông dương tạp chí số 15 – 1913.
THÓI LÃNG PHÍ TRÍ TUỆ
Lối học cổ hủ, lại thông qua tiếng Trung Quốc, kéo dài hàng nghìn năm, đã khoét sâu ảnh hưởng tai hại đến hoạt động trí tuệ của dân tộc Việt Nam.
Tiếng Trung Quốc rất khó, gây ra nạn mù chữ trong tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam, cũng có nghĩa là đại đa số này không được học hành, hoạt động tư duy bị trì trệ, hạn chế trong những lo nghĩ cho mình, cho gia đình, nhưng là lo nghĩ vẩn vơ, không dẫn đến hoạt động tích cực mà thường là ngồi ngẩn hàng giờ đầu óc trống rỗng, không đem lại một chút lợi ích cho bất cứ ai. Đó là thì giờ mất không, sống cũng khác chi chết. Ở đời, thì giờ phải phân làm 3 việc: làm lụng, nghỉ ngơi, giải trí, cả ba việc đều phải hết sức tích cực. Làm việc phải tập trung hết công sức, trí tuệ đạt hiệu xuất cần thiết, làm rồi tất nhiên phải giải trí, giải trí ra giải trí, hoạt động thể thao, văn nghệ, cầm kỳ thi họa đều là giải trí tích cực. Thứ ba là nghỉ ngơi thoải mái khôi phục lại sức khỏe để tiếp tục lao động. Làm như vậy cuộc sống từng giờ từng phút đều tích cực.
Đông dương tạp chí số 16 – 1913.
TÍNH VÔ CẢM
Khi trong nước có thiên tai, hoạn nạn thì dân tình đói khổ, nhà tan cửa nát, là dịp bộc lộ người tốt, kẻ xấu. Người tốt biết nhường cơm sẻ áo, góp sức cứu giúp nhau trong cơn hoạn nạn, Đông dương tạp chí đã đưa tên và khen ngợi. Nhưng thật buồn, số người lợi dụng đau khổ của đồng bào để trục lợi riêng vẫn rất đông. ĐDTC thấy cần phải vạch rõ và lên án.
Biết bao người từ đủ bát ăn, đến phong lưu, giàu có mà vẫn nhẫn tâm thực hiện triết lý ích kỷ “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, vẫn ăn ngon ngủ yên, không hề động lòng. Thế thì làm sao gây được quỹ cứu tế lớn đủ sức cấp cứu dân. Nhưng giã man và vô liêm sỉ nhất, không những công luận vẫn lên án mà nhà nước cần nghiêm trị là những kẻ lợi dụng đục nước béo cò. Đó là những chức trách Nhà nước, từ quan lại đến Tổng Lý, được giao nhiệm vụ cứu tế, lại nhân cơ hội ấy mà xà xẻo làm hại dân, lại còn trị con buôn bất lương, nhất là tụi buôn gạo và lương thực đã đầu cơ tăng giá lúa cho nhân dân vô cùng khổ cực.
Nước ta nghèo, kinh tế còn lạc hậu, tai nạn xẩy ra nhiều, phải ra sức thực thi nhiễu điều phủ lấy giá gương, lá lành đùm lá rách, thì mới có điều kiện để dân nghèo đỡ khổ, trở thành nước tiến bộ văn minh.
Đông dương tạp chí số 17 – 1913.
TÍNH THỤ ĐỘNG
Hãy xét đến các khuyết tật trong hoạt động tri thức của dân ta.
Trước tiên là vấn đề học tập. Từ ngàn đời xưa chỉ tập trung vào nho học, các sách thánh hiền được coi là chân lý tuyệt đối, lại viết bằng tiếng Trung Quốc rất khó, nên số người hiểu được thấu đáo, và vận dụng, sáng tạo trong cuộc sống rất hiếm. Cách học thì không theo một chương trình hợp lý, không có trình tự đi từ dễ đến khó, từ gốc đến ngọn, mà phổ biến là gặp đâu học đấy, thiên về học thuộc lòng, lấy ngâm nga, trích cú làm giỏi. Chính vì vậy, hàng mấy ngàn năm trôi qua, cũng chỉ ngần ấy sách, không thêm bớt, cũng không có ông bà Thánh mới nào ra đời. Tưởng như nhân loại ngàn đời không biến động. Thực tế đâu có thế. Tri thức của nhân loại thời nay đã tiến bộ và cao hơn gấp bội tri thức thánh hiền xưa. Các môn khoa học mới ra đời phân nhánh rất phong phú. Muốn trở nên một dân tộc văn minh như ở các nước Âu Tây, chúng ta phải theo Tân học, phải cách tân cách học. Các môn khoa học đều phát triển từ các vấn đề cơ bản giản dị mà tiến dần lên cao hơn, phong phú hơn, các môn khoa học có liên quan mật thiết với nhau. Vì thế học tân học, đối với mỗi môn, phải học từ thấp, thật hiểu thấp mới chuyển lên cao, phải học các môn có liên quan với nhau, học phải gắn với hành.
Tổng hợp các mục lại bằng các bài bình luận về mọi mặt kinh tế, xã hội các bài phiên dịch các tác phẩm văn học, khoa học, kinh tế học, đạo đức học ở Âu Tây, ĐDTC sẽ kiên trì giúp bạn đọc đi dần vào tân học.
Đông dương tạp chí số 18 – 1913.
THÓI MÊ TÍN
Hãy đơn cử Hội Đền Kiếp bạc, vốn là ngày hội để tưởng nhớ đến công ơn cứu nước yêu dân của Hưng Đạo Đại Vương. Những công lao to lớn của vị anh hùng dân tộc đó đã bị người ta không biết đến, lại còn lợi dụng lập ra Đạo Thánh Cả, biến Hưng Đạo Đại Vương thành ông Thánh nhận lễ của dân ngu, cho thầy đồng nhảy múa để kiếm con cầu tự, để người ốm không uống thuốc mà khỏi bệnh… thật là tin bậy làm càn, sự dị đoan đồng bóng phát triển ở khắp nơi, phỉ báng mọi tín ngưỡng, làm cho nhục thần tủi thánh. Chúng ta hãy bảo nhau chữa đi.
Đông dương tạp chí số 19 – 1913
TÍNH YẾU KÉM TRONG GIAO TIẾP
Vụng nói chuyện cũng là một hiện tượng phổ biến ở rất nhiều người Việt Nam mà nguyên nhân cũng là do hoạt động tư duy kém. Không theo dõi được diễn biến tình hình về mọi mặt, không có nhận thức cụ thể về hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học đương thời, ở trong nước và trên thế giới thì làm sao có đề tài nói chuyện hay? Vì vậy khi gặp nhau, trong mọi hoàn cảnh, dù nói nhiều hay nói ít, thường câu chuyện chỉ trao đổi vụn vặt về các vấn đề tầm thường trong cuộc sống. Chuyện lý thú nhất, được mọi người nói một cách hể hả là chuyện khoe khoang hơn người, chuyện ăn chơi, chuyện cờ bạc… những câu chuyện không rút ra được điều gì hay. Ở các nước Âu Tây văn minh thì khác xa, qua học tập tìm hiểu và tích lũy trong đầu những tình hình mới, có những nhận xét đặc biệt, câu chuyện trở nên sự trao đổi tri thức lý thú, có ích cho mọi người và thường gợi ra nhiều cách giải quyết thỏa đáng công việc.
Đông dương tạp chí số 21 – 1913.
GÌ CŨNG CƯỜI
Dân ta rất nhiều người có thói lạ thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, chê cũng cười, hay dở, phải, quấy đều cười. Cười vốn là biểu hiện vui tươi hữu nghị trong xã giao, nhưng ở đây nó trở thành vô duyên, vô nghĩa, nhiều khi nó như là biểu hiện khinh người, không thèm đối đáp, trao đổi. Trong giao dịch mà gặp cái kiểu gì cũng cười này thì thật tức như bị bò đá. Dân ta với nhau đã tức, nếu quan hệ với người nước ngoài thì người ta không thể chịu nổi, cuộc nói chuyện không thể tránh khỏi thất bại. Ta cần rút kinh nghiệm; trong xã giao tươi cười hữu nghị là cần thiết, nhưng điều quan trọng hơn vẫn là thái độ đối đáp, ngôn ngữ rõ ràng, lịch sự và tạo điều kiện cho đối phương nói rõ ý họ, hiểu rõ ý mình. Kể cả mức độ nông sâu chưa nên vượt qua. Điều gì chưa muốn tiết lộ thì tránh nói tới chứ không nên nói dối, nói sai sự thật.
Đông dương tạp chí số 22 – 1913.
TÍNH CỜ BẠC
Trong muôn vàn cái tật của dân ta, tật ham mê cờ bạc là phổ biến nhất, từ thành thị đến thôn quê, miền xuôi, miền ngược, từ các quan cấp tỉnh huyện đến Tổng Lý, các thầy tham phán, kỷ lục, thừa phái, từ các phú gia đến các bậc trung lưu, đến cả người còn túng thiếu. Động cơ chính là tham tiền, muốn qua con bài sóc đĩa nhờ thần rủi may mà móc tiền trong túi người bỏ vào túi mình. Lòng tham thì như thế thật đáng hổ thẹn, nhưng có ai đánh bạc mà nên giàu có? Được thua do may rủi, được thì tiêu hoang phí, thua thì mất của, càng thua càng khát nước lao vào đánh to, gỡ được thì ít mà phá sản thì nhiều. Trên bàn bạc, cay cú với nước bạc, kẻ được người thua ghen ghét nhau, chẳng còn gì là tình cảm bạn bè, anh em, lời lẽ bốp chát thô tục. Từ bậc thượng lưu, trung lưu đến người hạ đẳng, giàu nghèo đều giống nhau, có khác chăng là ở bề ngoài ăn nói, ở cách che dấu lòng tham.
Cái hại của cờ bạc là vô cùng to lớn, hại nhất là lãng phí không biết bao nhiêu thì giờ đáng ra dùng để làm lợi cho bản thân, gia đình và xã hội. Đã mê cờ bạc thì mất lương tâm đạo đức, quên mọi nhiệm vụ, buông trôi công việc, học hành. Quan phụ mẫu trị dân thì quên mất dân đang mong chờ quan dạy dỗ bảo vệ mà chỉ nhớ đến việc đục khoét dân để có tiền đánh bạc. Người có tài cao học rộng mà đã ham mê cờ bạc thì tài cao cũng bằng thừa, vùi đầu vào đánh bạc rồi thì còn đâu thì giờ mà nghĩ đến việc, mà thi thố tài năng. Cái hại thứ hai là sinh ra một nghề chỉ làm hại xã hội, đó là nghề gá bạc lấy hồ, sống bằng cách khuyến khích và tạo điều kiện cho tệ cờ bạc ngày càng mở rộng khắp nơi, khắp chốn. Cho nên xã hội muốn phát triển cần bảo nhau, giúp nhau chừa thói đánh bạc, cần tố cáo để Nhà nước nghiêm trị cả người đánh bạc lẫn tụi gá bạc đổ hồ.
Đông dương tạp chí số 29 – 1913