Thế giới ko có người DT chắc chắn sẽ là 1 nơi hoàn toàn khác
----------
Giới thiệu - Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là gì?
Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là phong trào giải phóng dân tộc Do Thái. Tên gọi "Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái" bắt nguồn từ "Zion" (phát âm là "Tzyion" trong tiếng Do Thái), một ngọn đồi ở Jerusalem. Từ này có nghĩa là "dấu mốc" hoặc kỷ niệm. "Shivath Tzion" là một trong những thuật ngữ truyền thống dùng để chỉ sự trở về của những người Do Thái lưu vong. "Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái" không phải là một phong trào tư tưởng duy nhất. Nó bao gồm, ví dụ, những người theo chủ nghĩa Phục quốc xã hội chủ nghĩa như Ber Borochov, những người theo chủ nghĩa Phục quốc tôn giáo như các giáo sĩ Do Thái Kook và Reines, những người theo chủ nghĩa dân tộc như Zeev Jabotinsky và những người theo chủ nghĩa Phục quốc văn hóa, tiêu biểu là Asher Ginsberg (Ahad Ha'am). Tư tưởng Phục quốc Do Thái phát triển theo thời gian và chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng như các phong trào xã hội và văn hóa phổ biến ở châu Âu vào các thời điểm khác nhau, bao gồm chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa thực dân, và mang những "hương vị" khác nhau tùy thuộc vào quốc gia xuất xứ của các nhà tư tưởng và các trào lưu trí thức đương đại thịnh hành. Theo đó, không một cá nhân, ấn phẩm, trích dẫn hay tuyên bố nào nên được coi là hiện thân của hệ tư tưởng Phục quốc Do Thái "chính thức".
Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là câu chuyện thành công về mặt tư tưởng của thế kỷ 20. Nó đã vượt qua những trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua để hiện thực hóa một giấc mơ bất khả thi. Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái không phải là một âm mưu độc hại, nhưng nó đã gây ra sự phản đối vì thành công của nó. Bài phân tích ngắn gọn này sẽ thảo luận về lịch sử của phong trào Phục quốc Do Thái, và cho thấy cách nó đã tạo ra Israel hiện đại và đến lượt nó được định hình lại bởi thực tế mới mang tính cách mạng mà nó đã tạo ra.
Hình ảnh: Getty Images
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Quá trình phát triển của chủ nghĩa phục quốc Do Thái gồm nhiều giai đoạn với nhiều khác biệt, chịu ảnh hưởng từ diễn biến của các sự kiện bên ngoài cũng như những thay đổi mà chính chủ nghĩa phục quốc Do Thái mang lại.
---------
Thời kỳ Tiền chủ nghĩa Phục quốc Do Thái/Pre-Zionism
Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là sản phẩm tự nhiên của nền văn hóa Do Thái lưu vong. Nó không xuất hiện một cách trọn vẹn từ hư không với sự ra đời của phong trào Phục quốc Do Thái vào năm 1897. Tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, bị những người chống chủ nghĩa Phục quốc Do Thái phản đối, người Do Thái là một dân tộc, một quốc gia gắn liền với một vùng đất cụ thể, chứ không chỉ là một tôn giáo. Thật sai lầm khi nghĩ rằng tư tưởng này ra đời vào thế kỷ 19. Kể từ khi người La Mã lưu đày người Do Thái khỏi vùng đất mà người Do Thái gọi là Judea và người La Mã gọi là Palestin, người Do Thái đã gọi những vùng đất bên ngoài Judea hay Israel là Gola, nghĩa là "lưu đày" thay vì "Diaspora" (nghĩa là phân tán), và gọi tình trạng của họ là "Galut". Cả hai đều là những thuật ngữ mang hàm ý tiêu cực và cay đắng. Do đó, ngầm hiểu rằng có một vùng đất mà người Do Thái đã bị lưu đày và họ hiểu rằng mình thuộc về nơi đó.
Người Do Thái đã sống ở "Eretz Yisrael" (vùng đất Israel, được người La Mã và Hy Lạp gọi là "Palestin") từ khoảng năm 1200 TCN. Vùng đất Israel nằm ở ngã ba đường giữa Trung Đông và Địa Trung Hải, và do đó đã bị chinh phục nhiều lần: bởi người Ai Cập, người Hittite, người Assyria, người Babylon, người Ba Tư, người Seleucid Hy Lạp và người La Mã, cũng như người Philistine xâm lược. Trong số đó, chỉ có người Do Thái mới biến vùng đất này thành quê hương của họ. Văn hóa dân tộc Do Thái, hòa quyện với tôn giáo, xoay quanh địa lý, mùa màng và lịch sử của vùng đất và của người Do Thái trên mảnh đất đó. Người Do Thái đã tạo ra Kinh Thánh Cựu Ước - Tanach, mô tả lịch sử của họ, lịch sử của vùng đất, và mối liên hệ của họ với nó. Kinh Thánh đã hình thành nên xương sống của văn hóa Do Thái và sau này trở thành xương sống của văn hóa Kitô giáo phương Tây, để cả thế giới nhận ra mối liên hệ giữa người Do Thái và vùng đất của họ. Khi người La Mã chinh phục Palestin, và người Do Thái bị lưu đày đến các vùng đất lưu vong, mối liên hệ với vùng đất này đã được lưu giữ trong Kinh Thánh, và trong những lời cầu nguyện hàng ngày kêu gọi xây dựng lại Jerusalem, và điều này được thể hiện trong các tác phẩm của các nhà thơ thời trung cổ.
Trong thời gian lưu vong, tôn giáo đã trở thành phương tiện để bảo tồn văn hóa Do Thái và mối liên hệ của người Do Thái với vùng đất cổ xưa của họ. Người Do Thái cầu nguyện nhiều lần trong ngày để xây dựng lại đền thờ, tổ chức các lễ hội nông nghiệp và cầu mưa theo mùa của vùng đất Israel cổ đại, đầy nắng ở Đông Địa Trung Hải, ngay cả ở những vùng đất băng giá xa xôi nhất của Nga. Các loại cây nghi lễ của Sukkoth được nhập khẩu từ Đất Thánh với chi phí rất lớn. Một truyền thống lấy Đất Thánh làm trung tâm vẫn tồn tại trong tư tưởng và văn chương của người Do Thái lưu vong. Truyền thống này có thể được gọi là "chủ nghĩa dân tộc nguyên thủy" bởi vì thời đó chưa có chủ nghĩa dân tộc theo nghĩa hiện đại. Nó không chỉ mang tính tôn giáo hay giới hạn trong niềm hy vọng về sự cứu chuộc của Đấng cứu thế, mà còn bao gồm nỗi khao khát về vùng đất Israel. Điều này được lưu giữ trong thơ ca của Yehuda Halevi, một bác sĩ, nhà thơ và triết gia Do Thái người Tây Ban Nha, người đã di cư đến "Đất Thánh" và qua đời tại đó vào năm 1141.
Người Do Thái vẫn duy trì mối liên hệ với Palestin, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Điều này vẫn tiếp tục ngay cả sau cuộc nổi loạn Bar Kochba năm 135, khi một lượng lớn người Do Thái bị trục xuất khỏi Palestin thuộc La Mã. Cộng đồng Do Thái ở Palestin đã hồi sinh trong những năm tiếp theo. Dưới sự cai trị của người Hồi giáo, ước tính có tới 300.000 người trước các cuộc Thập tự chinh, khoảng năm 1000 SCN. Quân Thập tự chinh đã giết hại hầu hết dân số Do Thái ở Palestin hoặc buộc họ phải lưu vong, vì vậy chỉ còn lại khoảng 1.000 gia đình sau khi Saladin tái chiếm Palestin. Cộng đồng Do Thái ở Palestin lúc thịnh lúc suy cùng với những thăng trầm của cuộc chinh phạt và khó khăn kinh tế. Một số ít người Do Thái đến đây vì tình yêu dành cho Israel, và đôi khi được khích lệ bởi lời mời của các nhà cai trị Thổ Nhĩ Kỳ khác nhau dành cho những người Do Thái châu Âu di cư đến định cư ở Tiberias và Hebron. Vào những thời điểm khác nhau, có những cộng đồng Do Thái đáng kể ở Tiberias, Safed, Hebron và Jerusalem, cùng với một số lượng lớn người Do Thái sống ở Nablus và Gaza. Một số ít người Do Thái gốc vẫn ở lại thị trấn Peki'in, những gia đình đã sống ở đó liên tục từ thời cổ đại.
Thỉnh thoảng, một số lượng nhỏ người Do Thái đến định cư tại vùng đất Israel để đáp lại lời kêu gọi của các giáo sĩ Do Thái hoặc những người theo đạo Messiah, hoặc chạy trốn khỏi sự đàn áp ở châu Âu. Bắt đầu từ khoảng năm 1700, các nhóm tín đồ do các giáo sĩ Do Thái dẫn đầu đã đến Palestin từ châu Âu và đế chế Ottoman với nhiều chương trình khác nhau. Ví dụ, Rabbi Yehuda Hehasid và những người theo ông đã định cư tại Jerusalem vào khoảng năm 1700, nhưng vị giáo sĩ đột ngột qua đời, và cuối cùng, một đám đông người Ả Rập, tức giận vì những khoản nợ chưa trả, đã phá hủy giáo đường Do Thái mà nhóm này đã xây dựng và cấm tất cả người Do Thái châu Âu (Ashkenazy) khỏi Jerusalem. Rabbi Luzatto và Ben-Attar đã dẫn đầu một cuộc di cư tương đối lớn vào khoảng năm 1740. Các nhóm và cá nhân khác đến từ Litva, Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia khác nhau ở Đông Âu.
Giữa thời kỳ lưu đày của người La Mã và sự trỗi dậy của chủ nghĩa phục quốc Do Thái hiện đại, chưa hề có một phong trào định cư trên vùng đất thánh nào thu hút được đông đảo người Do Thái châu Âu hoặc Đông phương, mặc dù nhiều người bị thu hút bởi những vị cứu tinh giả mạo như Shabetai Tzvi, người đã hứa sẽ đưa người Do Thái trở về quê hương. Đối với hầu hết người Do Thái, mối liên hệ với quê hương cổ xưa và với Jerusalem chủ yếu vẫn mang tính văn hóa và tâm linh. Trở về quê hương là một sự kiện giả định sẽ xảy ra khi Đấng cứu thế xuất hiện vào một thời điểm chưa xác định trong tương lai xa. Người Do Thái châu Âu phần lớn sống trong các khu ổ chuột. Họ không được giáo dục phổ thông, và phần lớn không tham gia vào các ngành nghề thực tế có thể chuẩn bị cho họ cuộc sống ở Palestin. Hầu hết các cộng đồng do những người định cư đầu tiên này thành lập đều gặp phải thảm họa kinh tế, hoặc bị giải tán sau động đất, bạo loạn hoặc dịch bệnh bùng phát. Các cộng đồng Do Thái ở Safed, Tiberias, Jerusalem và Hebron thường bị phá hủy bởi thiên tai và thảm họa nhân tạo, và được tái định cư nhiều lần, mỗi cộng đồng chưa bao giờ nuôi sống quá vài nghìn người vào thời kỳ đỉnh cao. Người Do Thái ở Palestin, với dân số khoảng 17.000 người vào giữa thế kỷ 19, chủ yếu sống nhờ vào sự từ thiện - tiền quyên góp của Halukka, chỉ có rất ít người tham gia vào nghề thủ công hoặc công việc sản xuất.

Hình ảnh (chọn từ net): Núi Nebo, (cao khoảng 1000 mét), chỉ cách Madaba sáu dặm về phía tây bắc Jordan, theo Kinh Thánh, là ngọn núi mà từ đó Chúa đã chỉ cho Moses Đất Hứa trước khi ông qua đời (Phục Truyền Luật Lệ Ký 34). Núi Nebo theo truyền thống là một địa điểm quan trọng cho những người theo đạo Thiên Chúa đến Đất Thánh, và là điểm dừng chân phổ biến cho các tour du lịch từ Israel đến Jordan.
(còn nữa)
Copy từ: Zionism - A History of Zionism
ReplyDeleteNhững nền văn minh đầu tiên bắt đầu với hệ thống lưu trữ bên ngoài bằng những dạng chữ viết sơ khai từ khoảng 3.500-3000 TCN. Sapiens dần dần thoát khỏi xh săn bắt & hái lượm, tiến tới sống trong những đô thị, vương quốc và đế chế.
ReplyDeleteKo chỉ bằng những nút thắt hay chữ vạch trên những phiến đất sét, những con số đã trở thành thứ ngôn ngữ thống trị thế giới cho đến nay với hệ thống nhị phân vi tính, tất cả những thay đổi này đã tác động đến cách mà con người suy nghĩ và nhìn nhận về thế giới.
Kinh Thánh đã ra đời như vậy. Và Lịch sử của người DT cũng bắt đầu bằng những sự kiện được viết trong Kinh Thánh.