Monday, November 17, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (07)

LỊCH SỬ KINH TẾ ISRAEL HIỆN ĐẠI

(tiếp theo)

Những thay đổi chính sách 

Nền kinh tế Israel ban đầu bị nhà nước quản lý chặt chẽ. Dần dần nó chuyển sang một nền kinh tế thị trường khá tự do (dù không hoàn toàn như vậy). Quá trình này đã bắt đầu từ thập niên 1960. Để đối phó sự thực hiện chính sách can thiệp quá đáng của chính phủ bởi những nhà làm luật, và với những thách thức đặt do do việc thành lập một liên minh thuế quan chung tại châu Âu (để dần trở thành Liên minh châu Âu ngày nay), từ đó Israel đã tiến hành một quá trình tự do hoá kinh tế từng bước. Quá trình này rõ ràng phải bắt đầu từ thương mại nước ngoài: những biện pháp hạn chế nhập khẩu được thay thế bằng việc bảo hộ bằng thuế quan, và các biện pháp bảo hộ này cũng dần giảm bớt, cả hoạt động thay đổi nhập khẩu và xuất khẩu đều được khuyến khích bằng các biện pháp tỷ giá sát thực tế hơn là bằng các biện pháp bảo hộ và trợ cấp. Nhiều thoả thuận thương mại từng phần với Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC), bắt đầu từ năm 1964, dẫn tới một Thoả thuận Tự do Thương mại (FTA) trong lĩnh vực hàng công nghiệp năm 1975, và một Thoả thuận Tự do Thương mại với Mỹ bắt đầu có hiệu lực năm 1985.

Tới cuối năm 1977 tự do hoá thương mại đã ở mức độ khá cao. Tháng 10 năm đó, Israel chuyển đổi từ hệ thống tỷ giá trao đổi cố định sang một hệ thống tỷ giá biến động, và các hạn chế áp đặt trên việc di chuyển dòng vốn được tự do hoá mạnh mẽ. Tuy nhiên, hành động này đã kéo theo một thời kỳ lạm phát nghiêm trọng khiến quá trình tự do hoá vốn lại bị tái kiểm soát. Các dòng vốn không hoàn toàn được tự do hoá cho tới đầu thế kỷ mới.

Trong suốt thập niên 1980 và 1990 những biện pháp tự do hoá mới đã được áp dụng: trong chính sách tiền tệ, trong thị trường vốn trong nước, và trong nhiều công cụ quản lý chính phủ vào hoạt động kinh tế. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế đã giảm bớt đáng kể. Mặt khác, một số chức năng kinh tế của chính phủ đã tăng lên: một hệ thống y tế quốc gia được đưa ra, dù các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế tư nhân vẫn tiếp tục tham gia vào trong hệ thống y tế quốc gia. Các khoản chi phí xã hội, như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho trẻ em, trợ cấp cho người già và hỗ trợ thu nhập tối thiểu, được mở rộng liên tục, cho tới khi chúng chiếm một phần lớn trong chi phí ngân sách nhà nước. Những khoản hỗ trợ đó, ở tầm rộng, đóng góp vào sự tiến bộ liên tục của sự đồng đều thu nhập, khiến Israel trở thành một trong những nước phát triển có tỷ lệ bất bình đẳng thu nhập tốt nhất. Tới năm 2003, 15 phần trăm ngân sách chính phủ chi cho những dịch vụ y tế, 15 phần trăm cho giáo dục và 20 phần trăm nữa cho những khoản chi thông qua Cơ quan Bảo hiểm Quốc gia.

Từ đầu năm 2003, Bộ tài chính đã tiến hành một nỗ lực lớn nhằm giảm các khoản chi phí lương, thúc đẩy sự tham gia lớn hơn vào thị trường lao động, tư nhân hoá các doanh nghiệp vẫn thuộc sở hữu của chính phủ, và giảm bớt cả quy mô các khoản thâm hụt của chính phủ cũng như của lĩnh vực công cộng. Các hành động đó là kết quả của một sự chấp nhận ý tưởng của những nhà làm luật hiện nay rằng: một nền kinh tế thị trường thực sự là cần thiết để hội nhập vào một thế giới toàn cầu hoá.

Một định chế kinh tế quan trọng là Histadrut, một liên đoàn của các liên minh lao động. Cái làm định chế này trở thành duy nhất là, bên ngoài các chức năng liên đoàn lao động, nó còn gồm cả khu vực nông nghiệp và các hợp tác xã, các doanh nghiệp xây dựng và công nghiệp lớn, và cả các định chế an sinh xã hội, gồm cả nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chính. Trong thời uỷ trị, và trong nhiều năm sau đó, Histadrut là một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế và trong việc gây ảnh hưởng tới chính sách kinh tế. Trong thập niên 1990, Histadrut bị cắt bớt nhiều hoạt động không mang tính liên đoàn lao động, và ảnh hưởng của nó trong nền kinh tế vì đó cũng có giảm sút. Các liên đoàn chính liên minh với nó vẫn có nhiều tiếng nói trong các vấn đề liên quan tới lương bổng và việc làm.

Hình ảnh: Ber Borochov (Wikipedia), một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa phục quốc xã hội chủ nghĩa/A founder of Socialist Zionism.

Những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái thuộc làn sóng nhập cư thứ hai, tức Aliya thứ hai, đến Palestin trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến năm 1914, chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, vô chính phủ và Tolstoy vốn thịnh hành ở nước Nga vào thời kỳ đó. Borochov cho rằng người Do Thái chỉ có thể tham gia vào phong trào cách mạng một cách có ý nghĩa thông qua một xã hội Do Thái tự kiểm soát cơ sở hạ tầng kinh tế của mình, bởi vì quyền lực chính trị thực sự không thể đạt được nếu không có quyền lực kinh tế thực sự, dựa trên những nỗ lực kinh tế cơ bản trong xã hội tư bản.

Những thách thức phía trước 

Tiến vào thế kỷ mới, kinh tế Israel đã chứng minh một tương lai tươi sáng, khi nó tiếp tục đưa ra và áp dụng những cải tiến kinh tế mới, và có khả năng đương đầu với những biến đổi kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế Israel cũng phải đối đầu với một số thách thức nghiêm trọng. Một số trong số đó tương tự như vấn đề mà hầu hết các nền kinh tế công nghiệp trên thế giới hiện gặp phải: làm sao để sự đổi mới diễn ra êm thấm, sự chuyển đổi từ các hoạt động truyền thống không còn mang lại nhiều lợi nhuận, sang các loại sản phẩm tinh vi và có hàm lượng công nghệ cao, với việc tái cơ cấu nguồn lao động liên quan, và sự bình đẳng trong thu nhập. Giống như các nền kinh tế nhỏ khác, Israel phải đối mặt với vấn đề làm sao hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với hai thị trường chủ chốt là EU và Mỹ, và Trung Quốc, nền kinh tế đang nổi lên để trở thành một yếu tố kinh tế mới.

Các vấn đề xã hội liên quan tới những mối quan hệ giữa Israel và các nước Ả rập láng giềng của họ. Đầu tiên là những sự liên quan tài chính của nhiều vụ xung đột và các mối đe doạ quân sự. Rõ ràng, nếu hoà bình đến với khu vực này, các nguồn tài nguyên sẽ được chuyển đổi ở hiệu suất cao hơn. Hơn nữa, đầu tư nước ngoài, vốn rất quan trọng cho sự phát triển tương lai của Israel, cũng rất nhạy cảm với sự ổn định chính trị và an ninh. Các vấn đề khác phụ thuộc vào kiểu quan hệ được thiết lập; liệu hàng hoá sẽ được vận chuyển tự do và sẽ có những người lao động làm việc giữa nhà nước Israel và một nhà nước Palestin? Liệu sẽ có những mối quan hệ kinh tế khá tự do với các nước Ả rập khác để dẫn tới một sự hội nhập sâu hơn của Israel vào vùng này, hay, như mọi người thường nghĩ, liệu định hướng thương mại của Israel sẽ tiếp tục như hiện nay, chỉ diễn ra chủ yếu với các nước công nghiệp? Nếu điều này được chứng minh là đúng, Israel sẽ phải khéo léo đối xử giữa hai ông lớn: EU và Mỹ.

Hình ảnh: Getty Images

(còn nữa)

4 comments:

  1. Chủ nghĩa phục quốc Do Thái của Đảng Lao động/Labor Zionism đóng vai trò trung tâm trong việc thành lập nhà nước Israel và vẫn là xương sống của nhà nước trong giai đoạn đầu. Haganah và Palmach, vốn là quân đội ngầm của cộng đồng Do Thái, đã được sáp nhập vào IDF. Các đội quân này đã bị giải tán, nhưng các sĩ quan của IDF vẫn là những người từng là sĩ quan trong Haganah và Palmach. Công đoàn Lao động Histadrut và các doanh nghiệp của nó đã xây dựng nên hầu hết Israel, đặc biệt là trong những năm đầu. Dấu ấn của công ty xây dựng Histadrut, Solel Boneh, đã tự hào hiện diện trên mọi dự án, từ các thị trấn dành cho người nhập cư mới ở Dimona đến các nhà thờ ở Nazereth. Đặc biệt, phong trào Kibbutz đã đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất nước trong Chiến tranh giành độc lập của Israel năm 1948 và sau đó, trong công nghiệp và chính trị. Mặc dù nhiệm vụ chính của kibbutz là định cư, nhưng vào những năm 1950, một phần tư số thành viên Knesset từ các đảng của phong trào Lao động là thành viên của kibbutz. Nhiều chính trị gia và lãnh đạo quân sự là hậu duệ của phong trào Kibbutz, bao gồm cả Moshe Dayan. Trong số tám thủ tướng của Israel, bốn người từng là thành viên kibbutz, bao gồm cả Ehud Barak. Một phần tư quân đoàn sĩ quan của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) vào năm 1967 là thành viên Kibbutz, mặc dù dân số của các kibbutz chưa bao giờ vượt quá 5% dân số Israel. Vào năm 1967, các kibbutz vẫn sản xuất một phần tư sản lượng công nghiệp của Israel.
    (copy từ net)

    ReplyDelete
  2. Tuy nhiên, phong trào Lao động Phục quốc Do Thái, vốn đã tạo ra một nhà nước và một cuộc cách mạng trong cộng đồng Do Thái, đã không thích nghi với những điều kiện thay đổi, mặc dù một số thay đổi đó là do chính họ gây ra. Trong khi việc giải thể Haganah và Palmach là hệ quả tất yếu của việc thành lập nhà nước, thì việc giải thể hệ thống giáo dục Lao động Amal thì không, đặc biệt là khi một hệ thống giáo dục tôn giáo quốc gia được phép tồn tại song song với hệ thống giáo dục thế tục, và những người Do Thái cực đoan được phép có trường học riêng. Nếu không có mạng lưới giáo dục, chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, một công cụ quan trọng để chuẩn bị cho đội ngũ cán bộ lao động tương lai, đã bị mất đi. Khi xã hội Israel ngày càng giàu có, và khi chủ nghĩa Phục quốc Do Thái mất đi tính cấp thiết của những năm đầu, thì niềm vui giản dị và sự cống hiến về mặt tư tưởng của các phong trào hướng đạo sinh trẻ như Hashomer Hatzair cũng mất đi sức hấp dẫn.
    Ở một quốc gia dân chủ, không đảng sáng lập nào nắm quyền vô thời hạn. Có lẽ việc Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái Lao động mất quyền lực chính phủ vào năm 1977 là điều không thể tránh khỏi, và những thể chế hùng mạnh mà nó từng xây dựng để hỗ trợ sự ra đời của nhà nước sẽ rơi vào cảnh hư hỏng.
    Những người chỉ trích Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái Lao động cho rằng quan điểm xã hội sai lầm và các thể chế suy tàn của nó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nó. Tuy nhiên, một yếu tố quan trọng không kém là sự thay đổi trong xã hội Israel đã lan rộng khắp đất nước sau Chiến tranh Sáu ngày. Khi rõ ràng là một cuộc đối đầu với chủ nghĩa dân tộc Ả Rập là điều không thể tránh khỏi, những người theo chủ nghĩa Phục quốc Xã hội và những người theo chủ nghĩa Phục quốc Lao động đã chia rẽ thành nhiều phe phái khác nhau. Một số nhóm khăng khăng đòi cùng tồn tại trong một nhà nước duy nhất như một nguyên tắc. Một số nhóm, đáng chú ý là đảng Mapam, ủng hộ một nhà nước song phương. Đảng Lao động (Mapai), đại diện cho trung tâm, cuối cùng ủng hộ việc phân chia Palestin và một nhà nước Do Thái, trong khi một số thành phần của phong trào "Lao động Phục quốc Do Thái" lại chủ trương "tự nguyện" di dời người Ả Rập khỏi Palestine và thậm chí còn có những quan điểm cực đoan hơn. Tuy nhiên, phần lớn phong trào Lao động Phục quốc Do Thái, dòng chính của Chủ nghĩa Phục quốc Lao động, lại cam kết theo đuổi một cách tiếp cận thực dụng để cùng tồn tại với các nước láng giềng Ả Rập của Israel. Nước Israel mà Chủ nghĩa Phục quốc Lao động tạo ra đã chiến thắng trong Chiến tranh Sáu Ngày. Những anh hùng của Chiến tranh Sáu Ngày đều là hậu duệ của Chủ nghĩa Phục quốc Lao động, và nhiều tướng lĩnh được sinh ra trong các kibbutz. Tuy nhiên, thực tế mới của sự chiếm đóng đã tạo ra một sự chia rẽ trong xã hội Israel.
    (copy từ net)

    ReplyDelete
  3. Khi Israel dần thoát khỏi cuộc xung đột kéo dài nhất kể từ Chiến tranh giành độc lập năm 1948, nền kinh tế nước này đang có những dấu hiệu phục hồi, mặc dù vẫn còn hạn chế. Khi đất nước đang tiến gần hơn bao giờ hết đến hồi kết của chiến tranh, người dân Israel đang háo hức trở lại cuộc sống thường nhật và trải nghiệm sự phục hồi kinh tế vốn chỉ có ở những quốc gia chiến thắng.
    Được coi là trụ cột của nền kinh tế Israel, các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ y tế, hàng không và quốc phòng đã phát triển trong suốt chiến tranh và dự kiến ​​sẽ tiếp tục xu hướng này ngay cả sau khi chiến sự kết thúc, bắt đầu vào ngày 7 tháng 10 năm 2023. Ví dụ, cổ phiếu của Teva Pharmaceutical Industries đã tăng vọt 26% sau khi công bố kết quả tỷ lệ thuyên giảm ấn tượng cho một loại thuốc mới điều trị viêm đại tràng và bệnh Crohn. Vị thế thị trường của Teva phản ánh khả năng phục hồi và tiềm năng tăng trưởng của bối cảnh kinh tế chung của Israel trong thời kỳ hậu chiến.
    Lược trích từ The Media Line.

    ReplyDelete
  4. Có nhiều ý kiến cho rằng: việc Israel sẽ trải qua sự phục hồi nhanh chóng hay khủng hoảng hoặc phục hồi chậm phần lớn sẽ phụ thuộc vào cách chính phủ quản lý để tài trợ cho những vấn đề thiết yếu và liệu chính phủ có ban hành các chính sách và ưu tiên khác nhau hay không khi rất nhiều nguồn lực của Israel đang được chuyển đến lĩnh vực quốc phòng.

    ReplyDelete