Tuesday, March 30, 2021

Từ „Villa bí ẩn“ đến „Tuần lễ Kosygin“

 (tiếp theo)

Vì không công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên hai cơ quan ngoại giao của Anh và Pháp rất ẩn. Trước các tòa nhà không hề có bảng ghi là gì, không có cảnh sát bảo vệ. Quan hệ lễ tân cũng vậy. 

Ông John Colvin, tổng lãnh sự Anh ở Hà Nội 1966-1967, có kể trong tập hồi ký của mình[1] rằng trong các dịp đại lễ hay quốc khánh ông chỉ được mời ngồi cùng các phóng viên báo chí quốc tế. Vì không có quan hệ ngoại giao nên cũng không có trình quốc thư. Mỗi vị Tổng lãnh sự mới sang nhậm chức chỉ đến chào xã giao tòa thị chính thành phố Hà Nội và được các quan chức cấp thấp tiếp.

Cuộc đối thoại giữa ông Colvin với hai cán bộ trẻ Dung và Pham ở sở Ngoại vụ Hà Nội cho thấy quan hệ Anh-Việt ngày đó mạng nặng dấu ấn của cuộc chiến tranh vừa nóng vừa lạnh giữa hai khối Đông-Tây. Danh từ „Chủ nghĩa đế quốc“ được nhắc lại nhiều lần.

Các nhà ngoại giao Anh cũng không được phép đi lại ở Hà Nội bằng xe đạp, bởi lí do „an toàn“. Mỗi lần muốn đi Sài Gòn (qua đường Vientian hoặc Phnompenh)) để họp với Đại sứ, hoặc chữa bệnh chẳng hạn, họ phải xin visa xuất cảnh và không phải lần nào cũng suôn sẻ.

Ông Colvin kể về mối quan hệ phức tạp giữa các nhà ngoại giao và những người Việt làm việc cho họ. Tòa Tổng lãnh sự không được tự do tuyển chọn những người giúp việc, từ lái xe, nấu ăn đến phiên dịch... Những người này đều do „Cục phục vụ ngoại giao đoàn“ thuộc Bộ Ngoại giao giới thiệu sang và khách nước ngoài chỉ còn cách chấp nhận. Cũng vì vậy mà giữa hai bên, người giúp việc và nhân viên ngoại giao, luôn có những ngờ vực và cảnh giác với nhau. Tuy vậy các nhà ngoại giao Anh không hay thay đổi người làm việc, đơn giản vì những người này đã quen việc, hiểu rõ mối quan hệ giữa tòa Tổng lãnh sự với các đại diện nước ngoài và cơ quan hữu quan ở Hà Nội. 

Hơn thế nữa, giữa họ dần dần hình thành các quan hệ con người với nhau. Vì vậy những người Việt này đều làm việc qua nhiều nhiệm kỳ ở đó. 

Ông Colvin cũng kể về các nhân viên người Việt ở ngay trong Lãnh sự quán với lũ trẻ, trong căn nhà ngang phía sau. Điều này giải thích sự có mặt của mẹ con „Cô gái đổ rác“ trong tòa nhà Ăng-Lê 

Cũng chính vì trực tiếp liên lạc với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và tiếp xúc với các cơ quan ngoại giao XHCN tại đây mà tòa Tổng lãnh sự Anh có được rất nhiều thông tin về chính sách và tình hình của Bắc Việt Nam.

Ông Colvin tiếp xúc với nhiều vị đại sứ các nước XHCN có mặt tại Hà Nội. Đặc biệt là quan hệ thân tình của ông với đại sứ Liên Xô Illia. S. Sherbakov (nhiệm kỳ 1964-1974). Ông Sherbakov là một thiếu tướng tình báo lão luyện, có quan hệ tốt với các chính khách Việt Nam, kể cả phía cứng rắn cũng như phía ôn hòa. Ông Sherbakov thậm chí còn ngỏ lời mời ông Colvin đến chữa răng ở chỗ ông bác sỹ của đại sứ quán Liên Xô (một chi tiết thú vị đến phút chót vì ông bác sỹ Nga không biết chữa răng). 

Rồi ông phải nhổ răng trong một bênh viện Việt Nam mà không gây tê, bởi thuốc tê chỉ dành cho quân đội. Từ trải nghiệm đó ông Colvin tìm hiểu và mô tả những khó khăn kinh tế của miền Bắc rất chính xác. Chính xác đến từng xuất gạo cho nhân viên văn phòng (13,5 kg) cho công nhân (15-18kg), chính xác đến từng mét vải tem phiếu, đến thu hoạch gạo của từng vụ mùa.

Các cơ quan ngoại giao Anh tại Hà Nội và Sài Gòn đã cung cấp những thông tin về quân sự, kinh tế, chính trị ở Việt Nam, tạo cho London một bức tranh chính xác về cuộc chiến đang diễn ra ở đây. Đặc biệt quan trọng là những nhận xét của ông Colvin gửi từ Hà Nội về mâu thuẫn giữa phái chủ chiến thân Bắc Kinh và phái ôn hòa thân Kremlin.

Trong thời kỳ ông John Colvin ở Hà Nội 1966-1967 đã xảy ra một sự kiện mà lẽ ra có thể dẫn cuộc chiến tranh Việt Nam theo một ngả khác. Đó là „Tuần lễ Kosygin“ (Kosygin Week)[2] mà báo chí quốc tế từng nhắc đến.

Thủ tướng Anh nhiệm kỳ 1964-1970, Harold Wilson, một chính khách thuộc Công đảng Anh, muốn hóa giải mối thù địch Việt - Mỹ và kết thúc cuộc chiến bằng đàm phán. Từ năm 1966 ông đã bày tỏ ý đồ này với Tổng thống Mỹ J.B. Johnson. Nhưng quan hệ giữa Johnson và Wilson không nồng thắm, vì Wilson không đồng ý để quân đội Anh dính líu vào cuộc chiến ở Việt Nam (khác hẳn với Úc, New Zealand hay Nam Triều Tiên đã đưa quân sang đó). Thực chất là Wilson không ủng hộ chính sách leo thang chiến tranh của Johnson.[3]  

Một trong những điều cổ vũ Wilson làm việc này là các cuộc ngừng bắn „Tết“ đã được hai bên Việt Cộng và Sài Gòn thực hiện trong những năm qua. Tết Đinh Mùi đầu năm 1967, hai bên cũng thỏa thuận ngừng bắn trong bốn ngày, bắt đầu từ 08.02 (tức 30 Tết) đến hết ngày 12.02 (Mồng Ba tết). Wilson biết trước điều này nên ông dự định sẽ tận dụng không khí hòa hoãn ở chiến trường để thuyết phục thủ tướng Liên Xô  Kosygin ủng hộ sáng kiến của ông trong chuyến thăm London từ 06.02. đến 13.02. 1967. 

Do được Wilson thông báo trước về „Tuần lễ Kosygin“ nên tổng thống Johnson đã cử Chester Cooper, cố vấn anh ninh quốc gia sang London tham dự cuộc đàm phán Xô-Anh. 

Cả Cooper và đại sứ Mỹ tại Anh là David Bruce đều ủng hội sáng kiến ngoại giao của Wilson. Chính Cooper đã giúp Wilson đưa ra thỏa thuận:  Đầu tiên Mỹ sẽ nhân cuộc ngừng bắn này, tiếp tục dừng ném bom miền Bắc Việt Nam sau ngày 12.02 để đổi lại một thỏa thuận ngầm của Hà Nội là sẽ ngừng đưa quân thâm nhập miền Nam. Nếu điều đó xảy ra, Mỹ sẽ không tiếp tục đưa quân sang Việt Nam và cuộc chiến sẽ xuống thang.[4]

Trong phiên đàm phán đầu tiên khi mới đặt chân đến London, Thủ tướng Kosygin không tỏ ra mặn mà với sáng kiến của Anh về Việt Nam. Wilson không bỏ cuộc. Những ngày sau đó, bên cạnh các đàm phán về quan hệ song phương Xô-Anh, vấn đề Việt Nam luôn được đưa vào tâm điểm.

Đến ngày 10.02 thì Kosygin cảm thấy Wilson thật lòng. Hơn nữa vụ ngưng bắn êm đẹp Tết Đinh Mùi khiến ông và điện Kremlin yên tâm. Kosygin đồng ý thúc đẩy Hà Nội chấp nhận thương thuyết chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Ngay lập tức, Kosygin ra lệnh cho các kênh ngoại giao Xô Viết chuyển đề nghị ngừng bắn, gọi là „Thỏa thuận Wilson-Kosygin“ cho Hà Nội. Ngày nay các nguồn tin độc lập của Mỹ xác nhận rằng điều đó đã xảy ra.

Cả Anh và Mỹ đều ngạc nhiên thú vị về thái độ của Kosygin. Đây là lần đầu tiên LIên Xô đảm nhận vai trò tích cực trong việc chấm dứt cuộc chiến này. Đại sứ Mỹ Bruce ca ngợi: Đây sẽ là thắng lợi ngoại giao lớn nhất thế kỷ.

Nhưng không ngờ hai hôm sau chính Nhà Trắng lại gây trở ngại. Tổng thống Johnson cho rằng leo thang ném bom phá hủy các đường mòn sẽ buộc Bắc Việt ngừng đưa quân vào Nam. Ngừng không kích vào lúc này sẽ bất lợi cho phía Mỹ. 

10 giờ đêm ngày 12.02.1967, một ngày trước khi Kosygin rời London, cũng là ngày hết hạn ngừng bắn ở Việt Nam, Johnson gửi điện cho Wilson[5] yêu cầu sửa đổi nội dung thỏa thuận trên thành: Hà Nội phải ngừng thâm nhập vào miền Nam trước, nếu không Mỹ lại tiếp tục ném bom!

Kể cả trong thời đại internet như ngày nay, một quyết định ngoại giao như vậy là quá ngắn ngủi để các bên liên quan ở 4 múi giờ khác nhau có thể phản ứng kịp, chưa kể gì đến các bất đồng.

Cả Cooper và đại sứ Bruce được miêu tả là rất thất vọng, còn Wilson thì vô cùng tức giận với thái độ của Washington.

Có ý kiến cho rằng, thất bại của „Tuần Kosygin“ khiến cuộc chiến Việt Nam tốn thêm rất nhiều máu. Đặc biệt là cuộc tấn công tết Mậu Thân 1968 đã gây tốn thất nặng nề về người và của cho cả hai bên. Phải chăng tổn thất này đã buộc cả hai bên tiến hành hòa đàm Paris vào tháng 5.1968? 

Hay „Tuần Kosygin“ đã đặt những viên gạch đầu tiên cho con đường tới hiệp định Paris?

Là thanh niên mới lớn lên vào năm 1967, nhưng tôi đã biết rõ quyết tâm của Hà Nội nhằm giải quyết cuộc chiến bằng vũ trang. 

Lịch sử đã đi con đường của nó.

Giờ đây, khi đi tìm dấu vết của của người con gái hàng xóm hay gặp khi đổ rác, tôi hiểu rõ hơn vai trò và nỗ lực của nước Anh trong việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Tân Quy tháng 3.2021

Tòa Đại sứ Anh ở 16 Lý Thường Kiệt, ảnh do René Guérineau, một nhà ngoại giao Pháp chụp năm 1988.

Bài trước: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/5577933245558036

Bài trên BBC: https://www.facebook.com/BBCnewsVietnamese/posts/4393101724035869

----

[1]John Colvin, “Twice Around the World: Some Memoirs of Diplomatic Life in North Vietnam and Outer Mongolia” London: Leo Cooper, 1991.(Hai lần vòng quanh thế giới: Một số kỷ niệm về cuộc sống ngoại giao ở Bắc Việt Nam và Ngoại Mông)

[2] https://academic.oup.com/.../article.../27/1/113/365033...

[3] https://www.manchesteropenhive.com/.../9781526137203... 

[4] https://www.nytimes.com/.../wilson-says-us-undercut-67...

[5] https://history.state.gov/historicaldo.../frus1964-68v05/d70

No comments:

Post a Comment