Saturday, December 13, 2025

Tự nhủ mỗi ngày

 HÀNH ĐỘNG CỦA BẠN SẼ QUYẾT ĐỊNH CON NGƯỜI BẠN

1. Mỗi buổi sáng phải nhắc nhở bản thân, bạn chính là người làm chủ cuộc đời của mình

Bạn chính là người làm chủ cuộc đời của mình. Bởi vậy, bạn cần tự hỏi bản thân rằng tất cả những gì bạn làm có thật sự đã tận tâm tận lực hay chưa? Bạn có cố gắng hết sức nắm bắt giành lấy cơ hội mới, hay nỗ lực hết mình để thăng tiến trong công việc? Bạn có hành động hay chỉ há miệng chờ sung, ngồi chờ đợi vận may đến với mình?

2. Kiên định sắt đá duy trì sự lạc quan

Cuộc sống của chúng ta không thiếu những lúc không như ý, khi mọi việc phát triển theo chiều hướng trái với những gì mình mong muốn. Đó là những điều bạn không thể kiểm soát được, nó sẽ luôn xuất hiện cho dù bạn có chuẩn bị kỹ càng đến đâu. Thay vì thao thức mất ngủ để lo nghĩ, chi bằng mỗi ngày hãy cố gắng ngủ sớm hơn một chút. Lúc thức dậy, tôi tin rằng các bạn sẽ có một cái nhìn mới mẻ, giúp bạn thoát khỏi cảm xúc tiêu cực đang dày vò bản thân. Điều này nghe có vẻ như đã cũ rích, nhưng bạn nhất định phải luôn giữ sự lạc quan, cho dù cơ hội thành công của bạn có nhỏ đến thế nào chăng nữa.

3. Thái độ quyết định thứ bậc của cá nhân trong xã hội, chứ không phải là tài năng thiên bẩm

Có một ông chủ đã viết câu nói này cho tôi ở phần cuối của email. Tôi cảm thấy câu nói này rất giá trị nên muốn chia sẻ lại nó cho các bạn. Nếu như bạn nuôi dưỡng bản thân bằng một thái độ sai trái, thì cho dù bạn thông minh tài năng, học ở những trường danh tiếng hay có trong tay hàng loạt những kinh nghiệm làm việc ở những công ty danh giá, tôi dám chắc bạn sẽ không thể đạt được một vị trí cao trong công việc. Thái độ quyết định tất cả, xin hãy nhớ lấy điều ấy.

4. Mục tiêu bạn đặt ra phải cao hơn kỳ vọng lớn nhất trong tương lai của bạn

Chúng ta thường tự hạ thấp năng lực thực sự của bản thân bằng cách đặt cho mình những cột mốc phấn đấu quá dễ dàng. Hãy thử thách bản thân bằng những mục tiêu cao hơn kỳ vọng lớn nhất trong tương lai của bạn, tôi tin chắc bạn sẽ ngạc nhiên trước khả năng làm việc của mình.

5. Tỏ ra khiêm nhường, lắng nghe ý kiến của người khác

Mặc dù suy nghĩ lạc quan có thể làm bạn phấn chấn tinh thần, từ đó giúp bạn gặt hái được rất nhiều thành tựu, chính điều này cũng có thể làm bạn trở nên tự cao tự đại, dương dương tự đắc trước những thành quả của mình.

Dựa theo kinh nghiệm của một số doanh nhân thành đạt, những người thành công nhất thường biết cách lắng nghe ý kiến của người khác. Thay vì trở nên quá tự tin trước năng lực của bản thân, bạn hãy tiếp thu những góp ý xung quanh để có thể hiểu rõ bản thân, biết được tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của bản thân mình, từ đó phát triển ngày một toàn diện hơn.

6. Bạn có thể làm bất cứ việc gì - miễn là việc đó có ý nghĩa đối với bạn

Chúng ta sinh ra trong một gia đình giàu hay nghèo, chúng ta được đi học hay không được đi học, hay bối cảnh xuất thân của chúng ta thuận lợi hay gian khó, tất cả những điều này đều không hề liên quan gì đến địa vị sau này của chúng ta trong cuộc sống.

Chỉ cần bạn yêu thích công việc của mình, bạn đã sở hữu trong tay vũ khí để đến được bất cứ địa vị nào bạn mong muốn trong cuộc sống.

7. Những khó khăn mà trời giáng xuống đầu bạn cũng chính là cơ hội để bạn trưởng thành

Chúng ta thường có xu hướng mặc nhiên cho rằng sự việc phải diễn ra theo đúng chiều hướng mình mong muốn. Lúc sự việc xảy ra không thuận lợi, chúng ta sẽ cảm thấy mất niềm tin vào cuộc sống, và ngay lập tức nhụt chí và trở nên quá yếu đuối để ứng phó những vấn đề có thể diễn ra.

Tuy nhiên, sau đó vài năm, khi chúng ta nhìn lại những gì đã qua, tôi tin rằng những bất lợi và cản trở mà bạn đã gặp phải ngày nào sẽ trở thành một cánh cửa rộng lớn mở ra những cơ hội mới trong cuộc đời mình.

Và sau cùng, bạn sẽ nhận ra tất cả những điều bất lợi ngày nào xảy đến với bạn, lại góp phần rất lớn giúp cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn.

8. Muốn thành công, hãy đứng trên vai ông chủ

Bạn có thể làm việc ở các tập đoàn nổi tiếng hay những công ty lớn để thực hiện mục tiêu làm giàu của mình. Khi làm việc tại những môi trường này, nếu bạn muốn thành công, bạn phải biết mình muốn phát triển theo hướng nào, và làm thế nào để tận dụng triệt để hết các điều kiện hiện có của bản thân để hoàn thành công việc.

Chúng ta nên làm việc dưới trướng của một vài ông chủ để trau dồi kinh nghiệm bản thân. Ông chủ của bạn có thể là một người có trình độ chuyên môn cao, một người thấu hiểu tâm lý của nhân viên, hay thậm chí là một người vô cùng tồi tệ.

Dù ông chủ bạn thế nào, nếu bạn bình tâm suy nghĩ, bạn luôn có thể học được những bài học quý báu từ họ.

9. Thất bại không đáng sợ, nhưng bạn phải biết cách khéo léo xử lý những rủi ro

Muốn đạt được thành công, chúng ta buộc phải nếm đôi lần thất bại. Có những lúc, chúng ta gục ngã trên con đường mà mình nghĩ là chắc chắn dẫn tới vinh quang. Bạn không phải người duy nhất đâu.

Bất kể người thành công cũng đều phải trải qua vô số lần thất bại. Nhưng thay vì từ bỏ, họ kiên trì đến cùng với mục tiêu của mình. Kết quả là họ thành công và trở thành tấm gương của nhiều người. Đa phần trong số họ đều tinh nhạy trước những rủi ro mà mình phải gánh chịu.

Từ đó, họ cố gắng hết sức để giảm thiểu những rủi ro trên con đường tiến tới mục tiêu. Những thất bại trên đường đời giúp họ trau dồi thêm những bài học quý báu, điều này tạo nền tảng vững chắc cho thành công sau này của họ.

10. Kiên trì không lười biếng. Lúc bản thân ở trong nghịch cảnh, cũng không nhụt chí nản lòng

Nếu bạn có thể nhìn thấy ánh sáng của niềm hy vọng từ trong bi thương, thì một ngày nào đó hy vọng sẽ đến, thành công ngày sau sẽ càng tươi đẹp hơn. Không cần nhanh, miễn là đừng dừng lại. Hãy kiên trì trên con đường của mình, và bạn chắc chắn sẽ chạm được tới những danh vọng mà mình hằng mong muốn.

TnBS

Thursday, December 4, 2025

Robert De Niro: Cuộc đời & điện ảnh

Robert Anthony De Niro chào đời tại New York năm 1943, giữa một thành phố nơi nghệ thuật đường phố, những nhà hát cũ và những giấc mơ chưa bao giờ ngủ yên tạo nên thứ không khí nuôi dưỡng những tài năng táo bạo nhất của điện ảnh Mỹ. Ông lớn lên giữa hai người cha mẹ đều là nghệ sĩ, trong một môi trường nơi mọi cảm xúc đều có chỗ đứng, nơi sự nhạy cảm trở thành một phần của đời sống hằng ngày. Chính không khí ấy đã dệt nên tâm hồn của một diễn viên có khả năng hóa thân đến mức khiến khán giả quên mất người đang đứng trước họ là ai.

Thập niên 1970, khi điện ảnh Hollywood đang bước sang kỷ nguyên mới, De Niro xuất hiện như một làn gió mạnh mẽ. Sự kết hợp giữa trực giác diễn xuất và lao động khổ luyện đưa ông đến với những vai diễn làm thay đổi lịch sử điện ảnh: Travis Bickle trong Taxi Driver, Vito Corleone trẻ tuổi trong The Godfather Part II, Jake LaMotta của Raging Bull. Ông sẵn sàng tăng cân, giảm cân, học nghề, quan sát đời sống thực, đi sâu vào tâm lý nhân vật bằng cách mà giới phê bình gọi là “độ chính xác đáng sợ”. Vai diễn của ông không dựng lên bằng kỹ thuật, mà bằng sự đắm mình tuyệt đối vào thế giới bên trong mỗi con người.

Qua từng thập kỷ, De Niro không ngừng mở rộng biên độ sáng tạo. Khi thì là tay lưu manh đầy bản năng trong Mean Streets, khi lại là người cha với nỗi đau thầm lặng trong Awakenings, lúc khác trở thành gã gangster cô độc trong Heat hay ông trùm lạnh lùng trong Casino. Mỗi nhân vật tựa như một bức chân dung sống động của xã hội Mỹ qua từng giai đoạn. Ông góp phần định hình phong cách của đạo diễn Martin Scorsese, đồng thời trở thành một trong những diễn viên đầu tiên khiến Hollywood nhìn nhận diễn xuất như một nghệ thuật đòi hỏi sự rèn luyện nghiêm túc và chiều sâu nội tâm.

Đi qua tám mươi năm cuộc đời, gương mặt De Niro vẫn mang nguyên nét từng trải của một người đã sống trọn trong điện ảnh. Ông không chỉ để lại dấu ấn bằng những vai diễn lừng lẫy, mà còn bằng lòng kiên định với nghề trong suốt hơn nửa thế kỷ. Dù bước sang tuổi 80, ông vẫn xuất hiện trong các dự án mới, vẫn thử nghiệm, vẫn sống với điện ảnh bằng sự bền bỉ ít ai có được. Sự trưởng thành của ông không nằm trong hào quang, mà trong bước đi âm thầm của người nghệ sĩ biết rằng thời gian là người cộng sự lớn nhất để tạo ra chiều sâu.

Robert De Niro tròn 80 tuổi — một hành trình dài được viết bằng tài năng, sự tận hiến và khả năng nhìn thấy vẻ đẹp trong những nhân vật tưởng chừng khó nắm bắt nhất. Và dù điện ảnh thế giới luôn đổi thay, cái tên De Niro vẫn giữ sức hút đặc biệt như ngày ông mới bước qua sân khấu năm nào.

Pane e Vino - 3 Nguyễn Khắc Cần

Monday, December 1, 2025

Tháng cuối năm

⏳ 31 ĐIỀU CẦN LÀM TRƯỚC KHI NĂM 2025 KẾT THÚC

Năm cũ sắp khép lại - đây là lúc nhìn lại, hoàn thiện những điều còn dang dở và chuẩn bị nhẹ nhàng cho một năm mới bình yên hơn, mạnh mẽ hơn. Bạn đã sẵn sàng tick từng ô trong “Danh sách chia tay 2025” chưa?

1. Dọn lại album ảnh trong điện thoại và chọn ra một bộ “ảnh của năm” cho riêng bạn.

2. Sắp xếp lại các file rải rác trên màn hình máy tính, phân loại và lưu trữ gọn gàng.

3. Tổng hợp một danh sách đọc/xem của năm: những cuốn sách bạn đã đọc, những bộ phim và series bạn đã xem.

4. Dọn lại ghi chú trong điện thoại, hệ thống hóa những mảnh kiến thức rời rạc.

5. Tạo một “thư mục ký ức” để lưu lại những món đồ kỷ niệm ý nghĩa như vé concert, postcard…

6. Dọn bỏ 10 món đồ bạn không cần nữa hoặc đã hết hạn sử dụng.

7. Vệ sinh những góc thường bị bỏ quên trong nhà, như nóc tủ quần áo hoặc gầm giường.

8. Nhìn lại những việc trong năm chưa kịp làm hoặc những nơi chưa kịp đặt chân tới.

9.Liệt kê 10 điều khiến bạn cảm thấy tự hào nhất trong năm, dù lớn hay nhỏ đều đáng được ghi nhận.

10. Viết những điều tiếc nuối ra giấy, buông xuống “gánh nặng trong lòng” thì bạn mới có thể bước tiếp nhẹ nhàng hơn.

11. Trước khi ngủ, đừng lướt điện thoại nữa, hãy đọc vài trang sách để thay thế.

12. Thử dậy sớm hơn một tiếng và dùng khoảng thời gian đó để vận động nhẹ.

13. Ra khỏi nhà sớm hơn 5 phút, đừng cho sự trì hoãn bất kỳ cơ hội nào.

14. Đừng mãi ở lì trong nhà, hãy ra công viên gần đó đi dạo một chút.

15. Dành chút thời gian ở một mình để lắng nghe bản thân và hiểu rõ bạn thực sự muốn gì. 

16. Chủ động liên lạc với một người bạn quan trọng và trò chuyện thật chân thành.

17. Làm một việc nhỏ mà bạn muốn làm từ đầu năm nhưng vẫn chưa hoàn thành.

18. Xem một bộ phim bạn đã lưu vào danh sách từ lâu.

19. Bắt đầu đọc một cuốn sách bạn đã mua nhưng chưa từng mở ra.

20. Bỏ thói quen “để mai tính”, muốn làm gì thì hãy bắt đầu ngay hôm nay.

21. Ngày 21/12 là tiết Đông Chí, ăn một miếng bánh bao hoặc chè trôi nước nóng, rồi ước một điều nho nhỏ cho mình.

22. Tặng bản thân một cuốn lịch năm 2026. 

23. Viết ra ba “từ khóa 2026” để làm kim chỉ nam hành động cho năm mới.

24. Lên kế hoạch cho một hoạt động đón năm mới thật ý nghĩa.

25. Viết một bức thư gửi chính mình của năm 2026.

26. Mua một món quà nhỏ dành tặng đứa “mình của năm nay đã rất cố gắng”.

27. Ghi lại 10 điều nhỏ mà bạn muốn làm nhất trong năm 2026.

28. Gửi lời cảm ơn đến những người đã giúp đỡ mình rất nhiều trong năm qua.

29. Trò chuyện với người thân, bạn bè, chia sẻ cảm xúc và kỳ vọng cho năm tới.

30. Tạo một “sổ tay cảm hứng” cho riêng mình, để không bỏ lỡ bất kỳ ý tưởng thú vị nào trong năm 2026. 

31. Ngày 31/12, cùng người thân, bạn bè đón năm 2026.

TnBS

Friday, November 28, 2025

Quyền tồn tại của Israel và Nhà nước DT trên vùng đất của mình

29/11: Câu chuyện của hai lựa chọn

78 năm trước, vào ngày 29/11/1947, Liên Hợp Quốc đã bỏ phiếu công nhận quyền của người Do Thái được tái lập một Nhà nước tại Vùng đất Israel. Quyết định này, được biết đến với tên gọi Kế hoạch Phân chia của Liên Hợp Quốc, đã mang đến cho người Do Thái và người Ả Rập một con đường hướng tới quyền tự quyết. Phía Do Thái thừa nhận kế hoạch như một sự thỏa hiệp mang tính đột phá và là sự công nhận về mặt đạo lý đối với quyền độc lập của dân tộc Do Thái trên quê hương lịch sử của họ. Phía Ả Rập bác bỏ hoàn toàn, thay vào đó chọn con đường đối đầu.

Cộng đồng Do Thái tại Vùng đất Israel, khi đó còn nhỏ bé và dễ tổn thương, đã nắm lấy cơ hội với sự khẩn trương và quyết tâm. Nhà nước Israel hiện đại đã trở thành một nền dân chủ thịnh vượng, một trung tâm toàn cầu về đổi mới, khoa học và nghệ thuật, và là một quốc gia cung cấp viện trợ nhân đạo trên khắp thế giới.

Ngược lại, thế giới Ả Rập đã phản ứng trước ngã rẽ lịch sử ấy bằng cách từ chối thỏa hiệp. Việc người Ả Rập bác bỏ kế hoạch phân chia không dẫn đến việc hình thành một nhà nước Palestine, mà là những cuộc chiến tranh, sự di dời của cả người Do Thái và người Ả Rập, và hàng thập kỷ cơ hội bị bỏ lỡ. Năm 1947, người Palestine đã có thể có một nhà nước của riêng họ bên cạnh Israel. Họ đã chọn chiến tranh thay vì điều đó. Hệ quả của lựa chọn ấy vang vọng cho đến tận ngày nay. Các lãnh đạo Palestine đã dành hàng thập kỷ và nguồn lực to lớn để cố gắng phá hủy sự tồn tại của Israel, thay vì thúc đẩy chung sống hòa bình.

Câu chuyện của Israel kể từ năm 1947 là câu chuyện về phát triển thành công thông qua sự kiên cường và bền bỉ—bằng chứng rằng sự sáng suốt về đạo đức và tinh thần thỏa hiệp thực tế có thể song hành. Israel luôn tuyên bố và thể hiện thiện chí sống trong hòa bình với các nước láng giềng Ả Rập, tìm kiếm các thỏa thuận và quan hệ hợp tác với những bên sẵn sàng lựa chọn con đường tương tự.

Ngày nay, sự tương phản trở nên rõ rệt. Israel, nhỏ bé hơn nhiều quốc gia láng giềng, đứng vững như một trung tâm công nghệ, một nền kinh tế mở. Trong khi đó, nhiều chế độ từng tuyên bố sẽ tiêu diệt Israel đã phải đối mặt với biến động chính trị, nghèo đói và xung đột nội bộ. Những ai từ chối chung sống cũng thường là những người từ chối tiến bộ.

Sự khác biệt này đặc biệt thể hiện rõ trong sự trỗi dậy của Hamas tại Dải Gaza, với hệ tư tưởng thánh chiến và cam kết công khai trong việc hủy diệt Israel. Hamas không chỉ đe dọa sự tồn vong của dân thường Israel mà còn đe dọa mọi hy vọng về chung sống hòa bình. Việc Hamas từ chối thỏa hiệp, tôn vinh bạo lực và lợi dụng người dân Palestine đã kéo dài đau khổ và cản trở mọi nỗ lực xây dựng một tương lai tích cực. Hành động của họ phản ánh phiên bản cực đoan nhất của chủ nghĩa phủ nhận bắt đầu từ năm 1947: sự từ chối hoàn toàn việc công nhận tính chính danh của Nhà nước Israel.

Di sản của ngày 29 tháng 11 nhắc nhở thế giới, đặc biệt là Trung Đông, rằng tương lai được định hình bởi những lựa chọn. Người Do Thái đã chọn sự chấp nhận, thỏa hiệp và xây dựng. Lãnh đạo Palestine đã chọn sự từ chối, phủ nhận và hủy diệt. Bảy mươi tám năm sau, kết quả của hai con đường ấy đã trở nên rõ ràng.

Sự tồn tại của Israel ngày nay không chỉ là một thực tế chính trị. Đó là một chiến thắng đạo lý, minh chứng cho sức mạnh của niềm tin, sự kiên cường và quyền tồn tại lâu đời của người dân bản địa Israel đối với Nhà nước của họ trên Vùng đất Israel. Hy vọng vẫn còn rằng một ngày nào đó, những người láng giềng Palestine sẽ đưa ra lựa chọn giống như Israel đã làm vào năm 1947: chấp nhận tính chính danh của bên kia và xây dựng một tương lai đáng để cùng nhau chia sẻ.

Đại sứ Israel tại Việt Nam

Yaron Mayer

Saturday, November 15, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (04)

THỜI KỲ CỦA NETANYAHU

Netanyahu, Thủ tướng Israel

Netanyahu lên nắm quyền lực

Tháng 2 năm 1996 người kế nhiệm Rabin, Shimon Peres, kêu gọi tổ chức bầu cử sớm. Cuộc bầu cử được tổ chức tháng 5 năm 1996 và là lần đầu tiên chức vụ thủ tướng được bầu trực tiếp, dẫn tới một thắng lợi sít sao cho lãnh đạo Đảng Likud là Binyamin (Bibi) Netanyahu cùng Liên minh Quốc gia trung hữu (Likud) của ông ta và đánh bại Peres cùng chính phủ Lao động/Meretz trung tả. Trước khi cuộc bầu cử diễn ra, các cuộc khảo sát đều cho thấy Peres sẽ chiến thắng với một tỷ lệ an toàn, nhưng một loạt các vụ đánh bom tự sát diễn ra ở thời điểm đó khiến lập trưởng của Likud về an ninh được người dân ủng hộ hơn. Hamas tuyên bố nhận trách nhiệm về đa số các vụ đánh bom này.

Dù có những quan điểm khác biệt với Hiệp ước Oslo, Thủ tướng Netanyahu tuyên bố tiếp tục tôn trọng việc áp dụng nó, nhưng thời kỳ cầm quyền của ông đã cho thấy một thời kỳ chậm lại trong Tiến trình Hòa bình. (Những người ủng hộ Netanyahu cho rằng sự chậm lại này có nguyên nhân từ chủ nghĩa khủng bố Palestin.)

Thỏa thuận Hebron và Sông Wye

Thủ tướng Netanyahu đã ký kết Nghị định thư Hebron với Chính quyền Palestin ngày 15 tháng 1 năm 1997. Nghị định thư này dẫn tới việc tái triển khai các lực lượng Israel tại Hebron và việc chuyển giao chính quyền dân sự tại đa số diện tích thuộc vùng này cho Chính quyền Palestin. Từ thỏa thuận này, đã có ba tiến trình đàm phán nhỏ giữa Israel-Palestin. Một cuộc khủng hoảng lòng tin đã xảy ra giữa các bên khi họ không thể đáp ứng những yêu cầu của nhau cũng như giải quyết những vấn đề lo ngại của phía bên kia. Tuy nhiên, Israel và Palestin đã đồng thuận, vào tháng 9 năm 1997, về một lịch trình đàm phán bốn bên tiếp theo: hợp tác an ninh trong cuộc chiến chống khủng bố; những chiến dịch tái triển khai thêm nữa của các lực lượng Israel; một "hạn chót" cho những hành động đơn phương có thể dẫn tới những dự đoán trước về các cuộc đàm phán về quy chế cuối cùng; và việc đẩy nhanh những cuộc đàm phán đó. Mỹ tìm cách thúc đẩy các bên tiếp tục áp dụng Thỏa thuận tạm thời 1995 cùng với việc đẩy nhanh các cuộc đàm phán về quy chế cuối cùng. Để vượt qua cuộc khủng hoảng lòng tin cũng như tạo bước đột phá những rào cản, Tổng thống Clinton đã đưa những sáng kiến của Mỹ nhằm khôi phục tiến trình hòa bình ra trước Thủ tướng Netanyahu và Chủ tịch Arafat tại Washington vào tháng 1 năm 1998. Những ý tưởng này bao gồm mọi lĩnh vực của lịch trình đàm phán bốn bên tháng 9 năm 1997 và sẽ cho phép việc thúc đẩy các cuộc đàm phán về quy chế cuối cùng. Người Palestin đã đồng ý với những nguyên tắc trong ý tưởng đó.

Mỹ tiếp tục thúc giục các bên liên quan đạt tới một thỏa thuận dựa trên các đề xuất của họ. Sau cuộc họp chín ngày tại Trung tâm Hội nghị Sông Wye ở Maryland, một thỏa thuận đã đạt được ngày 23 tháng 10 năm 1998. Thỏa thuận Wye dựa trên nguyên tắc nhân nhượng lẫn nhau và đáp ứng các yêu cầu chủ chốt của cả hai phía, gồm cả những biện pháp an ninh chưa từng có từ phía Palestin cũng như việc tiếp tục tái triển khai quân đội Israel tại Bờ Tây. Thỏa thuận này cũng cho phép các cuộc đàm phán về quy chế cuối cùng diễn ra vào ngày 4 tháng 5, 1999 ngày kết thúc của Thỏa thuận Tạm thời.

(còn nữa)

Friday, November 14, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (03)

Những sự kiện cuối thế kỷ 20

Chiến tranh Vùng Vịnh

Năm 1990, Iraq xâm chiếm Kuwait, dẫn tới cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh giữa Iraq và một lực lượng liên quân, do Mỹ cầm đầu. Iraq, tìm cách lôi cuốn sự chú ý của cộng đồng Ả rập và ngăn chặn các nước Ả rập tham gia Liên quân (và cả khả năng tham gia cùng Iraq), đã tấn công Israel với 39 quả tên lửa Scud. Dưới sức ép từ phía Mỹ, Israel đã không trả đũa. Thay vào đó, họ chấp nhận sự hỗ trợ bảo vệ trước những cuộc tấn công từ phía Mỹ. Một người đàn ông ở vùng lân cận Ramat Khen tại Ramat Gan đã bị một tên lửa chống tên lửa MIM-104 Patriot gây thiệt mạng khi nó đi chệch mục tiêu. Khoảng 7 tới 13 người đã chết vì ngạt do sử dụng mặt nạ phòng độc không đúng cách. Những phân tích thống kê cho thấy khoảng 30-80 cái chết khác cũng có liên quan tới các cuộc tấn công, chủ yếu do những cơn đau tim được quy cho bởi "căng thẳng thần kinh và khó thở" (Journal of the American Medical Association, Tập 273(15), 19 tháng 4 năm 1995, trang 1208-1210).

Cuộc di cư từ Liên bang xô viết cũ

Năm 1990, LX cho phép những người Xô-viết gốc DT di cư từ LX về Israel. Trước sự kiện này chính phủ Xô-viết từng cấm tất cả những người DT Xô-viết (gần ba triệu người), những người muốn được di cư, quay trở lại Israel. Hàng trăm ngàn người đã lựa chọn rời bỏ đất nước sau khi lệnh cấm bị bãi bỏ. Một số nghi ngờ đặt ra về con số người DT thực sự theo luật DT là bao nhiêu trong cuộc di cư này. Những người DT truyền thống bày tỏ quan ngại này vì những vấn đề liên quan tới sự đồng nhất trong cộng đồng DT.

Những lo ngại khác tập trung trên khả năng thích ứng với văn hóa Israel và khả năng tìm kiếm việc làm thích hợp của những người di cư. (TL Lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008 tại Wayback Machine).

Tiến trình hòa bình Trung Đông

Thắng lợi của liên quân trong cuộc chiến vùng Vịnh mở ra những khả năng mới cho một nền hòa bình khu vực, và vào tháng 10 năm 1991 Tổng thống Mỹ và LX đã cùng tham dự một cuộc gặp lịch sử tại Madrid với các nhà lãnh đạo Israel, Liban, Jordan, Syria, và Palestine. Cuộc gặp này đã trở thành nền tảng cho những cuộc đàm phán song phương và đa phương dẫn nhằm mang lại một nền hòa bình lâu dài cũng như sự phát triển kinh tế cho khu vực.

Ngày 13 tháng 9 năm 1993, Israel và PLO đã ký Tuyên bố về các Nguyên tắc (DOP) (văn bản DOP) tại Sảnh phía Nam Nhà Trắng. Tuyên bố này là một sự đột phá lớn về nhận thức đạt được sau cuộc gặp tại Madrid. Nó đưa ra những mục tiêu đầy tham vọng liên quan tới việc chuyển giao chính quyền từ phía Israel cho một nhà nước lâm thời Palestin. DOP quy định thắng 5 năm 1999 sẽ là thời gian để một thỏa thuận vĩnh viễn về quy chế cho Bờ Tây và Dải Gaza bắt đầu có hiệu lực. Israel và PLO sau này đã ký kết Hiệp ước Gaza-Jericho vào ngày 4 tháng 5 năm 1994, và Hiệp ước Chuẩn bị Chuyển giao Quyền lực và Trách nhiệm ngày 29 tháng 8, 1994, bắt đầu tiến trình chuyển giao quyền lực từ Israel cho người Palestin.

Căng thẳng với Jordan đã giảm bớt ngày 25 tháng 7, 1994 khi hai quốc gia ký Tuyên bố Washington chính thức chấm dứt tình trạng chiến tranh vốn đã tồn tại giữa họ từ năm 1948. Ngày 26 tháng 10, 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình lịch sử tại biên giới giữa hai nước, với sự chứng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, cùng với Ngoại trưởng Warren Christopher. Israel nhường một phần đất tranh cãi nhỏ cho Jordan, và hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, với đường biên giới mở và thương mại tự do. Govt Israel, Govt Jordan

Thủ tướng Yitzhak Rabin và Chủ tịch PLO Yasser Arafat đã ký kết Thỏa thuận Lâm thời Israel-Palestin mang tính lịch sử về Bờ Tây và Dải Gaza ngày 28 tháng 9 năm 1995, tại Washington, D.C.. Thoả thuận này, với sự chứng nhận của Tổng thống Bill Clinton thay mặt cho Mỹ và Nga, Ai Cập, Na Uy, cùng Liên minh châu Âu, kết hợp và thay thế cho những thỏa thuận trước đó và đánh dấu sự kết thúc giai đoạn đàm phán đầu tiên giữa Israel và PLO.

Hiệp ước mở rộng quyền tự trị của người Palestin thông qua cuộc bầu cử tự do để hình thành một hội đồng lập pháp. Nó quy định việc bầu cử và thành lập hội đồng đó, chuyển giao quyền dân sự, việc tái triển khai của Israel tại các trung tâm dân cư ở Bờ Tây, cá thỏa thuận an ninh, và hợp tác trong nhiều khu vực khác. Những cuộc đàm phán về quy chế cuối cùng bắt đầu ngày 5 tháng 5 năm 1996 tại Taba, Ai Cập. Như đã được đồng thuận trong Tuyên bố về các Nguyên tắc năm 1993, những cuộc đàm phán này sẽ giải quyết vấn đề quy chế Jerusalem, những người tị nạn Palestin, những người định cư Israel tại Bờ Tây và Dải Gaza, những thỏa thuận an ninh cuối cùng, các đường biên giới, các mối quan hệ và hợp tác với các quốc gia láng giềng, và các vấn đề liên quan tới lợi ích chung khác.

Vụ ám sát Rabin

Vụ ám sát Thủ tướng Rabin bởi một người DT cực đoan cánh hữu ngày 4 tháng 11, 1995 đã đẩy cuộc tranh luận tầm quốc gia về vấn đề tiến trình hòa bình sẽ đi đến đâu lên đỉnh điểm. Cái chết của Rabin khiến Israel bị rung động mạnh mẽ, dẫn tới một giai đoạn tự vấn quốc gia và tạo ra sự đồng thuận ở mức độ cao trong nước cao nhất ủng hộ cho tiến trình hòa bình.

Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin và Chủ tịch PLO Yasser Arafat bắt tay nhau trước sự chứng kiến ​​của Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tại Nhà Trắng năm 1993

(còn nữa)

Thursday, November 13, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (03)

Chiến tranh Yom Kippur

Chiến tranh Yom Kippur bắt đầu khi vào ngày 6 tháng 10 năm 1973 (Ngày Chuộc lỗi của người Do Thái) quân đội Syria và Ai Cập đồng loạt tung ra những cuộc tấn công, trước sự bất ngờ của Bộ Quốc phòng Israel, khiến nước này phải chịu một thất bại tạm thời. Sau 24-48 giờ đầu tiên ưu thế chuyển sang phía Israel và trong ba tuần sau đó, phe tấn công bị đẩy lùi, các vùng đất được tái chiếm và một lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc được triển khai.

Kết quả của sự sửng sốt của xã hội Israel khiến chính phủ nước này phải bắt đầu các cuộc đàm phán về an ninh cho những đường biên giới của họ. Ngày 18 tháng 1 năm 1974, một thỏa thuận giải giáp được ký kết với chính phủ Ai Cập và ngày 31 tháng 3, với chính phủ Syria. Trên bình diện quốc tế, thế giới Ả rập trả đũa bằng cách áp đặt một lệnh cấm vận dầu lửa lên các nước có quan hệ thương mại với Israel. Chính phủ Nhật Bản tuyên bố vào ngày 22 tháng 11 năm 1973 rằng họ sẽ tái lập các mối quan hệ với chính phủ Israel trừ khi nước này rút khỏi mọi vùng lãnh thổ chiếm đóng năm 1967.

Chiến hạm Mỹ thuộc Hạm đội 6 hoạt động ở phía đông Địa Trung Hải trong Chiến tranh Yom Kippur (tháng 10 năm 1973). (Andy/Naval History and Heritage)

Hiệp ước hòa bình với Ai Cập

Tháng 11 năm 1977, Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã chấm dứt 30 năm thù địch với Israel khi viếng thăm Jerusalem theo lời mời của Thủ tướng Israel Menachem Begin, người vừa nhậm chức đầu năm sau thắng lợi trong cuộc bầu cử năm 1977, trong sự kiện được gọi là Mahapakh. Trong chuyến thăm hai ngày, gồm cả một bài phát biểu trước Knesset, nhà lãnh đạo Ai Cập đã tạo ra một không khí thuận lợi mới tại Trung Đông theo đó nền hòa bình giữa Israel và các nước Ả rập láng giềng dường như đã trở thành một mục tiêu hiện thực. Sadat công nhận quyền tồn tại của Israel và tạo ra những nền tảng cho các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Ai Cập và Israel.

Tháng 9 năm 1978, Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã mời Tổng thống Sadat và Thủ tướng Begin tới gặp cùng ông tại Trại David, và vào ngày 11 tháng 9 họ đã đồng thuận trên một khuôn khổ hòa bình giữa Israel và Ai Cập và một nền hòa bình toàn diện tại Trung Đông. Nó đã đặt ra những nguyên tắc rộng lớn và hướng lộ trình cho những cuộc đàm phán giữa Israel với các quốc gia Ả rập. Nó cũng thiết lập những khuôn khổ cho một chế độ chuyển tiếp tại Bờ Tây-Gaza với quyền tự trị toàn diện cho những người dân Palestine đang sống trên những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và cho một hiệp ước hòa bình giữa Ai Cập và Israel. Hiệp ước được Begin và Sadat ký kết ngày 26 tháng 3 năm 1979, với một chữ ký làm chứng của Tổng thống Carter. Theo hiệp ước này, Israel trao trả Sinai cho Ai Cập vào tháng 4 năm 1982. Năm 1989, Chính phủ Israel và Ai Cập ký kết một thỏa thuận giải quyết quy chế của Taba, một vùng do lịch tại Vịnh Aqaba.

Liên đoàn Ả rập đã phản ứng trước hiệp ước hòa bình bằng cách tạm ngưng quy chế thành viên của Ai Cập trong tổ chức này và rời trụ sở của nó từ Cairo tới Tunis. Sadat sau này bị các thành viên phản đối những nỗ lực tìm kiếm hòa bình của ông với Israel trong quân đội Ai Cập ám sát.

Tổng thống Jimmy Carter, Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat và Thủ tướng Israel Menachem Begin ở Trại David (tháng 9 năm 1978)

Liban và tình hình biên giới giáp với Israel 

Những năm sau cuộc chiến năm 1948, biên giới của Israel với Liban khá yên tĩnh so với những đường biên giới với các quốc gia khác. Tuy nhiên, sau cuộc trục xuất những chiến binh fedayeen Palestin khỏi Jordan năm 1970 buộc họ phải tràn vào miền nam Li ban, tình trạng thù địch tại biên giới phía bắc Israel ngày càng tăng cao. Tháng 3 năm 1978, sau một loạt những vụ chạm súng giữa các lực lượng Israel và du kích Palestin tại Li ban, các lực lượng Israel đã vượt biên giới vào Liban bắt đầu Chiến dịch Litani. Sau khi Nghị quyết 425 của Hội đồng bảo an được thông qua, kêu gọi sự rút lui của Israel và thành lập Các lực lượng lâm thời Liên hiệp quốc tại Liban (UNIFIL) để giữ gìn hòa bình, Israel đã rút lui.

Tháng 7 năm 1981, sau những cuộc đấu súng khác giữa Israel và người Palestin tại Liban, phái viên đặc biệt của Tổng thống Ronald Reagan, Philip C. Habib, đã giúp đỡ dàn xếp một cuộc ngừng bắn giữa các bên. Trong thời gian này Tổ chức Giải phóng Palestin (PLO) đã tung ra các cuộc tấn công bằng rocket và pháo vào miền bắc Israel. PLO đồng thời giao chiến với các lực lượng Thiên chúa giáo Li ban.

Tháng 6 năm 1982, Israel trả đũa bằng cách xâm chiếm phần phía nam Liban trong cuộc Chiến tranh Liban 1982 nhằm tiêu diệt PLO, ban đầu chỉ là khỏi miền nam Liban nhưng sau này trên toàn diện đất nước. Một số người Liban ban đầu thực sự có cảm tình với Israel, nhưng sau đó hầu như toàn bộ người Liban cảm thấy bực bội với sự chiếm đóng của Israel. Thương tích nặng nề của Israel và sự thiếu hụt mục tiêu rõ rệt khiến sự bất bình trong nhân dân Israel về cuộc chiến cũng ngày càng gia tăng.

Tháng 8 năm 1982, PLO rút toàn bộ các lực lượng của mình khỏi Liban. Với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, Israel và Liban đã đạt được một thỏa thuận vào tháng 5 năm 1983 đặt ra tiến trình rút quân đội Israel khỏi Liban. Tuy nhiên, những văn kiện đã được phê chuẩn không bao giờ được trao đổi giữa hai bên, và vào tháng 3 năm 1984, dưới sức ép từ phía Syria, Liban đã hủy bỏ thỏa thuận này. Tháng 6 năm 1985, Israel rút đa số quân đội của mình khỏi Liban, chỉ để lại một lực lượng đồn trú nhỏ và một nhóm du kích ủng hộ Israel tại miền nam Liban trong một "vùng an ninh," mà Israel coi là miếng đệm cần thiết chống lại các cuộc tấn công vào lãnh thổ phía bắc của họ. Cuối cùng Israel đã rút toàn bộ khỏi vùng này năm 2000, dưới thời cầm quyền của Thủ tướng Ehud Barak, đáp ứng Nghị quyết 425 của Hội đồng bảo an. Từ đó Liban vẫn tuyên bố chủ quyền với một vùng nhỏ tại Cao nguyên Golan được gọi là "Shebaa Farms" mà Israel đã chiếm của Syria năm 1967.

Hình ảnh (IDF): Binh lính Israel trong Chiến tranh Liban 1982

(còn nữa)

Wednesday, November 12, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (02)

Chiến tranh giành độc lập 1948

Ngay sau việc tuyên bố thành lập Nhà nước Israel, các lực lượng Ai Cập, Syria, Iraq, Jordan, và Liban tấn công nhà nước mới ra đời từ mọi hướng. Trong một cuộc chiến liều lĩnh và đẫm máu đặc trưng bởi sự sử dụng nhiều loại vũ khí và những chiến thuật mưu mô, Israel cuối cùng đã đẩy lùi các lực lượng thù địch, và sau đó tiến quân chiếm một số vùng lãnh thổ vốn được quy định dành riêng cho người Ả rập theo Kế hoạch phân chia và cả thành phố Jerusalem. Một thỏa thuận ngừng bắn được ký kết giữa hai phía, và giới tuyến trở thành đường biên giới giữa Israel và các lãnh thổ Ả rập. Như một kết quả của cuộc chiến tranh năm 1948, Israel kiểm soát toàn bộ lãnh thổ đã được dành cho họ theo Kế hoạch Phân chia và đa phần lãnh thổ dành cho người Ả rập cũng như một nửa thành phố Jerusalem thuộc quyền quản lý của Liên hiệp quốc. Các vùng lãnh thổ Ả rập còn lại là Bờ Tây và Dải Gaza; Bờ Tây do Jordan quản lý, trong khi Dải Gaza thuộc quyền quản lý của Ai Cập (Để có thêm chi tiết, cần xem các bài về Chiến tranh Ả rập-Israel 1948).

Năm 1949, dưới sự bảo trợ của Liên hiệp quốc, bốn thỏa thuận đình chiến đã được đàm phán và ký kết tại Rhodes, Hy Lạp, giữa Israel và các nước lân cận là Ai Cập, Jordan, Liban và Syria. Cuộc chiến tranh giành độc lập 1948-49 dẫn tới việc lãnh thổ Israel tăng thêm 50%, gồm cả phần tây Jerusalem. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán tại Rhodes không mang lại được một thỏa thuận dàn xếp tổng thể và bạo lực dọc theo các đường biên giới tiến tục kéo dài trong nhiều năm.

Kết cục của cuộc chiến này, khoảng 711.000 người tị nạn Ả rập trở thành người tị nạn và hơn 800.000 người Do Thái cũng rơi vào tình trạng tương tự. Con số sau gồm cả toàn bộ người Do Thái phải bỏ chạy hay bị trục xuất khỏi các nước Ả rập sau khi nhà nước Israel hình thành. Những nguồn tin ủng hộ người Palestine gọi đó là những người di cư, chứ không phải người tị nạn. Những người ủng hộ Israel cho rằng đó là sự trục xuất người Do Thái khỏi những vùng đất Ả rập, nhiều cộng đồng trong số đó đã được hình thành từ hơn 2000 năm trước. Theo quan điểm của đại đa số người Ả rập sự ra đời của Israel là một nguyên nhân gây ra sự tẩy rửa sắc tộc mà mục tiêu chính là những người Palestin. Khoảng 600.000 người tị nạn Do Thái đã định cư tại Nhà nước Israel, họ không có ý định và cũng không muốn quay trở lại những quốc gia cũ; nhiều người tị nạn Ả rập, và con cháu họ, tới bây giờ vẫn là những người tị nạn sống trong những trại tị nạn do Cơ quan Cứu trợ và Lao động Liên hiệp quốc cho những Người tị nạn Palestin tại Cận Đông (UNRWA) thành lập. Họ là nhóm người tị nạn duy nhất không được các quốc gia thu nhận từ giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai.

Ngày 5 tháng 7 năm 1950, Knesset (Nghị viện Israel) thông qua luật hồi hương trao cho mọi người Do Thái quyền di cư tới Israel. Thậm chí trước khi luật này được thông qua, những làn sóng nhập cư đã tăng mạnh, và được chính quyền nước này hỗ trợ. Từ năm 1947 đến năm 1950 khoảng 250.000 người còn sống sót sau những vụ diệt chủng của Phát xít Đức đã quay trở về Israel. "Chiến dịch Thảm Thần" đã đưa hàng nghìn người Yemen (gốc DT) về Israel.

Những năm đầu tiên nhà nước Israel mới thành lập gặp khá nhiều khó khăn, và một chính sách thắt lưng buộc bụng được đưa ra áp dụng năm 1949, và có hiệu lực mãi tới năm 1959.

Hình ảnh (chọn từ net): Đại úy Avraham Adan dựng lá cờ Israel tại Umm Rashrash (nay là Eilat) đánh dấu kết thúc chiến tranh

Vụ Lavon

Sau khi Gamal Abdal Nasser lên cầm quyền ở Ai Cập vào năm 1952, quan hệ giữa Mỹ và Ai Cập đã được cải thiện. Điều này được coi là một mối đe dọa đối với Israel. Trong một vụ rắc rối khiến công chúng Israel xúc động khi sự thật được phơi bày, và sau đó dẫn tới sự sụp đổ của chính phủ, một nhóm cá nhân bên trong chính phủ Israel và Mossad đã âm mưu phá họai quan hệ giữa Ai Cập và Mỹ. Nhóm này đã đạo diễn một chiến dịch đánh bom chống lại các cơ sở chính phủ và dân sự Mỹ tại Ai Cập, gồm cả thư viện Mỹ tại Alexandria và Cairo, một rạp chiếu phim MGM, và các tòa nhà kinh doanh dân sự khác của Mỹ.

Chiến dịch này bị ngừng lại năm 1954 với việc Ai Cập bắt giữ hai nhân viên mật vụ đang tìm cách gài một quả bom; việc này đã dẫn tới sự tan rã của nhóm và sự bắt giữ hay hành quyết đa số thành viên của nó. Một số người cho rằng Israel đã không hành động đầy đủ để bảo vệ các nhân viên mật vụ của mình, những người bị cho là bị các cơ quan Ai Cập ngược đãi và tra tấn.

Trong cuộc điều tra sau đó, Thiếu tướng Binyamin Gibli đã tuyên bố rằng Bộ trưởng Quốc phòng, Pinhas Lavon đã ra lệnh miệng tiến hành chiến dịch này. Giám đốc Nhân sự ở thời điểm đó, Moshe Dayan, đồng ý với ý kiến này. Vì hậu quả của vụ việc, hiện được gọi là Vụ Lavon, Lavon buộc phải từ chức. David Ben Gurion lên thay thế. Năm 1960, sau khi bằng chứng mới từ một vụ xét xử kín một nhân viên mật vụ bị nghi ngờ là hai mang năm 1958, Lavon đã yêu cầu Ben Gurion tuyên bố miễn tội cho mình. Ben-Gurion đã từ chối, bởi ông không thể tin rằng các sĩ quan của quân đội Israel, do chính ông đào tạo, có thể phạm một hành động bất lương như vậy  (như Lavon dàn dựng).

Năm 1960, một ủy ban gồm bảy bộ trưởng đã tiến hành một cuộc điều tra vụ việc và tìm ra một tài liệu đã được Moshe Dayan và Shimon Peres khi ấy là Thứ trưởng Quốc phòng sử dụng, để đẩy trách nhiệm về chiến dịch Ai Cập 1954 cho Lavon. Một băng ghi âm sau đó cho thấy Peres, Dayan và Thiếu tướng Abraham Givli cũng có liên quan. Những kết luận của ủy ban được chính phủ chấp nhận. Dù có những nỗ lực nhằm che đậy các chi tiết của vụ việc dưới mác an ninh quốc gia, Vụ Lavon đã dẫn tới một scandal thứ hai và Ben Gurion buộc phải từ chức vì sự bất lực của chính phủ liên quan tới các nguyên nhân chính trị. Công chúng Israel phản ứng trước diễn biến mới của vụ việc khi họ biết sự thật của âm mưu này.

Trong cuộc bầu cử năm 1961 sau đó, Ben-Gurion đã tuyên bố rằng ông sẽ chỉ chấp nhận nhậm chức nếu Lavon rời khỏi chức vụ lãnh đạo Histadrut, tổ chức liên đoàn lao động của Israel. Những yêu cầu của ông được chấp nhận; tuy nhiên năm 1963 ông một lần nữa phải rời khỏi nhiệm sở khi vụ việc được lật lại. Những nỗ lực của ông nhằm tạo lập đảng chính trị MAPAI riêng biệt của mình để giải quyết vấn đề này trong giai đoạn 1964-1965 đã hại ông, và Ben-Gurion buộc phải ra đi.

Chiến tranh Suez 1956

Cuộc khủng hoảng Suez xảy ra khi cuộc xung đột năm 1956 giữa Israel và Ai Cập nổ ra, với việc Ai Cập đã gửi các lực lượng du kích vào trong lãnh thổ Israel và Israel tung ra những cuộc tấn công vào lãnh thổ Ai Cập để trả đũa. Ai Cập phong toả Vịnh Aqaba, và đóng cửa Kênh đào Suez với tàu bè Israel. Ai Cập cũng quốc hữu hóa kênh đào, sự việc khiến những nước châu Âu đang cai quản kênh nổi giận. Để trả đũa, Pháp và Anh Quốc ký kết một thỏa thuận mật với Israel để chiếm lại con kênh bằng vũ lực.

Theo thỏa thuận này (vốn không được chính thức công nhận cho mãi tận gần đây), Israel xâm chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai vào tháng 10 năm 1956. Các lực lượng Israel sẽ nhanh chóng tiến tới kênh đào và sau đó các lực lượng Anh và Pháp sẽ tới với lý do thiết lập lại ổn định.

Các lực lượng Israel, Pháp và Anh nhanh chóng giành thắng lợi nhưng buộc phải rút lui vào tháng 3 năm 1957 vì có áp lực từ phía đồng minh của họ là Mỹ, vốn không ủng hộ cuộc Chiến tranh Suez. The Liên hiệp quốc thành lập Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) để giữ gìn hòa bình trong vùng.

Cuộc chiến sáu ngày 

Tháng 6 năm 1967, quân đội Ả rập thống nhất triển khai với số lượng lớn dọc các đường biên giới, trong khi Ai Cập đóng cửa Eo Tiran và Nasser yêu cầu UNEF rời Ai Cập. Cuộc Chiến tranh sáu ngày bắt đầu ngày 5 tháng 6 năm đó, không quân Israel tung ra các cuộc tấn công phủ đầu phá hủy các căn cứ không quân Ai Cập, cùng ngày hôm đó họ cũng tấn công các lực lượng không quân Jordan và Syria. Sau đó Israel đánh bại (gần như liên tục) Ai Cập, Jordan và Syria. Tới ngày 11 tháng 6 các lực lượng Ả rập rút lui và tất cả các bên chấp nhận lời kêu gọi ngừng bắn của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc theo Nghị quyết 235 và 236.

Israel giành được quyền kiểm soát Bán đảo Sinai, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, và vùng Bờ Tây Sông Jordan vốn thuộc quyền kiểm soát của Jordan trước kia, gồm cả Đông Jerusalem thành nhà nước 'Đại Israel'. Ngày 22 tháng 11 năm 1967, Hội đồng bảo an thông qua Nghị quyết 242, theo công thức "đổi đất lấy hòa bình", kêu gọi thành lập một nền hòa bình công bằng và lâu dài dựa trên việc rút quân đội Israel khỏi các vùng đất chiếm đóng năm 1967 để đổi lấy việc chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa mọi quốc gia, sự tôn trọng chủ quyền của mọi nước trong vùng, và quyền sống trong hòa bình, an ninh cũng như được công nhận các đường biên giới.

Trong cuộc chiến tranh tiêu hao giai đoạn 1969-1970, máy bay Israel đã tấn công sâu vào trong lãnh thổ Ai Cập để trả đũa những vụ bắn pháo liên tục của Ai Cập vào các vị trí của họ dọc Kênh Suez. Đầu năm 1969, giao tranh nổ ra giữa Ai Cập và Israel dọc theo Kênh đào Suez. Mỹ đã giúp chấm dứt những cuộc xung đột đó vào tháng 8 năm 1970, nhưng những nỗ lực sau này của Mỹ nhằm đàm phán một thỏa thuận tạm thời để mở cửa Kênh Suez và giải giáp các lực lượng hai bên không mang lại thành công.

Máy bay chiến đấu Mirage của Israel bay qua Sinai tại biên giới Israel-Ai Cập vào ngày 5 tháng 6 năm 1967, khi Israel tấn công Ai Cập, mở đầu Chiến tranh Sáu ngày. (AFP/Getty Images)

(còn nữa)

Monday, November 10, 2025

Thế giới: Lược sử Israel (01)

Ngày Độc lập của Israel là 1 trong những ngày lễ lớn nhất của quốc gia này, trong khi với người Palestin và các quốc gia Ả Rập, thì đây là ngày tang thương.

Việc hòa giải 2 dân tộc là vấn đề ko đơn giản!

------------

Phần mở đầu

Mong ước của người Do Thái nhằm quay trở lại nơi mà họ coi là Tổ quốc theo đúng quyền lợi của họ đã được thể hiện lần đầu tiên trong thời gian chiếm đóng của người Babylon sau năm 597. Nó đã trở thành một đề tài chính của người Do Thái từ sau những cuộc chiến tranh Do Thái-La Mã, dẫn tới việc phá huỷ Jerusalem của người La Mã năm 70, và việc trục xuất người Do Thái sau đó. Cộng đồng người Do Thái và những người còn ở lại tiếp tục coi vùng đất đó là quê hương tinh thần và miền đất hứa của họ; không hề có bằng chứng về bất cứ một sự gián đoạn nào trong sự hiện hiện của người Do Thái tại vùng đất đó trong hơn ba nghìn năm qua. Trong nhiều thế hệ, chủ đề chính đa phần mang tính chất tôn giáo dựa trên lòng tin về việc người Do Thái sẽ quay trở lại Zion với sự xuất hiện của Messiah, tức là, chỉ sau khi có sự can thiệp của thần thánh; một số đã đề xuất hay cố gắng quay trở lại sớm hơn, nhưng họ chỉ là thiểu số.

Tuy nhiên, từ thời Holocaust, chủ nghĩa Do Thái đã lấn át trong những người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (Zionist). Hiện hay, tất cả những người theo phái Cải cách, Bảo thủ và Chính thống đều là người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái; và thậm chí những người Do Thái Haredi đã thay đổi từ chống Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (chống đối tích cực Chủ nghĩa phục quốc Do Thái) thành không theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái (giữ thái độ trung lập với Chủ nghĩa phục quốc Do Thái.) Những phong trào không theo Phục quốc Do Thái hiện nay rất hiếm thấy.

Tới giữa thế kỷ 19, Lãnh thổ Israel từng là một phần của Đế chế Ottoman với đa số dân Hồi giáo và Ả rập theo Thiên chúa giáo sinh sống, cũng như người Do Thái, Hy Lạp, Druze, Bedouin và các dân tộc thiểu số khác.

Tới năm 1844, người Do Thái là nhóm người đông đảo nhất (và tới năm 1890 trở thành đa số tuyệt đối) ở một số thành phố, nhất là tại Jerusalem. Hơn nữa, ngoài những cộng đồng tôn giáo truyền thống Do Thái đó, được gọi là Old Yishuv, ở nửa sau thế kỷ 19 xuất hiện một hình thức nhập cư Do Thái mới, đa số là những người cánh tả theo chủ nghĩa xã hội với mục tiêu đòi lại đất đai bằng cách lao động trên đó.

Tuyên bố Balfour năm 1917 xác nhận rằng Chính phủ Anh Quốc "nhìn nhận với sự ưu tiên việc thành lập tại Palestin một nhà nước quê hương cho người Do Thái"..."nó được hiểu rõ ràng rằng không hành động nào có thể được thực hiện nếu nó có thể làm tổn hại cho các quyền dân sự và tôn giáo của các cộng đồng không phải Do Thái đang sinh sống ở Palestin". Tuyên bố này được một số nước ủng hộ, gồm cả Hoa Kỳ và ngày càng trở nên quan trọng hơn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất khi Liên đoàn quốc gia giao cho Anh Quốc quyền ủy trị Palestin.

Vào những năm 1920, việc nhập cư của những người Do thái diễn ra khá chậm chạp. Những biến động chính trị gây ra bởi sự khủng bố của Đức Quốc xã tại châu Âu đã làm gia tăng nhanh chóng làn sóng nhập cư vào những năm 1930, cho đến khi Anh Quốc ban hành lệnh phong tỏa vào năm 1939. Chứng kiến sự tàn sát người Do thái của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cộng đồng quốc tế đã nỗ lực giúp đỡ người Do thái thoát khỏi sự phong tỏa của Anh Quốc để định cư tại Jerusalem.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh Quốc đã bày tỏ ý định muốn rút chân ra khỏi Palestin vốn đang được đặt dưới sự ủy trị của mình. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đề xuất việc chia cắt Palestin ra là hai nhà nước, Ả Rập và Do Thái cùng với khu vực Jerusalem được đặt dưới sự kiểm soát của Liên hiệp quốc.

Cuộc di cư của người Do Thái tăng dần từ thập niên 1920; về căn bản cuộc di cư này tăng chủ yếu trong thập niên 1930, vì sự bất ổn chính trị tại châu Âu với cuộc diệt chủng người Do Thái của Phát xít Đức đang diễn ra ở thời điểm đó, tới khi những biện pháp hạn chế được Anh Quốc đưa ra năm 1939. Cùng với sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ hai và sự hầu như tuyệt chủng của người Do Thái tại châu Âu với nguyên nhân từ Phát xít Đức, sự ủng hộ quốc tế cho những người Do Thái đang tìm kiếm nơi định cư tại Palestin khiến các nỗ lực của Anh nhằm ngăn chặn làn sóng này không còn kết quả.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Anh đã thông báo ý định rút lui khỏi lãnh thổ ủy trị Palestin của mình. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đề xuất việc phân chia Palestin thành hai nhà nước, một nhà nước Ả rập và một nhà nước Do Thái, với Jerusalem sẽ thuộc quyền quản lý của Liên hiệp quốc. Đa số người Do Thái tại Palestin chấp nhận đề xuất này, trong khi đa số người Ả rập tại Palestin phản đối nó. Người Ả rập hoàn toàn bác bỏ ý tưởng về một nhà nước Do Thái tại Palestin (tuy nhiên, họ không bị một ràng buộc pháp lý nào với việc chấp nhận kế hoạch bởi các nghị quyết của Đại hội đồng không mang tính bắt buộc).

Bạo lực giữa cộng đồng Ả rập và Do thái nổ ra hầu như ngay lập tức sau đó. Tới cuối thời kỳ ủy trị của Anh, người Do Thái dự định tuyên bố thành lập một nhà nước riêng rẽ, một động thái mà người Ả rập quyết tâm ngăn chặn. Ngày 14 tháng 5 năm 1948, những lực lượng Anh cuối cùng rời khỏi Palestin, và người Do Thái, dưới sự chỉ đạo của David Ben Gurion, đã tuyên bố thành lập Nhà nước Israel, theo Kế hoạch phân chia.

(còn nữa)

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Israel 

Hình ảnh: Quốc kỳ Israel (Chọn từ net)

Được mất 1 đời

 Đừng kết hôn với ai đó chỉ vì "tiềm năng"

Trong "Một đời được mất", Vãn Tình có một lời khuyên rất thấm thía về hôn nhân: Đừng mong chờ con người sẽ vì tình yêu mà thay đổi tâm tính. Bạn kết hôn với ai thì hãy kết hôn với chính con người hiện tại của người đó, chứ không phải vì phiên bản mà bạn hy vọng họ sẽ trở thành. 

Thế nên khi thấy điều gì đó không ổn thì hãy sớm buông tay. Từ bỏ một cuộc tình tồi tệ, từ bỏ một người không xứng đáng thì chẳng có gì đáng tiếc, ngược lại, bạn phải thấy may mắn vì đã có cơ hội rời đi kịp thời, nhờ vậy sau này bạn mới gặp được người tốt hơn.

Có một sự thật phũ phàng: khi kết hôn, vì kiến thức và tầm nhìn của bản thân có hạn, bạn khó nhận biết đâu là người thực sự tốt. Nếu hai người đã tương đương nhau ở thời điểm cưới, thì điều bạn chưa làm được, anh ấy cũng khó mà làm được. Ký thác kỳ vọng lên “phiên bản chưa tồn tại” của anh ấy chẳng khác nào đặt cược cả đời vào một ảo tưởng.

Phụ nữ thông minh chưa chắc đã gặp được người đàn ông hoàn hảo, nhưng chắc chắn họ sẽ không làm khổ mình bằng cách chấp nhận cả đời ở bên một người khiến cuộc sống tồi tệ hơn. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc không được xây trên tiềm năng, mà trên thực tế: anh ấy là ai, đang sống thế nào, đối xử với bạn ra sao - ngay lúc này.

Hãy nhớ, tiềm năng thì ai cũng có. Vấn đề là, không phải ai cũng biến tiềm năng thành hiện thực. Và bạn không thể đánh đổi tuổi trẻ, cơ hội, hay cả hạnh phúc của mình để chờ một người… biết đâu sẽ thay đổi.

Những gì em không chịu được trong khi yêu nhau, thì khi kết hôn sẽ còn tăng lên mấy lần. Vậy nên đừng kết hôn vì "tiềm năng".

Bloom Văn học và Nghệ thuật

Sunday, November 9, 2025

Tuổi 70: Những khám phá được đúc kết từ "Super Agers"

Bác sĩ tim mạch U80 trẻ hơn 13 tuổi nhờ 5 thói quen

Ở tuổi 71, bác sĩ Eric Topol có "tuổi tim" trẻ hơn 13 tuổi, nhờ áp dụng những thói quen mà ông tin rằng có thể giúp mọi người kéo dài 10-20 năm sống khỏe mạnh.

Bác sĩ Eric Topol. Ảnh: Dan Tuffs

Tại nhà riêng ở California, bác sĩ Topol khoe một bức ảnh trên điện thoại. Đó là dữ liệu từ chiếc nhẫn Oura, một thiết bị theo dõi giấc ngủ và sức khỏe, cho thấy tuổi tim của ông trẻ hơn 13 tuổi so với tuổi thật 71. "Thật tuyệt khi thấy điều đó", ông nói. "Mọi công sức đều được đền đáp. Tôi không cố gắng để trở thành một vận động viên thể hình, chỉ muốn sống và già đi một cách khỏe mạnh".

Mỗi ngày, ông dành một giờ cho các bài tập kết hợp sức mạnh, tim mạch và vùng cơ lõi. Ông tập với tạ, deadlifts và nhảy dây – một kỹ năng mà ông cũng phải kiên trì luyện tập từ những lần vấp ngã đầu tiên. "Một nghiên cứu trong sách cho thấy chỉ một giờ tập luyện kháng lực mỗi tuần đã làm giảm 25% nguy cơ tử vong", bác sĩ chia sẻ.

Song song đó, chế độ ăn của ông tuân thủ nguyên tắc khoa học, gồm một thực đơn Địa Trung Hải chủ yếu dựa trên thực vật, với nhiều dầu ô liu, các loại hạt, rau quả, cá và đậu. Suốt 45 năm qua, ông không tiêu thụ thịt đỏ.

Bài học sâu sắc nhất Topol nhận ra lại đến từ thời điểm khó khăn của cả thế giới. "Mãi đến khi đại dịch xảy ra, tôi mới nhận ra các mối quan hệ xã hội quan trọng như thế nào", ông bày tỏ. Sự cô đơn và cách ly xã hội, theo nhiều bằng chứng thuyết phục, gây hại cho sức khỏe không kém gì các yếu tố thể chất.

Kể từ đó, ông đã nỗ lực một cách có ý thức để vun đắp các mối quan hệ. Topol không phản đối việc thưởng thức một ly rượu vang cùng người thân, bởi ông tin rằng lợi ích từ những khoảnh khắc giao tiếp xã hội vui vẻ có thể vượt qua nguy cơ nếu tiêu thụ ở mức độ chừng mực. "Những giây phút vui vẻ bên người thân rất quan trọng, tôi không nghĩ phải bỏ hẳn rượu bia thì mới sống khỏe khi về già", bác sĩ nói.

Cuối cùng, bí quyết của Topol không chỉ nằm trong phòng gym hay trên bàn ăn, mà còn ở ngoài trời. "Chúng ta dành quá ít thời gian để hòa mình với thiên nhiên", ông trăn trở. Lợi ích của việc này đã được chứng minh rộng rãi như giúp hạ huyết áp, ngủ ngon hơn, giảm nguy cơ bệnh tim mạch và cải thiện sức khỏe tinh thần.

"Thế nên, nếu bạn muốn 'một công ba việc' để chống lão hóa", vị bác sĩ đúc kết. "Hãy đi dạo cùng một người bạn giữa thiên nhiên. Bạn sẽ được tập thể dục, được giao lưu xã hội và còn được hưởng những lợi ích từ thiên nhiên".

Bình Minh (Theo The Telegraph)

Saturday, November 8, 2025

Meet Nghĩa @ Thảo Điền: Tọa đàm về nhiều đề tài lý thú

 

Món đùi cừu nướng là đặc sản của nhà hàng


Đặc sản cừu nướng và rượu ngon là cái nền tuyệt vời của buổi tọa đàm hôm nay

Vấn đề đặt ra rất nghiêm túc


Đầu đề của 6000 cái ấy

Thursday, November 6, 2025

Những lý do máy tính bị chậm và cách khắc phục

 Máy tính chạy chậm là vấn đề nhiều người gặp phải, nhưng hoàn toàn có thể khắc phục nếu biết đúng nguyên nhân và cách xử lý phù hợp.

Thiếu RAM

RAM là bộ nhớ tạm giúp máy xử lý các tác vụ khi đang hoạt động. Nếu máy chỉ có 2–4GB RAM, việc mở nhiều phần mềm hoặc trình duyệt với nhiều tab sẽ khiến máy chậm đi rõ rệt.

Cách khắc phục:

Nâng cấp RAM lên tối thiểu 8GB nếu có thể.

Đóng bớt phần mềm không cần thiết.


Ổ cứng HDD quá chậm hoặc đã xuống cấp

Ổ cứng HDD sử dụng cơ chế quay đĩa, tốc độ truy xuất dữ liệu chậm và dễ bị phân mảnh sau thời gian dài sử dụng, khiến máy tính mất nhiều thời gian để mở tệp tin hay khởi động.

Cách khắc phục:

Nâng cấp lên ổ SSD, tốc độ nhanh gấp nhiều lần HDD.

Nếu vẫn dùng HDD, nên chống phân mảnh định kỳ bằng công cụ tích hợp trong Windows.


Máy tính nhiễm virus hoặc phần mềm độc hại

Virus, phần mềm quảng cáo hoặc mã độc có thể chạy ngầm và chiếm tài nguyên hệ thống, làm chậm máy và gây lỗi bất thường.

Cách khắc phục:

Cài đặt phần mềm diệt virus uy tín.

Quét virus thường xuyên.

Tránh tải phần mềm hoặc nhấp vào link không rõ nguồn gốc.


Có quá nhiều phần mềm chạy nền

Một số phần mềm như Skype, Zalo, Zoom… tự động khởi động khi bật máy, gây tốn tài nguyên.

Cách khắc phục:

Vào Task Manager > Startup, tắt bớt các chương trình không cần thiết.

Gỡ các phần mềm không dùng đến trong Control Panel > Programs and Features.


Máy quá nóng khiến hiệu suất giảm

Nhiệt độ cao làm CPU tự động giảm xung nhịp để bảo vệ phần cứng, khiến máy chậm lại. Nguyên nhân có thể do bụi bẩn bám vào quạt tản nhiệt hoặc keo tản nhiệt khô.

Cách khắc phục:

Vệ sinh máy định kỳ (nhất là laptop sau 1–2 năm sử dụng).

Đặt máy nơi thoáng mát, tránh bịt lỗ thông gió.

Thay keo tản nhiệt nếu máy đã quá nóng.


Ổ đĩa hệ thống (thường là ổ C) bị đầy

Khi ổ C gần đầy, Windows không đủ không gian tạm để hoạt động, làm máy chạy chậm hoặc dễ bị treo.

Cách khắc phục:

Xóa file rác, dọn thùng rác.

Dùng công cụ Disk Cleanup hoặc phần mềm như CCleaner.

Di chuyển dữ liệu sang ổ khác hoặc lưu trữ lên cloud.


Hệ điều hành và phần mềm lỗi thời

Hệ điều hành và phần mềm cũ có thể chứa lỗi, không tương thích với máy, gây ra sự cố hoặc làm giảm hiệu suất.

Cách khắc phục:

Cập nhật Windows và phần mềm thường xuyên.

Bật tự động cập nhật trong Windows Update.


Driver thiết bị chưa được cập nhật

Driver cũ hoặc bị lỗi có thể gây xung đột phần mềm, làm máy hoạt động không ổn định.

Cách khắc phục:

Cập nhật driver từ trang chính thức của hãng (Intel, AMD, NVIDIA…).

Hoặc sử dụng phần mềm hỗ trợ như Driver Booster, Snappy Driver.


Phần cứng đã cũ, yếu hoặc xuống cấp

Nếu máy quá cũ (trên 5–7 năm), CPU hoặc card đồ họa có thể không đủ mạnh cho các phần mềm hiện đại.

Cách khắc phục:

Nâng cấp phần cứng như RAM, ổ SSD.

Với máy quá cũ, hãy cân nhắc thay máy mới phù hợp với nhu cầu.

THIỆN NHÂN (T/H) - Lao Động onl

Wednesday, November 5, 2025

Đạo làm người

ĐỜI DẠY TA: LÀM NGƯỜI, ĐỪNG THẤT ĐỨC.

Đời có thể không dạy ta phải khôn ngoan từ sớm, nhưng chắc chắn sẽ dạy ta biết rằng làm người mà thất đức, thì sớm muộn cũng phải trả giá.

Có những người tưởng rằng lừa được ai đó là thắng, chiếm được lợi một chút là khôn. Nhưng họ quên rằng, luật nhân quả không cần ai ban, nó chỉ chờ đủ thời gian để quay lại một cách lặng lẽ và chính xác đến lạnh người. Đời này, có thể thoát được pháp luật, nhưng không ai thoát khỏi lòng mình, và không ai tránh được cái giá phải trả cho sự thất đức.

Làm người, không cần phải quá giỏi, nhưng nhất định phải có tâm.
Có thể nghèo tiền, nghèo của, nhưng đừng bao giờ nghèo nhân cách.
Bởi tiền bạc có thể kiếm lại, danh tiếng có thể xây lại, nhưng một khi đánh mất đức – thì chẳng còn gì để làm lại nữa.

Đời dạy ta rằng, sự thật có thể bị che giấu, nhưng không bao giờ bị chôn vùi.
Lòng người có thể đổi thay, nhưng trời đất thì có mắt.
Ai gieo điều ác, sớm muộn cũng gặp quả đắng.
Ai sống có tâm, có hậu, dù đi chậm, nhưng đường họ đi luôn thảnh thơi và an nhiên.

Người ta tưởng mạnh là khi có quyền, có tiền.
Nhưng thật ra, mạnh nhất là khi vẫn giữ được lòng thiện giữa một thế giới đầy mưu toan.
Bởi khi bạn có thể chọn cách xấu mà vẫn chọn điều đúng, đó là bản lĩnh.
Còn khi bạn vì tham mà thất đức, thì dù có giàu đến đâu, cũng chỉ là kẻ đáng thương.

Đời dạy ta đừng hơn thua bằng mưu kế, hãy hơn người bằng nhân nghĩa.
Đừng để lòng tham làm mờ mắt, và đừng để cái ác dạy mình cách sống.
Vì cuối cùng, những gì ta gieo trong đời, không mất đi, nó chỉ đang trên đường quay trở lại.

Làm người, giữ đức như giữ mạng.
Vì khi đức mất, mọi thứ còn lại cũng chỉ là vỏ rỗng của một đời.

TnBS

Tuesday, November 4, 2025

Trong dòng chảy AI

 CẢNH BÁO VỀ SỰ TRÀN LAN AI VÀ NHỮNG CÁI BẪY 

Tôi vẫn nhớ như in cái ngày đầu những năm cuối 1990s, khi nghe thấy âm thanh “rè rè” đặc trưng của chiếc modem đang kết nối Internet. Âm thanh ấy với thế hệ chúng tôi là biểu tượng của hy vọng và nỗ lực. Để tìm được một mẩu thông tin, chúng tôi phải học cách gõ những dòng lệnh, phải kiên nhẫn chờ đợi, phải tự tay lật qua hàng chục trang “rác” để tìm được một “viên ngọc” tri thức. Quá trình đó tuy mệt, nhưng rèn cho chúng tôi lòng kiên nhẫn, óc phân định và thói quen tự học.

Tri thức khi được chắt lọc từ gian khó thì sẽ thấm sâu vào máu.

Một cuộc cách mạng còn lớn hơn đang đến

Gần ba mươi năm sau, chúng ta đang đứng trước một cuộc cách mạng còn vĩ đại hơn: Trí tuệ nhân tạo - AI.

Tại Việt Nam, AI đang dấy lên như một “cơn sốt tiện lợi”. Học sinh, sinh viên dùng ChatGPT để viết luận văn trong vài phút. Dân văn phòng dùng AI để viết báo cáo, lập kế hoạch. Giới sáng tạo dùng Midjourney để “vẽ” hàng trăm bức tranh trong một giờ. Ai cũng hào hứng khoe kết quả. Ai cũng thán phục vì mình “làm được nhiều đến thế”.

Nhưng trong dòng chảy cuồn cuộn đó, tôi lo.

Tôi lo không phải vì AI quá mạnh, mà vì chúng ta đang trở nên hời hợt đến yếu đuối. Chúng ta đang say mê với “thành phẩm”, mà quên mất “quá trình”.

Chúng ta đang học cách ra lệnh (prompting) mà không học cách đặt câu hỏi (questioning).

Chúng ta đang sử dụng AI như một cỗ máy bán câu trả lời, thay vì như một người bạn để đồng tư duy.

Trên cương vị là một người làm công nghệ, và hơn hết là một người đã từng sống trong bóng tối để suy ngẫm sâu sắc về tự do và ánh sáng, tôi buộc phải lên tiếng. Nếu không, có lẽ đến lúc ta nhận ra thì đã quá muộn.

Ba tác hại nghiêm trọng nhất của việc lạm dụng AI

1. Sự xói mòn tư duy phản biện

Điều nguy hiểm nhất của AI tạo sinh không nằm ở việc nó trả lời sai, mà là nó trả lời quá trơn tru, quá hay ngay cả khi sai.

AI ngày nay khiến chúng ta bỏ qua giai đoạn vật lộn với vấn đề – vốn là thứ quan trọng nhất để hình thành tư duy. Nó không chỉ đưa ta con cá, mà còn nấu chín cá sẵn cho ta.

Một nghiên cứu của College Board (Mỹ) cho thấy: 87% giáo viên lo ngại rằng sinh viên sẽ mất khả năng tư duy phản biện nếu phụ thuộc vào AI. Trường IMD (Thụy Sĩ) cũng cảnh báo rằng: AI có thể bào mòn khả năng suy luận logic, tính sáng tạo và sự độc đáo.

Khi ta quen với việc có ngay câu trả lời sau một cú click, ta sẽ mất dần khả năng phân tích độc lập. Và từ người giải quyết vấn đề, ta thành kẻ sao chép thụ động.

2. Giảm sút trí nhớ và khả năng học tập

AI không chỉ trả lời thay bạn. Nó nhớ thay bạn.

Một nghiên cứu của MIT phát hiện: 83% người dùng AI không thể nhớ nổi đoạn văn họ vừa tạo bằng ChatGPT. Cấu trúc não bị “lười biếng”, khả năng liên kết thần kinh giảm gần một nửa.

Hiện tượng này được gọi là “giảm nhẹ nhận thức” (cognitive offloading) khi não người “khoán trắng” nhiệm vụ tư duy cho máy. Tệ hơn, tác động này không biến mất ngay cả sau khi ngừng sử dụng AI.

3. Khuếch đại thiên kiến và tạo ra buồng giam tư duy

AI học từ dữ liệu con người. Mà dữ liệu con người thì rất nhiều thiên kiến, sai sót, thậm chí độc hại. AI không có lương tri để tự lọc. Nó sẽ học và khuếch đại tất cả.

Tại Việt Nam, nếu phần lớn người dân dùng chung một vài mô hình AI phổ biến (đa phần được huấn luyện bằng dữ liệu tiếng Anh, mang thiên kiến phương Tây), chúng ta có nguy cơ bị nhốt trong một buồng giam tư duy khổng lồ. Những gì AI trả lời chỉ củng cố thêm định kiến sẵn có, khiến ta không còn khả năng mở rộng thế giới quan.

Chúng ta tưởng rằng mình đang tiếp cận tri thức nhân loại nhưng thực ra chỉ đang nhìn thế giới qua lăng kính mờ ảo của vài tập dữ liệu ngôn ngữ thống trị.

Tỉnh táo trước khi quá muộn

Tôi không chống AI. Ngược lại, tôi đang phát triển một dự án tích hợp AI với trí tuệ tự nhiên (DI - những Quy luật của vũ trụ), gọi là Ai+Di để AI trở thành công cụ khơi gợi chứ không thay thế ta suy nghĩ.

Nhưng trong lúc chờ các giải pháp như vậy chín muồi, tôi mong mỗi người Việt hãy:

 • Sử dụng AI điều độ: đừng để nó làm thay bạn. Hãy để nó gợi ý để bạn làm tốt hơn.

 • Rèn luyện phản biện: đừng tin ngay, hãy kiểm tra.

 • Tự hỏi lại: bạn đang dùng AI để tiết kiệm thời gian, hay để đánh đổi năng lực tư duy?

Một dân tộc có thể nghèo tài nguyên, thiếu vốn, thiếu công nghệ… nhưng nếu còn giữ được tinh thần độc lập tư duy, thì vẫn có thể đi lên. Nhưng một khi buông bỏ trí tuệ và phụ thuộc vào “cái dễ”, thì sẽ bị dẫn dắt và tụt hậu, không thể cứu vãn.

Đừng để sự tiến bộ về công cụ trở thành sự thoái lui về trí tuệ.

Đừng để sự tiện lợi công nghệ che khuất đi ánh sáng trong tâm trí mỗi con người.

Hãy sử dụng AI như một ngọn đèn, không phải như một cái buồng giam.

(copy từ FB-Trần Huỳnh Duy Thức)

Monday, November 3, 2025

TỈNH THỨC

DẤU HIỆU BẠN ĐANG TỈNH THỨC 

Nếu bạn có những dấu hiệu này, chúc mừng bạn sắp bước qua cánh cửa Cải Mệnh !! 

1. Bạn không còn thích tranh cãi

Bạn không phản ứng mạnh mẽ như trước đây, cũng không cần tức giận, la hét để bảo vệ cái tôi. Không còn thích hơn thua với người Bạn dần bình tĩnh hơn, thích sự nhẹ nhàng, an yên. 

2. Bạn tập trung vào chính mình 

Thay vì cố gắng thay đổi ai đó ... Bạn hiểu mỗi người đều có nghiệp, có tần số, những bài học và số mệnh riêng, nên tôn trọng hành trình mỗi người. Càng cố ép chỉ càng làm mệt mỏi cả hai. 

3. Bạn nhận ra mọi mối quan hệ đều do duyên khởi diệt. 

Mỗi người đến với mình đều có những bài học. Nên không cần cố tìm, cũng chẳng buồn khi ai đó rời đi. Ai thuộc về ta, họ sẽ tự ở lại. 

4. Bạn không còn muốn giải thích quá nhiều với người không muốn hiểu. 

Bạn tĩnh lặng hơn. Bạn cũng thấy mình sâu sắc hơn, ngộ ra nhiều bài học hơn. Không cãi lý với người đang tức giận. Cũng không cần hơn thua với ai. 

5. Bạn sống bình an hơn 

Những chuyện làm cho bạn hoảng loạn, lo sợ, hay nổi nóng trước đây... biến mất. Tâm bạn bình an hơn, đón nhận mọi điều nhẹ nhàng bình an hơn. Thấy biết ơn, không còn thấy thiếu thốn, sợ hãi. Không còn bị cảm xúc chi phối. 

6. Bạn không so sánh mình với người khác. 

Cây tùng không cần ganh tị với hoa sen - vì mỗi người có một mùa nở khác nhau. Không nói xấu người khác - kể cả trong suy nghĩ. Điều đó phản ánh chính bạn nhiều hơn là họ. 

7. Bạn nhận ra khi tỉnh thức, không phải là tha thứ cho người khác, mà là cho chính mình. 

Vì họ chịu trách nhiệm với toàn bộ mọi sự đến với mình, với cảm xúc của mình. Khi này họ không còn đóng vai nạn nhận nữa. Tha thứ là đang giải thoát cho chính mình chứ không phải là cho người khác. 

8. Chăm sóc sức khỏe. 

Yêu bản thân đúng cách. Vì ta sẽ không làm được gì nếu cả thân và tâm đều mệt mỏi. Giữ chỗ yên tĩnh trong tim. Để khi mỏi mệt, vẫn còn nơi để quay về. 

FB-Đắc Nhân Tâm

Sunday, November 2, 2025

Thế giới: Trận chiến sống còn

[BÀI PHÁT TRÊN CHƯƠNG TRÌNH PODCAST CỦA GS MERESHEIMER VỀ ẢO TƯỞNG HÒA BÌNH KINH TẾ CỦA MỸ, SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ THÁCH THỨC CHIẾN LƯỢC CỦA HOA KỲ]

Bài dưới đây là chương trình podcast phát trên kênh YouTube của Giáo sư John J. Mearsheimer vào ngày 30 tháng 10 năm 2025. Mearsheimer là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Chicago, được xem là một trong những học giả hàng đầu thế giới về chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế và là tác giả của các công trình kinh điển như The Tragedy of Great Power Politics và Why Leaders Lie. Trong số phát sóng này, Giáo sư Mearsheimer bàn sâu về ảo tưởng “hòa bình kinh tế” – niềm tin rằng: thương mại và toàn cầu hóa sẽ bảo đảm hòa bình giữa các cường quốc – và lý giải vì sao chính ảo tưởng này đã dẫn Hoa Kỳ đến đối đầu chiến lược với Trung Quốc.

ẢO TƯỞNG HÒA BÌNH KINH TẾ CỦA HOA KỲ 

Trong nhiều thập kỷ, Hoa Kỳ tin rằng: sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau với Trung Quốc sẽ đem lại hòa bình dài lâu. Học thuyết này từng hấp dẫn về mặt trí tuệ và được các nhà lãnh đạo phương Tây ca ngợi như nền tảng cho trật tự thế giới tự do hậu Chiến tranh Lạnh. Giới tinh hoa Mỹ tin rằng: thị trường có thể thuần hóa địa chính trị, thương mại sẽ biến đối thủ thành đối tác, và lợi nhuận sẽ chiến thắng quyền lực. Nhưng mọi ảo tưởng đều có giá. Ngày nay, “hóa đơn” ấy xuất hiện dưới hình thức các mức thuế quan khổng lồ, thậm chí được đề xuất ở mức 200% đối với hàng hóa Trung Quốc, như một biểu hiện của tuyệt vọng chiến lược.

Trên thực tế, hệ thống quốc tế luôn là môi trường vô chính phủ, nơi các quốc gia phải cạnh tranh để bảo đảm an ninh và ảnh hưởng. Không một thỏa thuận thương mại nào có thể thay đổi logic quyền lực đó. Washington từng tin rằng: Trung Quốc sẽ hòa nhập hòa bình vào trật tự do Mỹ dẫn dắt, dần dân chủ hóa và tuân thủ quy tắc phương Tây. Niềm tin này sai lầm ở mọi bước. Kể từ thập niên 1990, dòng vốn Mỹ đổ vào Trung Quốc vì lao động rẻ và quy mô lớn, xây dựng nền tảng sản xuất khổng lồ cho Bắc Kinh trong khi làm suy yếu ngành công nghiệp Mỹ. Lợi nhuận thay thế chiến lược, và Mỹ gọi đó là “toàn cầu hóa”, không nhận ra mình đang chuyển giao năng lực quốc gia cho một đối thủ tương lai.

Kết quả là: Trung Quốc không trở thành nền dân chủ tự do mà phát triển thành một cường quốc công nghiệp, với quân đội hiện đại hóa và chính sách đối ngoại quyết đoán hơn. Các đời tổng thống từ Clinton tới Obama đều duy trì ảo tưởng hợp tác – coi Trung Quốc là đối tác trong một thế giới hòa hợp. Nhưng theo lăng kính chủ nghĩa hiện thực, khi một quốc gia đủ mạnh, nó sẽ tìm cách tái định hình trật tự theo lợi ích của mình – và Trung Quốc đã làm đúng như vậy. Vấn đề không nằm ở ý định mà ở năng lực, và năng lực ấy đã thay đổi căn bản cán cân quyền lực toàn cầu.

SỰ TRỖI DẬY CÓ CHỦ ĐÍCH CỦA TRUNG QUỐC

Sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của chiến lược tích lũy quyền lực có hệ thống, do nhà nước chỉ đạo. Nhiều người ở Washington cho rằng: đó là hệ quả tự nhiên của thị trường, nhưng thực tế Bắc Kinh đã chủ đích tận dụng toàn cầu hóa để phục vụ cho lợi ích quốc gia. Trung Quốc không bao giờ theo đuổi chủ nghĩa tự do phương Tây; họ coi toàn cầu hóa là công cụ, không phải mục tiêu. Trong khi Mỹ tin rằng: sức mạnh quân sự và tài chính bảo đảm vị thế vĩnh viễn, Trung Quốc hiểu rằng: quyền lực thật sự bắt nguồn từ sản xuất, công nghệ, tài nguyên và kiểm soát chuỗi cung ứng chiến lược.

Từ cuối thập niên 1970, Đặng Tiểu Bình mở cửa kinh tế không nhằm thay đổi hệ tư tưởng, mà để nhập vốn, hấp thụ công nghệ và xây dựng năng lực sản xuất nội địa. Trong khi doanh nghiệp phương Tây nhìn thấy lao động rẻ, Bắc Kinh nhìn thấy con đường phục hưng quốc gia. Trung Quốc phát triển hạ tầng cảng biển, đường cao tốc, năng lượng và công nghiệp nặng, còn Mỹ lại phi công nghiệp hóa, chuyển nhà máy ra nước ngoài. Kết quả, năm 2024, Trung Quốc sản xuất hơn 1 tỷ tấn thép (chiếm 55% toàn cầu), đóng hơn 50% số tàu biển thế giới (40 triệu tấn), và sản xuất hơn 30 triệu ô tô – những con số chưa từng có trong lịch sử công nghiệp nhân loại.

Đó không chỉ là thành tựu kinh tế, mà là nền tảng quyền lực quốc gia. Trong khi giới hoạch định chính sách Mỹ tự thuyết phục rằng: nền kinh tế dịch vụ và phần mềm là đủ, Trung Quốc không bao giờ tin vào ảo tưởng đó. Khi năng lực vật chất tăng, tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh cũng mở rộng: Sáng kiến Vành đai và Con đường đầu tư hơn 1.000 tỷ USD vào năm 2024; hải quân Trung Quốc đã có thể thách thức ưu thế Mỹ ở Tây Thái Bình Dương; các tập đoàn công nghệ nội địa giảm phụ thuộc vào Mỹ. Một cường quốc đang trỗi dậy luôn hành động như vậy – chỉ có Washington là bất ngờ.

CHÍNH SÁCH CỦA TT TRUMP ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC

Khi TT Trump lên nắm quyền, giới hoạch định chính sách Mỹ coi ông là người thiếu kinh nghiệm và khó đoán. Nhưng Trump đã nhìn ra điều mà họ không: ông không tin vào bá quyền tự do hay “hòa bình thương mại”. Với ông, Trung Quốc không phải là đối tác hội nhập mà là đối thủ chiến lược, đe dọa trực tiếp sức mạnh của Hoa Kỳ. Ông không dùng ngôn ngữ học thuật của chủ nghĩa hiện thực tấn công, nhưng bản năng chính trị giúp ông nắm được quy luật cơ bản: các cường quốc không thể dung thứ một đối thủ ngang hàng.

Trump chọn chiến trường kinh tế, dùng thương mại làm công cụ chiến lược và thuế quan làm vũ khí. Nhiều người chỉ trích phương pháp này là thô thiển, nhưng ông hiểu rõ bản chất: ngoại giao kinh tế chính là phần mở rộng của địa chính trị. Khi Trump đe dọa thuế 200% đối với hàng hóa Trung Quốc, đó là tuyên bố rằng kỷ nguyên kiên nhẫn đã kết thúc. Washington từng nói toàn cầu hóa là không thể đảo ngược, nhưng Trump đã bác bỏ điều đó – nhận ra rằng Trung Quốc đã lợi dụng chính sự cởi mở của Mỹ để vươn lên.

Thuế quan, kiểm soát xuất khẩu, hạn chế đầu tư và ưu đãi tái công nghiệp hóa là một phần của chiến lược thống nhất nhằm giảm phụ thuộc vào Trung Quốc, bảo vệ năng lực công nghiệp Mỹ và tái định hướng chuỗi cung ứng toàn cầu. Ông không đảo ngược được lịch sử, nhưng đã chạm vào vấn đề cốt lõi mà giới tinh hoa Mỹ né tránh: phụ thuộc kinh tế không phải là tài sản chiến lược mà là gánh nặng.

NỖI LO CHIẾN LƯỢC TẠI WASHINGTON

Khi Washington nhận ra quy mô thực sự của sự trỗi dậy Trung Quốc, thời gian để điều chỉnh nhẹ nhàng đã qua. Trong suốt nhiều năm, các nhà hoạch định chính sách Mỹ tin rằng: hội nhập kinh tế đồng nghĩa với hòa bình. Khi ảo tưởng này sụp đổ, giới tinh hoa rơi vào trạng thái hoảng loạn. Chính sách trở thành sự pha trộn giữa phủ nhận và chia rẽ. Một phe tiếp tục bám vào mô hình toàn cầu hóa, tin rằng đối đầu với Trung Quốc là sai lầm; phe khác thừa nhận cạnh tranh là không thể tránh nhưng thiếu một tầm nhìn thống nhất.

Hệ quả là sự bất định chiến lược. Các viện nghiên cứu tung ra hàng loạt báo cáo, các bài xã luận bàn cãi nhưng không che giấu được sự thật: Hoa Kỳ đã bị bất ngờ. Lịch sử từng chứng kiến điều tương tự: đầu thế kỷ 20, Anh cũng chậm phản ứng trước sự trỗi dậy của công nghiệp Đức. Mỹ nay ở vị thế đó – vừa phụ thuộc, vừa cảnh giác.

Khi chính quyền thay đổi lập trường liên tục giữa hợp tác và đối đầu, giữa “tách rời” và “hội nhập”, sự mâu thuẫn ấy lan rộng. Đồng minh bối rối, đối thủ lợi dụng, còn thị trường quốc tế trở thành mặt trận của địa chính trị. Uy tín lãnh đạo của Mỹ vì thế bị xói mòn không phải vì yếu, mà vì không chắc chắn.

SỰ PHÁ VỠ CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU

Nền kinh tế toàn cầu chưa bao giờ là một cơ thể hòa hợp; nó phụ thuộc vào trật tự do Mỹ kiểm soát. Khi Trung Quốc dần chiếm lĩnh các tầng cao công nghệ – từ bán dẫn, năng lượng đến trí tuệ nhân tạo – cấu trúc này bắt đầu rạn nứt. Chuỗi cung ứng, từng được xem như biểu tượng của toàn cầu hóa, nay trở thành công cụ quyền lực.

Các chính sách thuế quan của Trump, đặc biệt là đe dọa mức 200% đối với hàng Trung Quốc, đã tăng tốc quá trình tách rời này. Hoa Kỳ nhận ra rằng phụ thuộc vào đối thủ chiến lược là rủi ro sinh tử. Trung Quốc nắm giữ hơn 80% công suất tinh luyện đất hiếm toàn cầu, cung cấp phần lớn dược phẩm và linh kiện điện tử cho Mỹ. Trong hòa bình, đó là “hiệu quả”; trong cạnh tranh, đó là “lỗ hổng”.

Sự dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam, Ấn Độ, Mexico hay Đông Nam Á chỉ là tạm thời. Trung Quốc sở hữu cả hệ sinh thái công nghiệp hoàn chỉnh, từ logistics đến nhân lực. Tháo dỡ nó đòi hỏi nhiều thập kỷ. Ở Mỹ, sự phi công nghiệp hóa đã để lại hậu quả xã hội nghiêm trọng: lương đình trệ, cộng đồng suy thoái, và cơn giận dữ dân túy trỗi dậy. Khi Trump làm gián đoạn hệ thống, ông thực chất chạm vào một chân lý: không quốc gia nào duy trì được vị thế lãnh đạo nếu đánh mất năng lực sản xuất.

SỰ SỤP ĐỔ CỦA BÁ QUYỀN TỰ DO

Sau Chiến tranh Lạnh, Washington tin rằng: lịch sử có hướng đi tất yếu – rằng bá quyền tự do sẽ mở rộng mãi mãi. Nhưng thực tế đã chứng minh điều ngược lại. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự kiên định của Nga, thất bại ở Iraq và Afghanistan đều cho thấy chính trị quyền lực chưa bao giờ biến mất.

Bá quyền tự do thất bại vì nó giả định rằng: các quốc gia khác sẽ chấp nhận sự thống trị của Mỹ. Nhưng theo quy luật cân bằng quyền lực, khi một nước quá mạnh, các nước khác sẽ phản ứng. Nga, Trung Quốc và thậm chí các đồng minh Mỹ đều bắt đầu tìm cách tự chủ hơn. Hoa Kỳ mở rộng quá mức ở nước ngoài trong khi đánh mất nền tảng công nghiệp trong nước – một sai lầm chí tử trong lịch sử các đế chế.

Khi TT Trump đe dọa áp thuế 200% với hàng Trung Quốc, đó không chỉ là chính sách kinh tế mà còn là dấu mốc tư tưởng: Hoa Kỳ đang rời bỏ niềm tin rằng thị trường tự do và biên giới mở có thể duy trì hòa bình. Thế giới mới nổi lên với ưu tiên khác: tự chủ chiến lược, an ninh chuỗi cung ứng, và phục hồi năng lực quốc gia. Bá quyền tự do không sụp đổ tức thì – nó đang tan rã trong im lặng, khi chính những người từng ủng hộ nó nay quay sang nói về “chính sách công nghiệp” và “khả năng phục hồi quốc gia”.

Cuối cùng, GS Mearsheimer kết luận: sự kết thúc của bá quyền tự do không có nghĩa là sự sụp đổ của Hoa Kỳ, mà là bước chuyển tất yếu sang một trật tự đa cực – nơi Mỹ chỉ còn là một cường quốc trong số các cường quốc khác. Tương lai phụ thuộc vào việc Hoa Kỳ có đủ can đảm nhìn nhận thực tế để thiết kế chiến lược mới – thực dụng hơn, khiêm tốn hơn và gần với bản chất của quyền lực hơn.

Copy từ FB-Hoàng Anh Tuấn

Saturday, November 1, 2025

Ko chỉ là phúc

NHÀ CÓ PHÚC NHỜ HÒA KHÍ, NGƯỜI CÓ PHÚC NHỜ BẠN TỐT 

Một gia đình muốn yên ấm không phải do giàu hay nghèo, mà là do hòa khí. Khi trong nhà biết nhường nhau một chút, hiểu nhau một chút, tôn trọng nhau thêm một chút, thì cái mái nhà dù đơn sơ cũng trở thành nơi chốn bình yên nhất. Hòa khí không mua được, cũng không dạy bằng lời được – nó đến từ cách mỗi người chọn cư xử: bớt nóng nảy, bớt hơn thua, bớt nói lời làm tổn thương người mình thương.

Cả đời này, ai cũng mong có một chỗ để trở về sau những giông bão ngoài kia. Và nếu trong nhà luôn ấm, luôn vui, luôn có người đợi… thì đó chính là phúc lớn nhất.

Còn đời người, ngoài gia đình thì bạn bè là thứ kết nối quan trọng nhất. Gặp được một người bạn tốt, biết nghĩ cho mình, biết chơi đẹp, biết sống tử tế – đó cũng là phúc đức không phải ai cũng có. Bạn xấu làm mình mệt, bạn giả tạo làm mình đề phòng, bạn lợi dụng làm mình tổn thương. Nhưng bạn tốt thì khác: họ cho mình năng lượng, cho mình niềm tin, kéo mình lại khi sai và nâng mình dậy khi gục ngã.

Một người may mắn không phải vì họ có nhiều mối quan hệ, mà vì họ có vài người bạn thực sự. Những người không bỏ mình khi gặp khó, không ghen tị khi mình thành công, không lợi dụng khi mình tử tế, và không xét nét khi mình sai sót.

Cuộc đời này phúc lớn nhất chính là:

Nhà lúc nào cũng êm, không khí trong nhà khiến mình muốn quay về mỗi ngày.

Bên ngoài có vài người bạn tử tế, những người dành cho mình sự chân thành hiếm có.

Tiền bạc có thể kiếm lại. Thành công có thể xây dựng lại. Nhưng hòa khí trong nhà và bạn tốt bên cạnh – mất rồi, khó tìm lại được.

Thế nên, ai có được hai điều này, đừng xem nhẹ.

Đó không chỉ là phúc, mà là vốn quý để đi qua cả một đời bình an, chỉ có thể tự mình giữ và tự mình trân trọng.

Tạp chí Doanh nhân

Friday, October 31, 2025

Ghi chép về Sapiens

Harari đã phân tích về Sapiens (loài thông minh của chi Homo/người) trong khoảng 2 triệu năm tiến hóa về tư duy (nhưng ko đi sâu vào câu hỏi: điều gì đã thúc đẩy sự tiến hóa của não bộ bởi thừa nhận rằng chúng ta ko biết).

Một đứa trẻ sơ sinh ko thể thích ứng nhanh với cuộc sống như những loài động vật khác, bởi chính chọn lọc tự nhiên đã hình thành quá trình này.

Khung xương của Sapiens khi chuyển sang đứng thẳng trên 2 chân đồng thời ảnh hưởng đến khung chậu và đường sinh nở của phụ nữ. Để tránh nguy hiểm cho người mẹ, đứa trẻ đã ra đời sớm hơn nên trước hết, nó cần sự bảo bọc, hoàn toàn phụ thuộc nhiều năm vào cha mẹ và nhận sự nuôi dưỡng, bảo vệ và giáo dục.

Nuôi con còn đòi hỏi sự giúp đỡ liên tục từ các thành viên khác trong gia đình và cộng đồng lân cận. Thời săn bắn hái lượm, cả 1 bộ tộc cùng chung sức nuôi dưỡng 1 con người.

Do con người sinh ra trong tình trạng chưa hoàn thiện (ra đời sớm hơn so với nhiều loài khác), được gia đình và cộng đồng quan tâm giúp đỡ nên có thể nhận được sự giáo dục và xh hóa ở những mức độ khác nhau.

So với bất kỳ loài động vật nào khác, Sapiens là loài có thể giáo dục trong những môi trường khác nhau và với nhiều kết quả tương ứng (trở thành 1 tín đồ Ki-tô hay Phật giáo, theo TB hay CNXH, hiếu chiến hay yêu hòa bình).

Hình ảnh: Pinterest