Chiến tranh Yom Kippur
Chiến tranh Yom Kippur bắt đầu khi vào ngày 6 tháng 10 năm 1973 (Ngày Chuộc lỗi của người Do Thái) quân đội Syria và Ai Cập đồng loạt tung ra những cuộc tấn công, trước sự bất ngờ của Bộ Quốc phòng Israel, khiến nước này phải chịu một thất bại tạm thời. Sau 24-48 giờ đầu tiên ưu thế chuyển sang phía Israel và trong ba tuần sau đó, phe tấn công bị đẩy lùi, các vùng đất được tái chiếm và một lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc được triển khai.
Kết quả của sự sửng sốt của xã hội Israel khiến chính phủ nước này phải bắt đầu các cuộc đàm phán về an ninh cho những đường biên giới của họ. Ngày 18 tháng 1 năm 1974, một thỏa thuận giải giáp được ký kết với chính phủ Ai Cập và ngày 31 tháng 3, với chính phủ Syria. Trên bình diện quốc tế, thế giới Ả rập trả đũa bằng cách áp đặt một lệnh cấm vận dầu lửa lên các nước có quan hệ thương mại với Israel. Chính phủ Nhật Bản tuyên bố vào ngày 22 tháng 11 năm 1973 rằng họ sẽ tái lập các mối quan hệ với chính phủ Israel trừ khi nước này rút khỏi mọi vùng lãnh thổ chiếm đóng năm 1967.
Chiến hạm Mỹ thuộc Hạm đội 6 hoạt động ở phía đông Địa Trung Hải trong Chiến tranh Yom Kippur (tháng 10 năm 1973). (Andy/Naval History and Heritage)
Hiệp ước hòa bình với Ai Cập
Tháng 11 năm 1977, Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã chấm dứt 30 năm thù địch với Israel khi viếng thăm Jerusalem theo lời mời của Thủ tướng Israel Menachem Begin, người vừa nhậm chức đầu năm sau thắng lợi trong cuộc bầu cử năm 1977, trong sự kiện được gọi là Mahapakh. Trong chuyến thăm hai ngày, gồm cả một bài phát biểu trước Knesset, nhà lãnh đạo Ai Cập đã tạo ra một không khí thuận lợi mới tại Trung Đông theo đó nền hòa bình giữa Israel và các nước Ả rập láng giềng dường như đã trở thành một mục tiêu hiện thực. Sadat công nhận quyền tồn tại của Israel và tạo ra những nền tảng cho các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Ai Cập và Israel.
Tháng 9 năm 1978, Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã mời Tổng thống Sadat và Thủ tướng Begin tới gặp cùng ông tại Trại David, và vào ngày 11 tháng 9 họ đã đồng thuận trên một khuôn khổ hòa bình giữa Israel và Ai Cập và một nền hòa bình toàn diện tại Trung Đông. Nó đã đặt ra những nguyên tắc rộng lớn và hướng lộ trình cho những cuộc đàm phán giữa Israel với các quốc gia Ả rập. Nó cũng thiết lập những khuôn khổ cho một chế độ chuyển tiếp tại Bờ Tây-Gaza với quyền tự trị toàn diện cho những người dân Palestine đang sống trên những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và cho một hiệp ước hòa bình giữa Ai Cập và Israel. Hiệp ước được Begin và Sadat ký kết ngày 26 tháng 3 năm 1979, với một chữ ký làm chứng của Tổng thống Carter. Theo hiệp ước này, Israel trao trả Sinai cho Ai Cập vào tháng 4 năm 1982. Năm 1989, Chính phủ Israel và Ai Cập ký kết một thỏa thuận giải quyết quy chế của Taba, một vùng do lịch tại Vịnh Aqaba.
Liên đoàn Ả rập đã phản ứng trước hiệp ước hòa bình bằng cách tạm ngưng quy chế thành viên của Ai Cập trong tổ chức này và rời trụ sở của nó từ Cairo tới Tunis. Sadat sau này bị các thành viên phản đối những nỗ lực tìm kiếm hòa bình của ông với Israel trong quân đội Ai Cập ám sát.

Tổng thống Jimmy Carter, Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat và Thủ tướng Israel Menachem Begin ở Trại David (tháng 9 năm 1978)
Liban và tình hình biên giới giáp với Israel
Những năm sau cuộc chiến năm 1948, biên giới của Israel với Liban khá yên tĩnh so với những đường biên giới với các quốc gia khác. Tuy nhiên, sau cuộc trục xuất những chiến binh fedayeen Palestin khỏi Jordan năm 1970 buộc họ phải tràn vào miền nam Li ban, tình trạng thù địch tại biên giới phía bắc Israel ngày càng tăng cao. Tháng 3 năm 1978, sau một loạt những vụ chạm súng giữa các lực lượng Israel và du kích Palestin tại Li ban, các lực lượng Israel đã vượt biên giới vào Liban bắt đầu Chiến dịch Litani. Sau khi Nghị quyết 425 của Hội đồng bảo an được thông qua, kêu gọi sự rút lui của Israel và thành lập Các lực lượng lâm thời Liên hiệp quốc tại Liban (UNIFIL) để giữ gìn hòa bình, Israel đã rút lui.
Tháng 7 năm 1981, sau những cuộc đấu súng khác giữa Israel và người Palestin tại Liban, phái viên đặc biệt của Tổng thống Ronald Reagan, Philip C. Habib, đã giúp đỡ dàn xếp một cuộc ngừng bắn giữa các bên. Trong thời gian này Tổ chức Giải phóng Palestin (PLO) đã tung ra các cuộc tấn công bằng rocket và pháo vào miền bắc Israel. PLO đồng thời giao chiến với các lực lượng Thiên chúa giáo Li ban.
Tháng 6 năm 1982, Israel trả đũa bằng cách xâm chiếm phần phía nam Liban trong cuộc Chiến tranh Liban 1982 nhằm tiêu diệt PLO, ban đầu chỉ là khỏi miền nam Liban nhưng sau này trên toàn diện đất nước. Một số người Liban ban đầu thực sự có cảm tình với Israel, nhưng sau đó hầu như toàn bộ người Liban cảm thấy bực bội với sự chiếm đóng của Israel. Thương tích nặng nề của Israel và sự thiếu hụt mục tiêu rõ rệt khiến sự bất bình trong nhân dân Israel về cuộc chiến cũng ngày càng gia tăng.
Tháng 8 năm 1982, PLO rút toàn bộ các lực lượng của mình khỏi Liban. Với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, Israel và Liban đã đạt được một thỏa thuận vào tháng 5 năm 1983 đặt ra tiến trình rút quân đội Israel khỏi Liban. Tuy nhiên, những văn kiện đã được phê chuẩn không bao giờ được trao đổi giữa hai bên, và vào tháng 3 năm 1984, dưới sức ép từ phía Syria, Liban đã hủy bỏ thỏa thuận này. Tháng 6 năm 1985, Israel rút đa số quân đội của mình khỏi Liban, chỉ để lại một lực lượng đồn trú nhỏ và một nhóm du kích ủng hộ Israel tại miền nam Liban trong một "vùng an ninh," mà Israel coi là miếng đệm cần thiết chống lại các cuộc tấn công vào lãnh thổ phía bắc của họ. Cuối cùng Israel đã rút toàn bộ khỏi vùng này năm 2000, dưới thời cầm quyền của Thủ tướng Ehud Barak, đáp ứng Nghị quyết 425 của Hội đồng bảo an. Từ đó Liban vẫn tuyên bố chủ quyền với một vùng nhỏ tại Cao nguyên Golan được gọi là "Shebaa Farms" mà Israel đã chiếm của Syria năm 1967.

Hình ảnh (IDF): Binh lính Israel trong Chiến tranh Liban 1982
(còn nữa)
Với sự trợ giúp của LX, lợi dụng việc Israel đang trong kỳ lễ tôn giáo và phần lớn binh lính ở nhà, Ai Cập đã phá vỡ bức tường cát tưởng chừng bất khả xâm phạm của Israel bên bờ kênh đào Suez và tiến lên thành công trên bán đảo Sinai dưới sự yểm trợ của hệ thống tên lửa LX. Các máy bay tấn công của Israel đã chịu tổn thất lớn.
ReplyDeleteIsrael từng đặt quân đội trong tình trạng báo động, nhưng không phát động chiến tranh. Vào mùa thu năm 1973, dù tình báo Israel cảnh báo Ai Cập sẽ tấn công, Thủ tướng Golda Meir không chịu ra lệnh động viên lực lượng dự bị lần nữa. Nguyên nhân là vì lần báo động sai trước đó đã tốn quá nhiều tiền. Sau chiến tranh, nhìn thấy sự chuẩn bị ban đầu còn yếu kém của quân đội và tổn thất lớn của Israel, bà từ chức, dù phần lớn trách nhiệm bà đổ lên các tướng lĩnh của mình.
Với các nước Ả Rập chống Israel, Chiến tranh Yom Kippur cho thấy lần đầu tiên trong lịch sử, Nhà nước Do Thái cũng có thể bị đánh bại. Từ thực tế này, các quốc gia Ả Rập rút ra những kết luận khác nhau. Tuy nhiên, Ai Cập và Jordan chấp nhận sự tồn tại của Israel và tìm kiếm khả năng hòa giải.
Israel đã tự tin vào sức mạnh của mình, tập trung phát triển và từng đạt mức độ tăng trưởng cao nhất và thu nhập trên đầu người cho tới năm 1973, nhưng từ đó ko bao giờ có thể quay về mức cũ nữa. Tăng trưởng GDP thường có biến động, nói chung trong khoảng 2 đến 5 phần trăm, đạt tới mức 7.5 phần trăm năm 2000. Tới cuối thế kỷ 20, thu nhập trên đầu người đạt mức khoảng $20.000, tương tự mức ở những nước có mức độ công nghiệp hoá cao.
Từ đó, kinh tế Israel đã chứng minh một tương lai tươi sáng, khi nó tiếp tục đưa ra và áp dụng những cải tiến kinh tế mới, và có khả năng đương đầu với những biến đổi kinh tế cho đến các ngày 6 - 8 tháng 10 năm 2023, đúng nửa thế kỷ sau Chiến tranh Yom Kippur, lại là một dịp lễ tôn giáo của người Do Thái, Lễ Lều (Sukkot), tức ngày cuối cùng của lễ hội lều và cũng là lễ hội vui mừng của Kinh Thánh Torah. Tình báo Israel không phát hiện nguy cơ nào. Hành động tấn công sớm vào sáng hôm sau của Hamas đã diễn ra suôn sẻ đến mức ngay cả lực lượng Palestin tham gia tấn công cũng bị bất ngờ.
Ngày 7 tháng 10 năm 2023 là một đòn giáng nặng nề của Hamas đối với Israel. Quân đội chỉ kịp phản ứng chậm, và lực lượng Hamas đã tạm thời chiếm các khu định cư Israel. Họ đã giết hơn một nghìn dân thường Israel vô tội, làm bị thương khoảng 3.000 người, và bắt đi hàng trăm con tin.
Thế giới Ả Rập bác bỏ Nghị quyết số 181 của LHQ (1947) về việc phân chia vùng của người DT và của người Palestin, trong khi người DT ủng hộ. Trên cơ sở đó, Israel giành chiến thắng và hậu quả là khoảng 700.000 người Ả Rập phải rời bỏ quê hương, sang tị nạn ở các nước Ả Rập khác. Khẩu hiệu của họ khi ấy là: “Người tị nạn sẽ trở về cùng với quân đội Ả Rập chiến thắng.” Vấn đề nằm ở chỗ — cả khi đó lẫn trong các cuộc chiến Ả Rập–Israel sau này — không hề có quân đội Ả Rập nào chiến thắng. Và số người Ả Rập tỵ nạn ngày càng tăng cao hơn.
ReplyDeleteViệc tuyên bố độc lập của nhà nước DT đã châm ngòi cho chiến tranh với các nước Ả Rập láng giềng. Israel đã chiến thắng và mở rộng lãnh thổ cùng với làn sóng di dời lớn của người Palestin.
ReplyDeleteVới Cuộc chiến 6 ngày, Israel đã mở rộng đáng kể biên giới sau khi chiếm đóng Bán đảo Sinai, Dải Gaza, Bờ Tây và Cao nguyên Golan.
Ko chỉ tiến hành chiến tranh, với nỗ lực hòa bình vào năm 1979, Israel và Ai Cập ký hiệp ước hòa bình, Israel trả lại Sinai để đổi lấy sự công nhận.
Năm 1993, Israel và Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) ký Hiệp định Oslo I, đặt nền móng cho việc thành lập chính phủ tự trị Palestin.
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực hòa bình, xung đột giữa Israel và Palestin vẫn tiếp tục với nhiều trở ngại và bạo lực.
Cuộc chiến Trung Đông ko chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa các dân tộc trong khu vực mà còn chứa bên trong những tham vọng để giành quyền ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu (mà những gì xảy ra trên điểm nóng này chỉ là ví dụ rõ nhất cho điều này). Và đây là cuộc chiến sống còn hiện nay. Các hệ tư tưởng chỉ che đậy bản chất thực sự của những cuộc chiến tranh này.
Năm 1978, coi Ai Cập là tiền đồn khu vực quan trọng cho các lợi ích đế quốc của Mỹ, Tổng thống Jimmy Carter đã hứa viện trợ quân sự 1 tỷ đô la mỗi năm cho Sadat nếu ông chấp nhận các điều khoản "hòa bình" với Israel.
ReplyDeleteĐể trả đũa việc Israel tiếp tục chiếm đóng Bờ Tây và Dải Gaza, người Palestin đã bắt đầu (cuộc nổi dậy) Intifada lần thứ nhất năm 1987. Israel đáp lại bằng các biện pháp quân sự và cảnh sát mạnh mẽ, nhưng không thể chấm dứt cuộc xung đột. Phong trào intifada lần thứ nhất kéo dài tới tận năm 1991.
ReplyDelete