Friday, January 31, 2025

Trở lại quê nhà (7), Đi hai chân là xa xỉ?

 Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế không thể chối cãi. Nhưng cải cách kinh tế mà không thay đổi về chính trị và xã hội khiến đất nước đi khập khiểng. Đi khập khiễng thì không thể đi nhanh được và rơi tọt vào cái bẫy thu nhập trung bình. Điều này các chuyên gia đã cảnh báo từ 20 năm trước nhưng mãi đến nay nguy cơ tụt hậu mới được chính thức công nhận. Muộn còn hơn không. Chí ít thì Ban Tuyên giáo cũng phải ngậm đắng đăng tải rộng rãi những lời chỉ trích hệ thống tuyên truyền „tự huyễn hoặc, tự ru mình“[1] . Số phận của nó cũng đang hiu hắt trong làn sóng „tinh giảm".

Chấp nhận kinh tế thị trường có nghĩa là chấp nhận kinh tế TBCN tự do cạnh tranh. Chính kinh tế tư nhân đã đưa Việt Nam ra khỏi đói nghèo, thành một quốc gia xuất khẩu. Nhưng cạnh tranh tư bản mà không được kiểm soát bằng một xã hội công dân, bằng tự do báo chí và bằng một hệ thống pháp luật nghiêm minh thì chỉ là CNTB hoang dã, như chính Karl Marx đã miêu tả từ 180 năm trước „ đầy máu và bùn nhơ từ lỗ chân lông“. 

Chủ nghĩa xã hội sụp đổ vào cuối những năm 1980 đã khiến Liên Xô và các nước Đông Âu phải chuyển từ nền kinh tế nhà nước quan liêu sang kinh tế tư bản. Đây là một quá trình đau khổ vật vã. Cả Đông Âu chìm trong khủng hoảng. Đỉnh điểm là vụ ông Detlev Rohwedder, người phụ trách việc tư nhân hóa các xí nghiệp quốc doanh của Đông Đức, bị những kẻ khủng bố cực tả bắn chết hôm 01.04.1991 vì tội „cướp bóc tài sản của giai cấp công nhân“. 

Để tránh hỗn loạn, Đông Đức, Ba-Lan, Séc, Hungary và các nước Baltic đã tiến hành cải tổ toàn diện, cả kinh tế và chính trị, xã hội. Chỉ sau vài năm chịu đựng đau đớn, họ đã phát triển ngoạn mục, đuổi theo kịp Tây Âu. Trong khi đó Belarus và Ukraina chỉ lo tư nhân hóa nền kinh tế, sao nhãng việc xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự nên bị rơi vào CNTB hoang dã kiểu Nga. Ở các nước này, đám tư bản cá mập (Oligarchie) lên ngôi, thao túng không chỉ nền kinh tế mà mọi hoạt động xã hội. 

Hậu quả là sau 30 năm, Ukraina và Belarus vẫn chỉ là nước thu nhập trung bình. Nếu Ukraina đi cả hai chân, đạt được mức sống như Ba-Lan hoặc Latvia thì người Nga ở Donetsk sẽ không dại dột từ bỏ cuộc sông ấm no để đòi ly khai. Putin nhìn vào nền văn minh vượt trội đó sẽ không dám xâm lăng. Tệ hại hơn nữa, chế độ độc tài Lukaschenko đã biến Belarus thành một thuộc địa của Nga.

Đầu những năm 1990 kinh tế các nước Đông Âu xấp xỉ nhau. Bảng so sánh thu nhập đầu người giữa Ba Lan, Séc, Latvia, Estonia với Ukraina và Belarus (Đồ họa 3 và 4) là một bằng chứng đanh thép cho thấy ưu thế của cải cách toàn diện so với cải cách khập khiễng.

Đồ họa 3: Thu nhập bình quân theo đầu người của một số nước Đông Âu sau khi phe XHCN tan rã

Đồ họa 4: Thu nhập đầu người của một số nước Đông Âu sau 30 năm thay đổi thể chế. Các nước cải cách toàn diện có mức sống cao từ 5-6 lần các nước chỉ tư nhân hóa

Cải cách khập khiễng không chỉ trì hoãn tốc độ phát triển kinh tế, làm mất nhiều cơ hội lịch sử, mà còn tha hóa đạo đức xã hội, chia rẽ dân tộc.

CNTB tự do dùng mạnh nuốt yếu, tích lũy từ sở hữu cá thể manh mún sang sở hữu đại công nghiệp. Tuy hoang dã nhưng những kẻ mạnh thắng thế qua cạnh tranh, sau nhiều thế hệ cũng kết tinh được một tầng lớp ưu tú lãnh đạo xã hội. Sau này sức ép của tự do và xã hội dân sự đã dần tạo ra nhà nước tư bản phúc lợi. 

Ngày nay, khi chuyển từ kinh tế XHCN sang tích tụ tư bản mà không có tự do cạnh tranh, không có tự do báo chí, tự do ngôn luận thì tham nhũng chính là công cụ hiệu quả nhất để tuồn sở hữu công sang túi cá nhân. Không phải những kẻ giỏi, mà chỉ một nhóm đặc quyền đáp ứng chủ nghĩa lý lịch và những kẻ cơ hội biết sử dụng quan hệ luồn cúi đã thắng cuộc. 

Khác với CNTB tự do, bọn thắng cuộc trong CNTB thân hữu không phải là sản phẩm của tài năng mà là của sự đểu giả. Nếu chỉ một vài ngàn kẻ lưu manh thì chỉ là một nhẽ. Nhưng khi cả một hệ thống cùng hy vọng không cần phải thay đổi lối sống mà vẫn phát triển, vẫn giàu nhanh thì đó là lúc sự lừa gat, giả dối lên ngôi.

Trên thì tự lừa dối rằng: Cứ tư nhân hóa thoải mái, bán tài nguyên thoải mái thì năm 2020 Việt Nam sẽ thành một nước công nghiệp. Rồi 2030, rồi 2045…

Dưới thì cả tuần tham nhũng, thất đức để cuối tuần lấy tiền đi cúng chùa.

Lừa gạt, giả dối, chộp giật lan ra toàn xã hội chính là nguyên nhân suy đồi đạo đức chứ không phải kinh tế thị trường như người ta vẫn đổ lỗi. Đông Đức, Ba-Lan, Séc, Hungary… cũng chuyển từ kinh tế kế hoạch sang thị trường mà không hề có „kinh tế chùa“, bệnh nhân không phải chờ trả tiền mới được cấp cứu, học sinh không phải học thêm mới lên được lớp, nông dân không trồng riêng rau cho nhà mình ăn…

Việc ông Tổng bí thư coi những „thành tích“ xưa nay chỉ là “tự huyễn hoặc”, là “tự ru mình”, coi đóng góp kinh tế của nội lực „có chăng chỉ là công lao động và sự ô nhiễm môi trường“[1] được coi như một lời kêu gọi thức tỉnh.

Việc hàng loạt cơ quan, tổ chức nhà nước bị tinh giảm, việc đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với phương tây v.v. được nhiều người coi là những tín hiệu chuyển dịch sang “kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình.” Không ít trí thức tinh hoa ở trong nước, xưa nay luôn quyết liệt đòi hỏi dân chủ, nay gửi một thông điệp mới cho đảng cầm quyền: Chúng tôi tạm thời để dịu, để lắng đi cái “Khát vọng Dân chủ” để ủng hộ việc tập trung nguồn lực của Đất nước vào cải cách, phát triển kinh tế và khoa học công nghệ, đưa đất nước sớm thoát bẫy lạc hậu, đưa Đất nước sớm hoà nhập với thế giới văn minh.

Tôi kính nể lòng yêu nước của các bậc trí thức trên. Họ dám hy sinh khát vọng dân chủ để dân tộc mau chóng thoát khỏi ngõ cụt. Họ luôn bị phê phán là đòi hỏi một thứ xa xỉ trong khi đa số nhân dân chỉ cần đủ ăn.

Có nhiều cách để tiến tới văn minh. Trung Quốc đang muốn dẫn dắt nhân loại theo mô hình: „Thịnh vượng phi tự do“. Hàng hóa „Made in China“ từng mang tiếng xấu, nhưng nay mô hình nhà nước China đang quyến rũ không chỉ dân các nước nghèo, mà cả ở các nước phương tây. Không chỉ ở Italia, ở Argentina mà ngay cả ở Mỹ, số người tin vào những kẻ dân túy ngày càng tăng, với hy vọng „bàn tay sắt“ sẽ đem lại phồn vinh. 

Trung Quốc đã công nghiệp hóa thành công bằng bàn tay sắt. Trong khi hàng trăm triệu người Hoa thoát khỏi đói nghèo thì có hàng chục ngàn trí thức bất đồng chính kiến, hàng triệu người Duy Ngô Nhĩ, phật tử Tây Tạng, đệ tử Pháp Luân Công đang chết dần, chết mòn trong trại tập trung. Thành công của Trung Quốc có rất nhiều mặt trái. Đa số thanh niên Trung Quốc không biết về sự kiện Thiên An Môn hè 1989 thì đã đành, vì nền „Độc tài số“ đã xóa đươc trí nhớ của cả dân tộc. Nhưng họ cũng không biết rằng hoa quả trên đời có được nhờ ong, bướm thụ phấn. 100% hoa quả Trung Quốc được thụ phấn bằng tay và máy rung. 

Có lẽ vì thế mà cỗ máy DeepSeek đang được toàn cầu ca ngợi chỉ dám nói những gì „không nhạy cảm“. Còn quá sớm để nói về thành tựu này, vì trí tuệ nào cũng phải học rồi mới trưởng thành. Nhưng nếu đứa trẻ được dạy nói dối từ bé thì rẩt nguy hiểm. Rõ ràng mô hình Trung Quốc tiềm ẩn nhiều rủi ro.

„Có nhiều con đường để canh tân đất nước. Nhưng con đường nào cũng phải tạo ra một tầng lớp trí thức có trình độ sâu sắc, có phương pháp làm việc chuyên nghiệp“ đó là điều tiến sỹ Phạm Thanh Vân Van Pham tâm sự. 

Muốn có  vậy phải đảm bảo tự do học thuật và tự trị đại học. Đó không phải là xa xỉ, mà là một cải cách rất cấp bách cho một nước thiếu nhân tài như VIệt Nam.

Tiến sĩ Phạm Thanh Vân tại hội thảo Manila 2024 về Biển Đông. Vân là người khởi xướng Sáng kiến Đại sự ký Biển Đông, một tổ chức NGO trong lĩnh vực nghiên cứu địa chính trị

Chúng tôi đến thăm anh Vũ Thư Hiên tại Hà Nội. Anh đang sống trong tình thương yêu của vợ con, đang hưởng những kỷ niệm của „Miền Thơ Ấu“. Các chú công an nói với anh: „Bác cứ ở lại đây bao lâu cũng được, muốn đi đâu cũng được.“ Từ lâu tôi đã khuyên anh về nước và nay tôi thực sự mừng cho anh. Tôi găp anh Hà Dương Tường Ha-Duong Tuong  từ Paris về thăm quê. Anh từng không được nhập cảnh Việt Nam chỉ vì tham gia BBT báo mạng Diễn Đàn. Nay anh cứ thử dùng hộ chiếu Pháp về thì thấy không có chuyện gì xảy ra. Tôi biết một số văn nghệ sĩ vốn bị cấm cửa nay cũng đã về thăm nhà. Tôi mừng cho họ và cả cho đất nước. Nhưng tôi buồn khi biết tin tháng 12.2024 một trí thức từ Pháp về bị cấm nhập cảnh, chỉ vì một vài ý kiến trên mạng. 

Thăm anh Vũ Thư Hiên tại Hà Nội tháng 11.2024

Cởi mở, lắng nghe ý kiến của trí thức đâu có xa xỉ.

Có một thứ không hề xa xỉ, không cần phái cải cách gì cả. Đó là đảm bảo thực hiện nghiêm túc Hiến pháp 2013. Xa xỉ chút là lập Tòa án hiến pháp để chặn mọi văn bản vi hiến.

(Còn tiếp)

[1] https://baotintuc.vn/.../phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam...

Nguyễn Xuân Thọ

Các quốc gia châu Âu: Nước Đức

 21 sự thật về nước Đức mà bạn chưa biết:

1. Đức là nơi có hơn 25.000 lâu đài và tàn tích lâu đài, trưng bày nhiều thế kỷ lịch sử kiến ​​trúc và là những địa danh đẹp như tranh vẽ nằm rải rác khắp đất nước.

2. Autobahn, hệ thống đường cao tốc nổi tiếng của Đức, trải dài hơn 12.000 km (7.500 dặm) và nổi tiếng với những đoạn đường không giới hạn tốc độ, mang đến trải nghiệm thú vị cho những du khách thích lái xe.

3. Oktoberfest, được tổ chức hàng năm tại Munich, Bavaria, là lễ hội bia Volksfest lớn nhất thế giới và thu hút hàng triệu du khách từ khắp nơi trên thế giới đến để thưởng thức bia, ẩm thực và văn hóa Đức truyền thống.

4. Rừng Đen (Schwarzwald) là một vùng danh lam thắng cảnh ở phía tây nam nước Đức nổi tiếng với những khu rừng rậm rạp, những ngôi làng quyến rũ và các hoạt động giải trí ngoài trời, chẳng hạn như đi bộ đường dài, đạp xe và trượt tuyết vào những tháng mùa đông.

 5. Berlin, thủ đô của Đức, tự hào có cuộc sống về đêm sôi động với vô số quán bar, câu lạc bộ và địa điểm âm nhạc phục vụ nhiều sở thích khác nhau, khiến nơi đây trở thành điểm đến không thể bỏ qua đối với những người thích tiệc tùng.

6. Bức tường Berlin, từng chia cắt thành phố trong Chiến tranh Lạnh, hiện là một di tích lịch sử và phòng trưng bày ngoài trời được gọi là Phòng trưng bày East Side, trưng bày những bức tranh tường đầy màu sắc do các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới vẽ.

7. Lâu đài Neuschwanstein, tọa lạc tại Bavaria, là một cung điện giống như trong truyện cổ tích đã truyền cảm hứng cho thiết kế Lâu đài Người đẹp ngủ trong rừng của Disneyland, thu hút du khách với kiến ​​trúc tuyệt đẹp và cảnh quan xung quanh.

8. Sông Rhine, một trong những tuyến đường thủy dài nhất và quan trọng nhất của Châu Âu, mang đến những chuyến du ngoạn trên sông tuyệt đẹp qua những cảnh quan đẹp như tranh vẽ rải rác những lâu đài thời trung cổ, vườn nho và những thị trấn quyến rũ.

9. Các loại xúc xích Đức, chẳng hạn như bratwurst, currywurst và weißwurst, là một phần không thể thiếu trong di sản ẩm thực của đất nước này và việc nếm thử các đặc sản của vùng là một cách tuyệt vời để du khách trải nghiệm ẩm thực địa phương.

 10. Chợ Giáng sinh (Weihnachtsmärkte) là một truyền thống được yêu thích ở Đức, với các gian hàng lễ hội bán đồ thủ công, đồ trang trí và các món ăn theo mùa như rượu vang nóng (Glühwein) và bánh gừng (Lebkuchen).

11. Berliner Dom (Nhà thờ Berlin) là một ví dụ tuyệt đẹp về kiến ​​trúc tân Phục hưng và mang đến cho du khách cơ hội khám phá nội thất tinh xảo, leo lên mái vòm để ngắm toàn cảnh thành phố và tham dự các buổi hòa nhạc cổ điển.

12. Cổng Brandenburg, biểu tượng lịch sử của sự thống nhất và hòa bình, là một địa danh mang tính biểu tượng ở Berlin và là điểm gặp gỡ và bối cảnh phổ biến cho các sự kiện và lễ kỷ niệm văn hóa.

13. Sức mạnh kỹ thuật của Đức được thể hiện rõ trong ngành công nghiệp ô tô của đất nước này, với các thương hiệu như Mercedes-Benz, BMW, Audi và Volkswagen sản xuất những chiếc xe chất lượng cao mà những người đam mê có thể khám phá tại các bảo tàng và nhà máy trên khắp cả nước.

 14. Nhà thờ Cologne (Kölner Dom) là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận và là một trong những nhà thờ Gothic lớn nhất ở Châu Âu, mang đến cho du khách cơ hội chiêm ngưỡng kiến ​​trúc phức tạp, leo lên tháp để ngắm toàn cảnh và tìm hiểu về lịch sử hấp dẫn của nơi này.

15. Dãy núi Alps của Bavaria, với những đỉnh núi hùng vĩ, hồ nước trong vắt và những ngôi làng quyến rũ, mang đến vô số cơ hội cho các hoạt động ngoài trời như đi bộ đường dài, trượt tuyết, trượt ván trên tuyết và dù lượn, thu hút những người yêu thiên nhiên và những người thích phiêu lưu quanh năm.

16. Dàn nhạc giao hưởng Berlin, nổi tiếng với tài năng âm nhạc đặc biệt và những buổi biểu diễn sáng tạo, mang đến cho du khách cơ hội tham dự các buổi hòa nhạc đẳng cấp thế giới tại phòng hòa nhạc Philharmonie mang tính biểu tượng ở Berlin.

17. Currywurst, một món ăn đường phố phổ biến bao gồm xúc xích thái lát phủ sốt cà ri, là một món ăn nhẹ ngon miệng và giá cả phải chăng có thể được thưởng thức tại các quầy hàng thực phẩm và imbiss (quán ăn nhẹ) trên khắp nước Đức.

 18. Đường cổ tích (Märchenstraße) là một tuyến đường ngắm cảnh kết nối các thị trấn và địa danh gắn liền với truyện cổ tích Anh em nhà Grimm, cho phép du khách khám phá cảnh quan và truyền thuyết đã truyền cảm hứng cho những câu chuyện kinh điển như "Cô bé Lọ Lem" và "Cô bé quàng khăn đỏ".

19. Vườn thú Berlin (Zoologischer Garten Berlin) là một trong những vườn thú lâu đời và đa dạng nhất thế giới, nuôi dưỡng hàng nghìn loài động vật từ mọi châu lục và cung cấp các trải nghiệm giáo dục, nỗ lực bảo tồn và các điểm tham quan thân thiện với gia đình.

20. Bia Đức, được ủ theo luật tinh khiết nghiêm ngặt (Reinheitsgebot) có từ thế kỷ 16, nổi tiếng về chất lượng, sự đa dạng và ý nghĩa văn hóa, khiến các chuyến tham quan nhà máy bia và nếm thử bia trở thành hoạt động phổ biến đối với du khách quan tâm đến văn hóa bia.

21. Lịch sử phong phú, cảnh quan đa dạng và di sản văn hóa của Đức mang đến cho du khách vô vàn trải nghiệm, từ khám phá các thành phố lịch sử và những ngôi làng quyến rũ đến đi bộ đường dài qua vùng nông thôn đẹp như tranh vẽ và thưởng thức ẩm thực ngon, khiến nơi đây trở thành điểm đến lý tưởng cho những cuộc phiêu lưu khó quên....

Cre: Phuoc Huynh

Thursday, January 30, 2025

Cách tốt nhất là lựa chọn lúc này

Dưới đây là những quy tắc xã hội ngầm không ai nói với bạn!

Càng trải đời, càng nhận ra nhiều chân tướng đời sống. Đôi khi rất đau, nhưng là cần thiết, ví như thấy một người trước sau bất nhất, thật ra, không phải họ thay đổi, mà vì mặt nạ của họ rơi xuống mà thôi.

1. Có nhiều chuyện rõ ràng biết đáp án rồi còn hỏi, hỏi ra cũng thêm ngượng ngùng mà thôi, vậy nên dứt khoát không hỏi làm gì. Ví dụ: Cậu vẫn chưa lấy chồng à? Cậu còn thất nghiệp hả?

2. Trên đời này không có người không thể thay thế, vì vậy chia tay rồi có thể đau khổ nhưng đừng để bản thân mãi chìm trong cái hố đó, thật sự không đáng!

3. Nếu cảm thấy đối phương không phù hợp, đừng cố gắng ở lại mà hãy thẳng thắn rời đi. Thời gian không giúp cho các bạn trở nên phù hợp với nhau mà chỉ khiến cho cả hai càng thêm xích mích, việc rời đi lúc đó sẽ càng thêm khó khăn và ít nhiều đi kèm với một cuộc chiến.

4. Bạn chỉ nên kể về quá trình thực hiện khi kế hoạch đã thành công, bởi chẳng ai muốn nghe thuyết giảng từ kẻ thất bại cả.

5. Đừng dùng bí mật để lôi kéo bạn bè, bởi bạn không có nhiều bí mật để có thể giữ chân họ vĩnh viễn.

6. Trên đời này chỉ có hai chuyện: liên quan gì đến tôi và liên quan gì đến bạn? Việc gì không cần thiết thì đừng nên xen vào để tránh sau này phải nói hai từ "giá như".

7. Người ta có thể tự chê bai, chế giễu bản thân, nhưng bạn tuyệt đối không được phụ hoạ.

8. Đừng bao giờ hối tiếc những việc đã xảy ra trong quá khứ, vì tại thời điểm ấy, đó chính xác là những gì bạn muốn và tại thời điểm hiện tại, bạn không thể làm gì để thay đổi nó.

9. Cách tốt nhất để thành công chính là làm theo những lời khuyên mà bạn dành cho người khác, bởi vì nó sáng suốt và không bị cảm xúc quấy nhiễu.

10. Tiền bạc giải quyết 99% vấn đề, 1% còn lại là do quyền lực và địa vị xã hội quyết định.

11. Đối với những cuộc trò chuyện diễn ra hằng ngày, người ta sẽ chỉ nhớ đến cảm giác khi ở cùng bạn (vui, buồn, an tâm…) chứ không phải nội dung đã trao đổi.

12. Đôi khi, không phải một người thay đổi, chỉ là mặt nạ của họ rơi xuống mà thôi.

13. Hãy cẩn thận với những gì bạn nói, hoặc nếu cảm thấy không chắc chắn thì đừng nói. Bởi vì những lời nói đó có thể được người khác mang đi rèn thành kiếm và đâm vào lưng bạn lúc nào không hay.

14. Chúng ta thường nhớ "Chẳng có niềm vui nào là mãi mãi", nhưng lại quên mất có một câu tương tự rằng "Chẳng có nỗi đau nào tồn tại vĩnh viễn".

15. Đối với việc tiếp nhận quà cáp từ ai đó, nên nhớ rằng mỗi món quà đều mang theo mục đích riêng, bạn đáp ứng được mục đích của người tặng thì mới nhận, còn không thì từ chối cũng chẳng mất mát gì.

16. Tính cách và thái độ là hai điều hoàn toàn tách biệt. Tính cách của tôi nói lên con người bên trong, còn thái độ tùy thuộc vào cách bạn ứng xử. Bởi vì thánh nhân cũng có thể cau mày và ác quỷ cũng biết mỉm cười.

17. Thất bại giúp con người ta nhận ra điểm nào nên tiếp tục phát huy, điểm nào nên từ bỏ, không phải để bạn lao đầu vào sửa chữa điều mà bạn nên từ bỏ.

18. Nếu bạn đã nói xấu sau lưng người khác thì khi bị đối phương mang ra trước mặt chất vấn, đừng thắc mắc tại sao những người đã cùng bạn nói xấu chỉ đứng sau lưng ủng hộ mà không dám ra mặt bảo vệ bạn. Đó gọi là nhân quả báo ứng!

19. Người không muốn tới đích thì dù khởi đầu tốt đến mấy cũng thành công cốc.

20. Người ta cố gắng học hành, chăm chút ngoại hình để tìm gặp bạn đời xứng vai phải lứa. Bạn dựa vào đâu đòi họ yêu một người lười biếng, xấu xí, tính tình gàn dở? Tình yêu không phải phim Hàn Quốc, nếu bạn không cố gắng đừng trách ông trời tại sao không cho bạn gặp kỳ tích!

21. Tình cảm trao đi cần có hạn, bạn không bao giờ biết người ta vay mượn của mình bao nhiêu yêu thương rồi sẽ "quỵt nợ" trốn biệt cả.

22. Không cần phải gắng gượng giữ gìn quan hệ với tất cả mọi người, bởi giữ quan hệ với người này có thể làm sứt mẻ tình cảm với người khác. Nếu buộc phải lựa chọn, hãy giữ gìn quan hệ với những người lanh lợi có hậu thuẫn tốt, mười năm sau bạn sẽ nhận thấy nó có ích thế nào.

23. Khi kết bạn nên chậm một chút để có thể tìm hiểu, quan sát kỹ lưỡng. Nhưng khi tuyệt giao thì nên nhanh một chút tránh gây ra rắc rối về sau hoặc nửa đường đổi ý.

24. Ngoại trừ cha mẹ và chính bạn, đối với ai cũng nên cẩn trọng một chút, bạn không biết thứ ở phía sau lưng họ là hoa hay gươm giáo đâu.

25. Phải tàn nhẫn một chút mới có thể sinh tồn.

26. Người không có tiền còn chẳng bằng quỷ, canh không có muối còn thua nước lã.

27. Chuyện gì cũng có cách giải quyết của nó, cuộc đời còn đến mấy chục năm chứ không phải ngõ cụt để bạn than trời trách đất.

28. Người ta nói tình yêu quan trọng hơn tiền bạc. Vậy bạn có bao giờ thanh toán một bữa ăn tại nhà hàng bằng một cái ôm hay lời tỏ tình chưa?

29. Mỗi chúng ta là một cá thể, đừng bắt chước ai cũng đừng yêu cầu ai giống mình. Thượng Đế không rảnh rỗi đến mức tạo ra một tá đồ chơi giống nhau.

30. Không nên lãng phí tiền bạc, vì có thể ngày mai bạn sẽ thất nghiệp!

TnBS

Wednesday, January 29, 2025

Các quốc gia châu Âu: Nước Bỉ

 15   Interesting Facts You May Not Know About Belgium : 

1. Belgium is famous for being the birthplace of the European Union, with Brussels serving as the de facto capital of the EU and home to several of its key institutions.  

2. The country is renowned for its beer culture, with over 1,000 different types of beer produced, and it is known for unique varieties such as Trappist beer, made by monks in abbeys.  

3. Belgium is the birthplace of fries, or "frites," which are often claimed to be invented here. They are typically served with a variety of dipping sauces, particularly the popular "mayo."  

4. The country is famous for its chocolate, producing some of the best chocolate in the world. Belgian chocolate has a reputation for quality and craftsmanship, with companies like Godiva and Neuhaus leading the industry.  

5. Belgium is home to the world’s largest collection of comic strips, including the iconic "The Adventures of Tintin," created by Belgian artist Hergé.  

6. The country is known for its medieval towns, castles, and beautiful architecture, with places like Bruges, Ghent, and Antwerp offering stunning historical sites and picturesque canals.  

7. Belgium has three official languages: Dutch, French, and German, with Dutch being spoken by the majority in the Flanders region, French in Wallonia, and German in a small eastern region.  

8. The country is the world's leading exporter of diamonds, with the city of Antwerp serving as the diamond capital of the world, handling 80% of the world’s rough diamond trade.  

9. Belgium is home to the world’s largest festival dedicated to the mythical figure of the giant, "The Ommegang Festival," held in Brussels, where enormous papier-mâché giants parade through the streets.  

10. The Belgian army still maintains the oldest continuous military unit in the world, the "Chasseurs Ardennais," which was formed in 1833 and continues to serve today.  

11. Belgium boasts a wide range of world-class museums, including the Royal Museum of Fine Arts in Antwerp, home to works by artists such as Rubens and Van Dyck.  

12. The famous Belgian waffle, known for its fluffy texture, comes in two main varieties: the Brussels waffle and the Liège waffle, each with its own distinct taste and method of preparation.  

13. Belgium's coastline along the North Sea, though relatively small, is known for its sandy beaches and seaside resorts, with cities like Ostend and Knokke-Heist being popular summer destinations.  

14. The country has a proud cycling culture, with some of the most prestigious races in the world, including the Tour of Flanders, which attracts cyclists from all over the globe.  

15. Belgium has a strong tradition of surrealism in the arts, and renowned surrealist artist René Magritte, known for his thought-provoking works, was born in the country.

Vpreps

Monday, January 27, 2025

Quy luật tự nhiên và những tín ngưỡng phi thần linh

Thế giới trong trật tự siêu nhiên 

Là 1 hệ thống các quy chuẩn và giá trị con người trên nền tảng của đức tin, ngày nay tôn giáo là nguồn gốc của sự bất đồng giữa con người với con người. Tuy nhiên, trên thực tế, tôn giáo giữ vai trò thống nhất nhân loại đứng ở vị trí thứ ba, cùng với tiền tệ và các đế chế.

Sự xuất hiện của các tôn giáo là 1 trong những cuộc cm quan trọng nhất trong lịch sử và đóng góp to lớn cho sự thống nhất của nhân loại.

Tôn giáo là lý do duy nhất để đến với quyền lực tối cao của vũ trụ, vì vậy nhiều người đã cống hiến cuộc đời cho việc hợp nhất với Đấng Tối cao để từ đó đạt được giác ngộ.

Chúa Trời hay Atman trong đa thần giáo Hindu là bản ngã vĩnh cửu hay linh hồn của toàn bộ vũ trụ, cũng như của mỗi cá nhân và mọi hiện tượng (sinh học và vật lý) trong 1 nguyên lý duy nhất.

Đấng Tối cao là duy nhất. Đó là Đấng toàn tri, toàn năng và toàn thiện.

Với người theo Ki-tô giáo, Chúa Jesus thành Nazareth là đấng cứu thế vì Ngài buộc phải nhập thế bằng xác phàm và chết trên thập giá để cứu độ nhân loại thì đây là điều mà mọi người đều phải biết. Do đó cần loan báo tin mừng - Phúc âm - của Chúa Jesus ra toàn thế giới.

Sau người DT, tư tưởng độc thần cũng xuất hiện ở bán đảo Ả-rập vào thế kỷ thứ 7. Từ 1 giáo phái nhỏ ở 1 góc hẻo lánh của thế giới, Hồi giáo đã vượt ra khỏi sa mạc Ả-rập và trở thành 1 đế chế rộng lớn trải suốt từ Đại Tây Dương đến Ấn Độ.

Từ đó về sau, tư tưởng độc thần đã đóng 1 vai trò trung tâm trong lịch sử thế giới.

Tín đồ theo Ki-tô giáo hay Hồi giáo có xu hướng cuồng tín vì cho rằng: Đấng Tối cao của tôn giáo khác ko có được quyền lực tối thượng (hoặc tôn giáo đó chỉ nhận được 1 phần chân lý phổ quát từ Đấng Tối cao). Vì vậy, bên nào cũng tin rằng: mình đang nắm trong tay toàn bộ thông điệp của 1 và chỉ 1 Đấng Tối cao mà thôi.

Đó là điều đã xảy ra trong lịch sử và vẫn đang diễn ra giữa Ki-tô giáo và Hồi giáo. Cuộc xung đột và báng bổ tôn giáo khác để củng cố tôn giáo chính thống qua việc triệt tiêu bằng bạo lực vẫn tiếp tục tồn tại.

Thực tế cho thấy: luôn tồn tại cái hố ngăn cách giữa lý thuyết thần học và thực tế lịch sử. Khi phân chia thế giới thành "chúng ta" và "chúng nó", coi sức mạnh tối cao quá xa xôi và xa lạ với nhu cầu trần tục của con người thì các tôn giáo độc thần cũng ko thể phủ nhận vai trò của thần linh (ở Ki-tô giáo cũng có những điện thờ riêng cho các thánh với nghi lễ có phần khác so với những vị thần của đa thần giáo).

Nhưng ko phải chỉ trong việc thừa nhận các thánh về việc bảo hộ hay bảo trợ cho 1 vương quốc (Hungary bởi Thánh Stephen), hay các tp/thị trấn (Tp Milan bởi Thánh Ambrose) và cả những ngành nghề khác nhau (Thánh Almo bảo vệ cho những người thợ cạo ống khói) v.v., đa thần giáo còn ảnh hưởng đến các tôn giáo độc thần khác bằng thế giới quan chứa đựng nhiều câu trả lời hấp dẫn và đơn giản cho nhiều vấn đề mà thuyết độc thần ko thể phủ nhận.

Đa thần giáo ko chỉ xuất hiện trong tôn giáo độc thần với các thánh mà còn cả với thuyết nhị nguyên. Ko như thuyết độc thần, nhị nguyên cho rằng: cái ác cũng có 1 sức mạnh độc lập và vũ trụ là chiến trường giữa cái thiện và cái ác.

Và đó cũng là tất cả những gì xảy ra trong thế giới của chúng ta.

Vì nhiều lý do, người Ki-tô giáo bình thường tin tưởng vào Thiên Chúa trong độc thần giáo, nhưng cũng tin vào Ác quỷ (Satan) theo thuyết nhị nguyên.

Các học giả nghiên cứu tôn giáo đặt tên cho sự kết hợp đồng thời này (của các ý tưởng từ nhiều thuyết khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau) và sự kết hợp của các nghi lễ và thực hành (có nguồn gốc khác nhau) với tên gọi là chủ nghĩa hỗn tạp.

Theo Harari, trên thực tế, thuyết hỗn tạp có lẽ là thứ tôn giáo vĩ đại duy nhất trên thế giới.

Sau thời kỳ của các tôn giáo tập trung đức tin vào thần linh và thực thể siêu nhiên, từ thiên niên kỷ 1 TCN xuất hiện các tôn giáo mới, trong đó phải kể đến Phật giáo, Nho giáo và các dạng tôn giáo mang sắc thái của các chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hoài nghi v.v. hoàn toàn ko có vai trò của thần linh hoặc đặc trưng bởi sự coi thường thần linh.

Phật giáo là tôn giáo quan trọng nhất trong các tôn giáo thuận theo quy luật tự nhiên cổ xưa và hiện nay vẫn là 1 tín ngưỡng lớn ở Nam Á và Đông Á.

Nhân vật trung tâm của Phật giáo ko phải là 1 vị thần mà là 1 con người, Siddhartha Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm).

Gautama tự mình chứng được niết bàn và đã được giải thoát khỏi đau khổ. Từ đó ông được gọi là "Phật", có nghĩa là "Người giác ngộ".

300 năm qua là thời đại phát triển của chủ nghĩa thế tục. Các tôn giáo hữu thần ngày càng mất đi tầm quan trọng của chúng.

Để phân biệt những tôn giáo lấy thần thánh làm trung tâm với những giáo phái là những hệ tư tưởng (ý thức hệ vô thần), cần đi sâu vào đặc điểm dựa trên quy luật tự nhiên bởi chúng đều là các chuẩn mực và giá trị con người được tạo nên dựa vào niềm tin trong 1 trật tự siêu phàm.

Ngày nay, chủ nghĩa nhân văn (CNNV) đặt niềm tin vào nhân loại, đúng hơn là Homo Sapiens.

Niềm tin này có thể nâng cao lên thành sự tôn thờ và khi đó, có thể coi hệ tư tưởng này như 1 tôn giáo: Tôn giáo nhân văn.

Những người theo CNNV tin rằng: Homo Sapiens có 1 bản chất độc đáo và linh thiêng, mà về cơ bản khác với bản chất của muôn loài và mọi hiện tượng khác. Nó là điều quan trọng nhất trên thế giới, và nó quyết định ý nghĩa của mọi điều xảy ra.

Cái tốt lành tối thượng chính là điều tốt đẹp có ở Homo Sapiens. Phần còn lại của thế giới và tất cả các sinh vật khác tồn tại chỉ để phục vụ cho lợi ích loài người.

Người Mỹ ngày nay vừa là người theo chủ nghĩa dân tộc (CNDT) vừa là người theo CNTB Thị trường tự do, vừa là nhà nhân văn tự do (tin vào nhân quyền được Tạo Hóa ban cho) và họ là những người mang tính cách điển hình cho tôn giáo của thuyết hỗn tạp.

3 nhóm/phái của CNNV

1. CNNV tự do: Những người thuộc phái này tin rằng NHÂN TÍNH là phẩm chất của mỗi cá nhân, và sự tự do của mỗi cá nhân mang tính linh thiêng.

Mặc dù CNNV tự do thần thánh hóa con người nhưng ko phủ nhận sự tồn tại của Đấng Tối cao (trên thực tế, nó được hình thành dựa trên những niềm tin độc thần).

2. CNNV XHCN: CNXH tin rằng con người có bản chất tập thể chứ ko phải cá nhân. Những người theo phái này ko coi tiếng nói của nhân tính là thiêng liêng mà nhìn nhận Homo Sapiens với tư cách 1 loài.

3. CNNV tiến hóa: Đại diện tiêu biểu của giáo phái này là CNXH quốc gia Đức (Đức quốc xã/ĐQX). ĐQX tin rằng nhân loại là 1 loài có thể thay đổi (có thể phát triển hoặc thoái hóa). Do đó con người có thể tiến hóa trở thành những người siêu việt, hoặc suy thoái thành 1 giống nòi yếu kém.

(Ghi lại từ Sapiens - Lược sử loài người của Yuval Noah Harari)

Sunday, January 26, 2025

Trở lại quê nhà (6), Xã hội công dân

 (tiếp theo)

Vì không quen nhìn cuộc đời qua báo chí, mà muốn cảm nhận qua thực tế nên tôi tìm mọi cơ hội tiếp xúc với những người hàng xóm, với các chị bán rau, các cậu xe ôm, tài xế taxi. Họ đã giúp tôi hiểu hơn những gì đang xảy ra.

Dễ nhận thấy là các loại xe máy, xe ô tô điện Vinfast chạy nhiều trên đường, chủ yếu là chở khách. Không những ở Hà Nội, Sài Gòn mà ở Ba đồn, Đồng Hới, Quảng Trị, Huế hay Quy Nhơn đâu đâu cũng thấy chúng. Một số người sau khi lái thuê đã tự mua xe để chạy cho hãng taxi Xanh SM. Nhiều tài xế xe Grab cũng mua xe điện VF 34 hay VF5 để chạy. Khi tôi hỏi về những video clips xe VF bị gãy trục bánh trước, bị mất kiểm soát, họ đều nói là cũng có xem, nhưng họ chưa bị. Một tài xế tốt nghiệp đại học nói là giá điện rẻ nên chi phí điện chỉ bằng 1/3 giá mua xăng. Nếu giá điện vẫn giữ ở mức dưới 4.000/Kwh thì chỉ 2 năm là cậu lấy lại vốn. 

- Xe điện Tầu cũng rẻ mà sao không thấy chạy trên đường? Tôi hỏi.

- Không có cửa bác ạ, chúng không sạc được ở các trạm sạc của Vin. Ở Việt Nam cái gì chẳng Vin hả bác - Cười.

Rồi cậu nói tiếp: Giá như cái gì mình cũng làm trái khoáy đi tý là khỏi lo bị họ đè.

- Giá cháu vào Bộ chính trị thì hay đấy.

- Cũng không có cửa bác ạ, may ra thì cho anh Vượng, hì hì.

Thì ra thế, chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam bắt nguồn từ mỳ ăn liền, sang bất động sản và nay đã tiến vào công nghiệp, nhờ gắn kết với nền chính trị. Khi tôi kể về ngôi nhà khủng 24 Quang Trung Hà Nội trong bài trước, có bạn cho biết ngôi nhà đó tuy trên nóc vẫn sừng sững dòng chữ „Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia - Sự Thật“ nhưng hiện do một đại gia sở hữu mà đại gia này từng là vụ phó của chính quyền.

Tòa nhà 24 Quang Trung, thượng tầng là NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật. Hạ tầng là ngân hàng. Sở hữu của một đại gia

Mối liên hệ chằng chịt đó đã góp phần dẫn đến những thay đổi hôm nay.

Anh Nguyễn Quang A cũng chia sẻ suy nghĩ của tôi. Anh nói thêm: Cứ cái gì làm lợi cho đất nước, cải thiện đời sống của dân mình thì đều đáng ủng hộ.

Năm 2018, trong khi nhiều người phản đối hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (VEFTA) vì các lý do nhân quyền thì anh lên tiếng ủng hộ hiệp định này. Theo anh, càng hội nhập sâu vào thế giới văn minh, Việt Nam càng thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc.

Với tôi, anh là một đàn anh đúng nghĩa. Từ thời anh làm sếp công ty Genpacific cuối những năm 1980 tôi đã phục anh sát đất về kiến thức điện tử và khả năng kinh doanh. Sau này tôi càng ngưỡng mộ anh khi anh đứng ra kêu gọi cho một xã hội dân sự ở VIệt Nam. Trước những thay đổi hiện nay, anh tạo kênh Youtube „Ý vụn – Nguyển Quang A“[1] để chia sẻ kinh nghiệm chuyển đổi dân chủ và những bài học lịch sử từ  các nước đã thành công hoặc thất bại. 

Anh luôn nhìn nhận các hiện tượng chính trị bằng con mắt của một người tử tế. Nói về cuộc xâm lăng của Nga vào Ukraina, anh không bàn đến các yếu tố địa chính trị hay lịch sử mà một số người viện dẫn. Anh coi đó là vấn đề đạo đức. Anh không bàn về các chính sách kinh tế, môi trường hay di dân, mà nói ngay về bản chất bất nhân, độc ác của tổng thống Trump. 

Rất rõ ràng.

Là một doanh nhân thành đạt, một trí thức yêu nước, anh chỉ mong muốn Việt Nam hội nhập tốt vào nền văn minh nhân loại và một trong những bước đi là xây dựng một xã hội dân sự (Civil society). 

Anh Nguyễn Quang A, một tiếng nói phản biện trung thực và yêu nước

Civil Society, còn gọi là „Xã hội Công dân“, tạo điều kiện cho công dân phát huy trách nhiệm với xã hội và với những người khác, thể hiện qua hoạt động ở các câu lạc bộ, tổ chức v.v. Tuy đứng ngoài nhà nước, nhưng xã hội dân sự tạo thành một cột trụ vững vàng đỡ cho nhà nước rất nhiều việc, từ các công tác từ thiện, giúp đỡ hoạn nạn khai sáng dân trí v.v. Chính phủ đứng bên cạnh xã hội dân sự sẽ không bao giờ lo ngại rằng những phản ứng của dân mình đối với quốc gia khác bị coi là chính sách đối ngoại của mình. Những cuộc biểu tình của thanh niên Việt Nam phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh hải sẽ trở nên bình thường trong một xã hội dân sự. Nữ hoàng Anh vui vẻ đón tổng thống Mỹ Trump trong khi dân London biểu tình phản đối ông ta ầm ầm ngoài đường. Đó là nhờ vai trò của xã hội công dân. Với một xã hội như vậy, Hội Nghề cá Việt Nam sẽ không bị quá tải vì luôn phải thay mặt nhà nước lên tiếng về các vấn đề Biển Đông.

Câu chuyện Hội Nghề cá cho thấy chính quyền đã hiểu rõ vai trò của các tổ chức phi chính phủ NGO. Trong thời gian qua, một số NGO’s thực sự đã hoạt động có hiệu quả. Khu nông nghiệp sinh thái HEPA (human-ecology-practical-area)[2] của chị Trần Thị Lành ở Hà Tĩnh là một ví dụ. Chị không chỉ giúp nông dân lý thuyết và thực hành bảo vệ môi trường, chống lại các chính sách kinh tế sai lầm, mà còn là một cái cầu nối rất quan trọng giữa nhà nước và các tổ chức quốc tế kinh doanh chứng chỉ carbon (Tín chỉ carbon). Chị gặp vô vàn khó khăn trong việc vận động quan chức các cấp phát triển rừng tự nhiên. Một phần vì họ thiếu kiến thức, một phần bị chi phối bởi các lợi ích cá nhân khác nhau. 

Trong nhiều năm qua vì mải chạy theo thành tích phủ xanh rừng và xóa đói giảm nghèo nên người ta chỉ chú trọng trồng cây công nghiệp đơn canh với những hậu quả thảm khốc cho thiên nhiên và con người. Nay khi biết rằng tín chỉ carbon chỉ trao cho những diện tích rừng tự nhiên được quốc tế công nhận, thông qua NGO địa phương, người ta cần chị vì hy vọng kéo được hàng tỷ USD về nước. Nhưng điều đó không dễ khi nhận thức chỉ vì lợi nhuận. Chị bảo: Nếu chỉ để cho người nông dân được hưởng 5 USD/tấn carbon[3] thì hàng triệu hecta rừng tự nhiên sẽ mọc lên mà không phải hò hét gì cả. Để đạt được điều đó, còn là một chặng đường gian nan.

Tiến sỹ sinh học Trần Thị Lành, một con người suốt đời đấu tranh cho thiên nhiên, môi trường

Nỗi sợ vô lý của nhà nước về một xã hội dân sự khiến các tổ chức độc lập gặp muôn vàn khó khăn. Nhà thơ Hoàng Hưng, giáo sư ngôn ngữ học Hoàng Dũng Dũng Hoàng, những người vận động thành lập „Văn đoàn Độc Lập“ vẫn bị sách nhiễu. Anh Hoàng Dũng bị chất vấn về kiến nghị đòi trả tự do cho nhà báo Huy Đức. Mới hôm 19.01 vừa rồi người ta vẫn gọi điện nhắc anh Hoàng Hưng Hoang Thụy Hưng  không được đi tưởng niệm ngày Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa.

Anh Dũng Hoàng và anh Lê Học Lãnh Vân LVan Le đến viếng má tôi tháng 12.2021

Trong bối cảnh chi phí cho các hội đoàn ký sinh đang bị cắt giảm, một loạtcơ quan, đài báo không hiệu quả bị đóng cửa khiến rất nhiều người có tay nghề bị thất nghiệp thì các hội đoàn độc lập sẽ tạo thêm nhiều môi trường lành mạnh cho những người có năng lực, góp phần cải thiện xã hội, há chi phải lo ngại. 

Cũng như anh Quang A, dù sao anh Hưng và anh Dũng đều nhìn thấy những chỉ dấu tích cực trong các chuyển biến hiện nay.

Được anh Hưng Hoang Thụy Hưng ký tặng sách

Bình luận về phát biểu gần đây của ông Tổng bí thư „Chúng ta đang ngộ nhận, tự huyễn hoặc, tự ru mình“ trước các thành tựu kinh tế được tung hô, anh Quang A kêu gọi: Hãy đưa nhận thức này vào lĩnh vực nhân quyền và dân chủ!

(Còn tiếp)

[1]https://www.youtube.com/@YvunNguyenQuangA

Nguyễn Xuân Thọ

Tây Âu & cuộc Cách mạng Khoa học (2)

 Kế thừa truyền thống khoa học cổ đại, khoa học hiện đại đã đơm hoa kết trái và được nương tựa để phát triển trong lòng các đế quốc châu Âu. Đặc tính độc đáo của nó chỉ hình thành trong thời kỳ cận đại, liên quan chặt chẽ đến sự bành trướng đế quốc của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan và Nga.

Thế giới Viễn Đông và Hồi giáo cũng sinh ra những trí tuệ thông minh xuất chúng ko kém người châu Âu, tuy nhiên, trong khoảng những năm 1500 và 1950, họ đã ko đưa ra bất cứ thứ gì có thể sánh với vật lý học của Newton hay sinh vật học của Darwin.

Việc tìm ra châu Mỹ là nền tảng của Cách mạng Khoa học. Nó ko chỉ dạy người châu Âu ủng hộ những quan sát hiện tại thay cho những truyền thống trong quá khứ. Việc chinh phục châu Mỹ buộc họ phải tìm kiếm kiến thức mới với tốc độ chóng mặt.

Người châu Âu bị các khoảng trống trên bản đồ thu hút bởi họ muốn biết thêm nhiều thông tin về địa lý, khí hậu, động thực vật, ngôn ngữ, các nền vh và lịch sử của những vùng đất mới mà họ thừa nhận rằng lý thuyết của họ ko phải hoàn hảo, còn có nhiều điều quan trọng mà họ ko biết.

Thương mại, các đế quốc và các tôn giáo phổ quát cuối cùng đã đưa nhân loại (gần như toàn bộ sapiens trên mọi lục địa) đến với thế giới toàn cầu ngày nay.

Từ quá khứ đến hiện tại chỉ có 1 con đường duy nhất (mỗi giai đoạn lịch sử như 1 giao lộ). Và từ đây đến tương lai thì có vô số những ngả rẽ. Một số con đường rộng hơn, bằng phẳng hơn, được chỉ dẫn tốt hơn (và được nhiều người chọn hơn), nhưng đôi khi lịch sử - hoặc những người làm nên lịch sử - lại đi theo những ngả rẽ bất ngờ.

Bức tranh toàn cảnh cho thấy quá trình chuyển đổi từ nhiều nền vh nhỏ thành vài nền vh lớn đang tiếp tục diễn ra. Thế giới đang tiến đến 1 xh toàn cầu duy nhất (có lẽ là kết quả tất yếu của những động lực đã tạo nên lịch sử loài người).

(Ghi lại từ Sapiens - Lược sử loài người của Yuval Noah Harari)

Saturday, January 25, 2025

Lược sử loài người: Từ Cách mạng Nông nghiệp đến thế giới của CNTB

Sapiens: Chúng ta, chúng nó và câu chuyện của giai cấp công nhân & nông dân 

Con người và sự phân chia trong phân biệt

Khi ko thể dung hòa, con người có tư tưởng loại trừ và chia thành 2 phần (ko phải theo giới tính): gồm "chúng ta" và "chúng nó".

Chúng ta, hay phe ta, cùng chia sẻ ngôn ngữ, tôn giáo và phong tục. Tất cả chúng ta ĐỀU có trách nhiệm với nhau, nhưng ko có trách nhiệm gì với chúng nó.

Chúng ta luôn luôn khác biệt với chúng nó, và chẳng vướng mắc/nợ nần chúng nó điều gì cả. Chúng ta ko muốn thấy bất kỳ ai trong số chúng nó trong vùng thuộc về chúng ta và cũng chẳng mảy may quan tâm về những gì thuộc về chúng nó.

Chúng nó, thậm chí còn ko phải là người, chỉ chúng ta mới là con người thực sự!

Thế giới đã tồn tại với nhiều đế chế và các trật tự được thiết lập bao trùm tất cả cho đến nay. Dù chứa đựng những vấn đề phức tạp mang sắc thái chủng tộc của nhiều nền vh khác nhau thì thế giới đa cực hiện nay vẫn thừa nhận sự thống nhất cơ bản của toàn thế giới. Vì vậy vẫn có sự tồn tại của những nguyên tắc chi phối mọi lúc mọi nơi cùng với trách nhiệm chung của loài người (trên quan điểm xem thế giới loài người là 1 gia đình mà những đặc quyền của cha mẹ gắn liền với trách nhiệm phải lo cho quyền lợi của con cái của mình).

Các trật tự thế giới khác nhau làm nảy sinh những cuộc tranh đoạt những vùng ảnh hưởng (ở châu Á là Trung Hoa với sứ mạng Trời ban là Thiên mệnh). Chúng tồn tại với tầm nhìn mới từ thời cổ đại cho đến sau này, đến các nguyên thủ LX và TT Mỹ.

Theo những diễn biến trong thế kỷ 20, cuộc xâm lấn và áp đặt trật tự mới của châu Âu đã kết thúc cùng chủ nghĩa thực dân sau những nỗ lực dung hòa, ko mang tính hủy diệt, mà chỉ cố gắng vô hiệu hóa sức phản kháng của các dân tộc vì độc lập chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc.

Từ lịch sử, có thể thấy: trái ngược với quan điểm của phương Tây xem thế giới công bằng là thế giới gồm các quốc gia độc lập, Trung Hoa là hình mẫu của thời kỳ đen tối và bất công.

Xu hướng của thế giới là hợp lại trong 1 trật tự chung, ko tách thành các công quốc nhỏ. Sự hợp nhất là động lực mang lại kết cục của thế giới, sớm hay muộn cũng sẽ thành công!

Điều này ko xoá bỏ thế giới, vì các đế quốc đã và đang đóng vai trò quyết định trong việc hợp nhất nhiều nền vh nhỏ thành các nền vh lớn trong mục đích biến "chúng nó" trở thành "chúng ta".

Ra đời và phát triển từ cuộc Cách mạng Nông nghiệp cách đây 12.000 năm, nông dân là những người góp phần chủ yếu định hình lịch sử cho đến ngày nay. 

Giai cấp công nhân hình thành cùng cm Công nghiệp, theo Marx, họ đại diện cho phương thức sx tiến bộ hơn từ 200 năm qua. Và học thuyết của ông đã đặt họ vào vị trí có vai trò quan trọng đặc biệt với số phận của loài người trên phạm vi toàn thế giới.

Khởi đầu với cuộc cm Khoa học cách đây 500 năm, thế giới đã chứng kiến sức mạnh của con người trong sự tăng trưởng phi thường. Những người nông dân và các nền vh xa xưa đều ko có khái niệm về sự tiến bộ cho đến khi xuất hiện cuộc Cách mạng Khoa học. Đối với họ, thời hoàng kim thuộc về quá khứ. Nhưng đã có 1 thế giới khác khi khoa học mang lại sự tiến bộ và điều ko thể biết trước này đã đến từ châu Âu khi trung tâm quyền lực thế giới đã chuyển sang châu Âu từ thế kỷ 18. Và cho đến bây giờ, hầu như tất cả mọi người, ở mức độ lớn hơn so với mức họ muốn thừa nhận, đều có trang phục, tư tưởng và thị hiếu châu Âu. Ngay cả TQ hiện nay, đang giành vị trí số 1 thế giới, cũng được xây dựng trên mô hình sản xuất và tài chính châu Âu.

Đại diện của sức mạnh công nghệ châu Âu, phép màu tạo nên sự phi thường làm cho châu Âu vượt trội hơn châu Á là giai cấp công nhân, dù công trạng thuộc về những nhà khoa học châu Âu.

Những người châu Âu đã quen với suy nghĩ và hành động theo phương thức khoa học và CNTB, ngay cả trước khi họ được hưởng bất kỳ 1 lợi thế kỹ thuật nào.

Và câu chuyện của thế giới chỉ thật sự bắt đầu nếu tất cả đều từ những sự việc thuận tình và hợp lý. Đó là cuộc hôn nhân giữa khoa học và đế quốc. Và 1 trật tự thế giới khác đã được sinh ra từ đây.

Trong thế kỷ 20, những nền vh phi châu Âu mới tiếp nhận 1 tầm nhìn toàn cầu thực sự.

Algeria và VN là những nước đầu tiên đánh bại Pháp, 1 cường quốc châu Âu chiếm lợi thế áp đảo về lực lượng, kỹ thuật và kinh tế. Đây là những bước đầu dẫn đến sự sụp đổ quyền bá chủ của châu Âu.

Và cuộc chiến tranh VN giáng đòn nặng nề xuống người khổng lồ Mỹ cũng là chiến thắng vì được hỗ trợ bởi 1 mạng lưới trong hệ thống chống thực dân toàn cầu và vì họ đã tìm ra cách khai thác phương tiện truyền thông thế giới để phục vụ cho cách đánh trường kỳ bằng chiến tranh du kích (mà VN gọi là chiến tranh nhân dân).

Những nước nhỏ bé thắng siêu cường cho thấy: nếu cuộc chiến tranh ko có tính đại chiến nhưng khi nó trở thành 1 vấn đề toàn cầu thì phần thắng sẽ thuộc về bên có được sự ủng hộ mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu với xu thế chung. Vì vậy, cả Pháp và Mỹ đều nhanh chóng nối gót Anh.

Khoa học và CNTB đã hình thành nên di sản quan trọng nhất mà CN đế quốc châu Âu để lại cho hậu thế trong thế kỷ 21. Châu Âu đã ko còn cai trị thế giới nữa, nhưng khoa học và CNTB vẫn đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

CNTB

Niềm tin vào xu thế toàn cầu cuối cùng đã dẫn đến sự thay đổi to lớn. Ngay từ năm 1776, trong cuốn Của Cải Của Các Dân Tộc/The Wealth of Nations, Adam Smith đã nêu những vấn đề được coi là bản tuyên ngôn kinh tế học quan trọng nhất của mọi thời đại. Trong đó, ông lập luận v/v càng nhiều lợi nhuận càng cần nhiều nhân công hơn. Suy ra sự gia tăng lợi nhuận của những cá nhân khởi nghiệp là cơ sở cho việc gia tăng sự giàu có và thịnh vượng của tập thể. Đây là nền kinh tế mang tính "đôi bên cùng có lợi". Châm ngôn của Smith "Khi lợi nhuận tăng người chủ cơ sở sẽ thuê thêm nhân công", chứ ko phải là "Khi lợi nhuận tăng, người chủ Keo kiệt sẽ cất tiền vào két, và chỉ lấy ra khi muốn đếm chúng".

Điều này cũng có nghĩa, theo đó lợi nhuận phải được tái đầu tư vào sx. Và cứ thế gia tăng lợi nhuận nhiều... vô tận.

Trong tín ngưỡng tư bản mới, điều thiêng liêng nhất là: Lợi nhuận của sx phải được tái đầu tư vào sự gia tăng sx.

Điều đó giải thích tại sao lý thuyết kinh tế về tiền bạc được gọi là "CNTB".

Thời Trung cổ là thời đại hoàng kim của giới quý tộc hào phóng trong những cuộc vui và tiêu dùng xa xỉ. Chỉ 1 số ít trong số họ thử tái đầu tư lợi tức bằng việc tăng sản lượng nông nghiệp trên đất của họ với những giống tốt hơn hay tìm kiếm những thị trường mới.

Giới quý tộc này đã bị thay thế bởi 1 tầng lớp ưu tú mới, họ là những tín đồ đích thực của tín ngưỡng TB.

CNTB hiện đại đã vượt xa hơn 1 học thuyết kinh tế. Nó bao gồm 1 lý thuyết đạo đức (về cách ứng xử và giáo dục gia đình) với nguyên lý cơ bản cho rằng: tăng trưởng kinh tế chính là ân điển tối cao vì công lý, tự do và cả hạnh phúc, tất cả đều phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế.

Sau cuộc cm XHCN Tháng 10 ở Nga và sau khi Thế chiến Thứ 2 kết thúc, sự tham lam của CNTB phần nào được kiềm chế (ít nhất là do thực tế từ ảnh hưởng của Marx và sự sợ hãi trước CNCS).

Thế giới vẫn tiếp tục thay đổi, thế giới mà trật tự do CNTB tạo ra (để nhà TB điều hành) cần có 1 nỗ lực nhằm quản lý tất cả theo cách khác so với hiện tại mà sự tăng trưởng có thể trở thành 1 trò lừa đảo khổng lồ.

Câu chuyện trở lại như với Cách mạng Nông nghiệp và tương tự như vậy, chúng ta có thể ko thích CNTB, nhưng ko thể sống thiếu nó.

Cm XHCN Tháng 10 Nga mở đầu cho sự tìm kiếm sự bình đẳng giữa mọi người. Những người đi theo con đường của Lênin muốn xóa bỏ đặc quyền của người giàu khi coi tiền bạc hơn các bản chất phổ quát của mọi người, 1 thứ mà với người giàu và người nghèo là giống nhau.

ĐQX khác với các giáo phái nhân văn XHCN khác bởi thuyết phân biệt chủng tộc mà Hitler đề cao với chủng tộc Arya là hình thức cao nhất, tiên tiến nhất của nhân loại (dân tộc thượng đẳng). Dân tộc Đức phải được bảo vệ và phát triển, đồng thời, các hình thức thoái hóa của Homo Sapiens như người DT, người La Mã, người đồng tính hay mắc chứng tâm thần phải bị cách ly và thậm chí là tiêu diệt.

Chủng tộc Arya được ĐQX đề cao vì cho rằng người Đức có những phẩm chất tốt nhất - tính duy lý, vẻ đẹp, tính toàn vẹn và sự siêng năng. Tất cả đều cho thấy họ vượt trội hơn các chủng tộc khác.

(Lược ghi từ Sapiens - Lược sử loài người của Yuval Noah Harari)

Friday, January 24, 2025

Tây Âu & cuộc Cách mạng Khoa học (1)

 Khoảng năm 1500, lịch sử đã có sự lựa chọn quan trọng nhất mang tên Cách mạng Khoa học. Đây là cuộc cm mang lại sức mạnh chưa từng có cho nhân loại sau Cách mạng Nhận thức (đã khởi động lịch sử) và Cách mạng Nông nghiệp (đã tăng tốc lịch sử). Ba cuộc cm này đã thay đổi thế giới, đưa lịch sử đi từ giao lộ này đến giao lộ kế tiếp với những lựa chọn làm thay đổi, ko chỉ số phận của loài người, mà cả số phận của muôn loài trên Trái Đất.

Trong cuộc cm này, con người đã có được vô số quyền năng mới thông qua việc tập trung đầu tư nguồn lực vào nghiên cứu khoa học.

Mô hình lý tưởng của sự tiến bộ ko phải là 1 trật tự trông chờ vào 1 đấng cứu thế, cũng ko phải chỉ dựa vào những công cụ mới, để vượt qua giới hạn của con người.

Nghèo nàn, bệnh tật, chiến tranh, đói khát, già nua và cái chết đều ko phải là định mệnh ko thể tránh khỏi mà đơn giản chỉ là kết quả do "nghèo tri thức" mà thôi.

Từng vấn đề trong quá khứ, dù là vấn đề kỹ thuật xử lý sét bằng cột thu lôi hay thiếu lương thực và những vấn đề xh đều có thể giải quyết được bằng những tìm tòi mới nhất trong vật lý học, nông học, kinh tế học, y học và xh học. Các khám phá khoa học có thể giúp con người có những sức mạnh mới bằng cách tiếp thu và áp dụng kiến thức mới để giải quyết những vấn đề của mình.

Lịch sử đã có nhiều xh điêu đứng vì đói nghèo, trong đó "nghèo xh" tước đi của nhiều người cơ hội mà những người khác vẫn được hưởng chúng, còn "nghèo sinh học" làm nhiều người khốn khổ vì nguy cơ thiếu ăn và phải sống trong điều kiện dưới mức trung bình.

"Nghèo xh" là vấn đề có vẻ như khó loại trừ được, trong khi thực tế ở nhiều nước cho thấy: "nghèo sinh học" chỉ còn là chuyện quá khứ. Con đường của những quốc gia này đã mở ra hướng đi cho thế giới và đây là điều có thể đưa nhân loại đến 1 mô hình xh hoàn hảo hơn. 

Khoa học là 1 sự nghiệp rất tốn kém. Trong 500 năm, khoa học đã đạt được những kỳ tích, phần lớn nhờ các chính phủ, doan nghiệp, tổ chức và các nhà tài trợ tư nhân, sẵn sàng đổ ra hàng tỉ đô la cho việc nghiên cứu khoa học.

Bản thân các nhà khoa học ko phải lúc nào cũng nhận ra được lợi ích chính trị, kinh tế và tôn giáo vốn kiểm soát dòng chảy của đồng tiền (và thực tế là: nếu ko có nguồn tài chính thỏa đáng, thì ko trí tuệ xuất chúng nào có thể bù đắp cho điều này).

Nhưng nguồn lực nào cũng có giới hạn. Để điều hướng những nguồn lực giới hạn này, buộc các nhà đầu tư phải trả lời các câu hỏi "Điều gì quan trọng hơn?" hay "Điều gì là tốt?". Các câu hỏi này ko mang tính khoa học và chỉ có các tôn giáo và tư tưởng mới đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi như vậy.

Một chính quyền tự do, 1 chính quyền cs, 1 chính quyền quốc xã và 1 công ty kinh doanh TB sẽ sử dụng những khám phá khoa học giống nhau cho những mục đích khác nhau và ko có lý do khoa học nào để thiên vị cách này hơn cách khác.

Vì vậy, các sức mạnh tư tưởng, chính trị và kinh tế đã định hướng cho vật lý học, sinh học và xh học, đẩy chúng đi theo những hướng nhất định trong khi bỏ qua những hướng khác.

Hai sức mạnh đáng kể là CN đế quốc, CNTB và vòng chuyển động/hồi tiếp tạo sức mạnh giữa khoa học, đế quốc và TB vẫn được tranh cãi là động cơ chính của lịch sử trong 500 năm qua.

Cỗ máy này vận hành bởi chiếc turbine kép - khoa học và đế quốc - được gài vào nhau, cả hai đều bị trói buộc vào cái máy bơm tiền của CNTB.

(Ghi lại từ Sapiens - Lược sử loài người của Yuval Noah Harari)

Thursday, January 23, 2025

Đế chế toàn cầu mới và những chiến thắng của CNTB

Từ khoảng năm 200 TCN, hầu hết loài người đã sống trong những đế quốc và triển vọng trong tương lai có vẻ cũng như vậy. Viễn cảnh về sự thống trị của Đế chế Toàn cầu có thể sắp xảy ra.

Thế kỷ 21 mở ra kỷ nguyên của các vấn đề mang tính toàn cầu làm chủ nghĩa dân tộc nhanh chóng bị mất chỗ đứng với những quốc gia đang ngày càng mở cửa cho các guồng máy của thị trường toàn cầu với sự can thiệp của các công ty toàn cầu và các tổ chức phi chính phủ*, cho sự giám sát của dư luận toàn cầu và hệ thống tư pháp quốc tế.

Các dòng thác vô cùng mạnh mẽ của vốn TB, nguồn lực lao động và thông tin đã xoay chuyển và định hình thế giới, với sự xoá bỏ ngày càng nhiều những biên giới và quan điểm quốc gia.

Vấn đề của CNTB nằm ở giá trị thặng dư. Điều này là động lực của thị trường tự do, đồng thời sự thèm khát gia tăng lợi nhuận và gia tăng sx đã làm mờ mắt người ta trước bất cứ thứ gì cản trở/ngán đường. Điều này khi ko bị giới hạn bởi bất cứ sự cân nhắc đạo đức nào khác, nó có thể dễ dàng dẫn đến thảm họa.

Sức mạnh của CNTB thông qua Cách mạng Công nghiệp đã mở ra những phương thức mới để chuyển đổi năng lượng và sx hàng hóa, giải phóng phần lớn nhân loại khỏi sự phụ thuộc vào hệ sinh thái xung quanh.

Con người đốn rừng, khai thông các vùng đầm lầy, đắp đập ngăn sông, tưới nước cho các vùng đất rộng lớn, lắp đặt hàng chục ngàn cây số đường xe lửa và xây dựng các đô thị lớn với những tòa nhà chọc trời. Khi thế giới được tạo nên để phù hợp với nhu cầu của Homo sapiens, môi trường sống đã bị phá hủy. Nhiều loài bị tuyệt chủng, hành tinh từng tràn đầy hoa lá xanh tươi trở thành 1 trung tâm mua sắm bằng bê tông, kính và nhựa tổng hợp.

Đạo đức tư bản và chủ nghĩa tiêu dùng là 2 mặt của đồng tiền. Đạo đức tư bản - tiêu dùng có tính cm theo 1 nghĩa thực tế vì hứa hẹn về chốn thiên đường có thể trở thành hiện thực (với điều kiện là người giàu vẫn tham lam và làm ra nhiều tiền, số đông còn lại vẫn hoàn toàn tự do với những khao khát và đam mê của họ - mua nhiều và ngày càng nhiều hơn nữa). Đây là tôn giáo đầu tiên trong lịch sử, khác với những tôn giáo trước nó, vì các tín đồ của nó thực sự làm được những gì họ được yêu cầu làm.

CNTB đã tạo ra 1 thế giới trong đó chỉ có nhà tư bản mới đủ khả năng điều hành nó (từng có 1 nỗ lực nhằm quản lý thế giới theo cách khác, nhưng kết cục lại tệ hơn RẤT NHIỀU xét trên mọi phương diện). Theo quan điểm này, chính sách kinh tế khôn ngoan nhất là giữ cho chính trị đứng ngoài kinh tế, giảm thuế và các quy định của chính phủ xuống mức tối thiểu, và cho phép sức mạnh thị trường hoàn toàn tự do đi theo con đường phát triển tự nhiên của nó (nhiều nhà tư bản hăng hái có xu hướng cho rằng: tư bản nên được tự do gây tác động lên chính trị, nhưng chính trị ko được phép ảnh hưởng đến tư bản**).

(*): Về điều này, Marx và các nhà phê bình xh đã châm biếm những chính phủ phương Tây đang trở thành các công đoàn của CNTB.

(**): Marx gọi đây là giai đoạn "tư bản lũng đoạn".

(Ghi lại từ Sapiens - Lược sử loài người của Yuval Noah Harari)

Wednesday, January 22, 2025

Lược sử Thế giới (2)

Quyển 2: Châu Âu thời Trung cổ 

Thời kỳ Đế quốc La Mã suy tàn là giai đoạn bắt đầu 1 thời kỳ khác của lịch sử châu Âu: Thời kỳ Trung cổ.

Từ 1 ngọn đuốc soi sáng châu Âu, La Mã trở nên suy yếu vào thế kỷ 5, lúc đó bộ tộc Germain tràn vào xâm chiếm vùng Tây La Mã, sau đó là các bộ tộc du mục man rợ khác. 

Dân chúng trong thời kỳ hỗn loạn chen chúc trong những vùng đất bị chia cắt nằm trong tay các lãnh chúa, nơi nhà vua mất hết uy quyền. Các pháo đài được xây dựng khắp nơi là nơi ẩn náu của mọi người khi có giặc tới cướp phá.

Dần dần, xung quanh những pháo đài và các vùng lân cận hình thành những khu kinh tế, vh của những thành thị phát triển kỹ nghệ. Từ đó xuất hiện 1 tổ chức xh mới: chế độ phong kiến.

Sống trong thời loạn lạc, con người chỉ biết đánh giết và thôn tính lẫn nhau, hầu như nơi nương náu cuối cùng của dân chúng là những giáo đường vì chỉ có giáo hội còn đủ sức đương đầu với các lãnh chúa. Và như thế, càng ngày uy quyền của Ki-tô giáo càng tăng lên. Giáo hoàng trước kia chỉ là người đại diện tối cao của tôn giáo, uy quyền chỉ trong phạm vi cộng đồng giáo dân, nhưng khi đất đai bị xâm lấn, vua chúa ko được tôn trọng thì Giáo hoàng nhân cơ hội này đã tranh giành quyền lực với các vua chúa.

Cùng với những thành thị phát triển với thành phần thương nhân và thợ thủ công, những cuộc thánh chiến/thập tự chinh cũng làm cho kỹ nghệ thương mại tiến triển, gia tăng sức mạnh cho lực lượng ở các thành thị (sau này cấu thành tầng lớp thị dân mà tiêu biểu là giai cấp tư sản). Đây chính là sức mạnh chính sẽ tiêu diệt chế độ phong kiến của các lãnh chúa.

Sau khi thuốc súng được phát minh ở Trung Hoa, trong tay người châu Âu, nó được nghiên cứu để áp dụng cho pháo binh và bộ binh. Với sức mạnh mới này, cục diện cuộc chiến đã ngả về phía lực lượng thuộc phe ủng hộ chính quyền quân chủ TW tập quyền.

Sau thế kỷ 11, kinh tế châu Âu bắt đầu thay đổi, nông nghiệp ko còn lạc hậu như trước và kỹ nghệ cũng phát triển hơn. Thương mại cũng theo đó tiến triển. Từ thế kỷ 12, nhờ những ngọn hải đăng ven biển, nhờ địa đồ và la bàn và những cải thiện trong việc đóng tàu nên việc buôn bán đường biển cũng phát triển mạnh như trên bộ. Các thương cảng ở Pháp, nhất là ở Đức và Ý phát đạt rất nhanh. Ở vùng Địa Trung Hải công cuộc thương mại rất sầm uất và có vai trò quan trọng trong việc thông thương với phương Đông. Trong đó, phải kể đến Gènes và Venise là 2 đô thị phát triển rất nhanh và là những trung tâm thịnh vượng nhất. 

Vai trò của giai cấp thị dân thời này trong sự tiến hóa của xh quan trọng vô cùng. Nhờ họ mà lịch sử phương Tây vượt qua giai đoạn phong kiến để tiến tới giai đoạn tư bản hùng cường. Vì thiếu giai cấp này mà phương Đông đứng mãi 1 chỗ để rồi chịu lệ thuộc phương Tây.


Quyển 3: Thời Cận đại (1453-1789)*

Cuối thời Trung cổ, chính sách phong kiến ở châu Âu đã gây trở ngại cho sự phát triển thương mại và kỹ nghệ. Đây là vấn đề dẫn đến sự xung đột giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc.

Ban đầu, phía tư sản đòi quý tộc nhường cho họ quyền tự trị. Ko chỉ đòi tự trị trong các thành thị, họ còn phải thống nhất quốc gia để tạo cơ hội phát triển cho thương mại và kỹ nghệ. Họ ủng hộ các vua và hoàng đế để đánh bại các lãnh chúa, tập trung quyền bính vào tay các chính quyền quân chủ TW.

Thế kỷ 14, ở Tây Âu các quốc gia quân chủ đã được củng cố; ở Trung Âu, bóng tối phong kiến còn bao phủ nhưng mầm mống quân chủ đã hình thành trong các quốc gia ở đây, dưới ảnh hưởng của Tây Âu tinh thần này ngày càng phát triển; ở Đông Âu, hình thức quốc gia chưa rõ nét, nhưng con đường tiến hóa của Tây Âu đã mở, sớm hay muộn Đông Âu cũng theo con đường ấy mà đi.

Đến thế kỷ 17 thì chế độ quân chủ Tây Âu già cỗi, chế độ quân chủ Trung Âu và Đông Âu đã phát triển lớn mạnh. Thời kỳ Cận đại là lúc các quốc gia này tranh đấu với nhau để mở mang bờ cõi và chiếm ưu thế trên lục địa và trên biển. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18, các cuộc chiến xảy ra ko dứt, nhất là giữa 2 cường quốc Pháp - Anh.

Đến đây, lịch sử đã bước tới 1 khúc quanh mới bởi quyền lợi kinh tế đã lọt vào tay giai cấp tư sản, họ chỉ chưa nắm được quyền về chính trị.

Trong thời Trung cổ, họ ủng hộ chế độ quân chủ, nhưng để đi tiếp con đường đã mở, họ tiếp tục đấu tranh với các vua và hoàng đế để giành chính quyền về tay mình.

Những cuộc cm đã nổ ra, sự thành lập chế độ đại nghị ở Anh, cuộc cm ở Mỹ cùng bản Tuyên ngôn Độc lập chứng tỏ cuộc chiến đã tới hồi quyết liệt, và kết quả là chế độ quân chủ bị giai cấp Tư sản đánh bại.

Thời kỳ này, nước Pháp là trung tâm văn minh của châu Âu. Đế quốc Pháp đi theo con đường của Anh đã phát triển về mọi mặt, từ vh, khoa học đến cm về tư tưởng. Họ dẫn đầu châu Âu và kéo theo các phong trào cải cách ở Trung Âu và Đông Âu (Phổ, Áo, Nga). Các kts thực hiện khắp châu Âu những công trình kiến trúc mới, loại bỏ các thành trì phong kiến để thể hiện nghệ thuật cổ điển theo lối Pháp, nhất là ở các tp như Vienne,  Berlin, Saint Petersburg.

Cuộc Cách mạng Pháp mà người ta mệnh danh là "Cách mạng châu Âu" xảy ra năm 1789 mở màn cho 1 thời kỳ lịch sử mới: Thời Hiện đại.


Quyển 4: Thời Hiện đại (Từ cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789 đến sau này)

Trong cuốn Sapiens - Lược sử loài người, Harari viết: "Nếu chương này** được viết vào năm 1945 hoặc 1962, nó có thể sẽ mang tới thông điệp bi đát hơn nhiều. Vì được viết vào năm 2014, nên chương này chọn một cách tiếp cận tương đối vui vẻ hơn về lịch sử hiện đại."

Bộ sử của 2 tác giả Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang biên soạn xuất bản năm 1955 với những tư liệu được thu thập từ những cuốn sách được viết trước đó nên chỉ giới hạn ở nửa đầu của thế kỷ 20. Đến nay, các diễn biến đang diễn ra với tốc độ chóng mặt, khó lường. Vì vậy, Thời Hiện đại ở đây là phần chưa cập nhật cho đến nay, phần mới nhất sẽ do các nhà nghiên cứu sau chúng ta ghi lại.

------------

Có thể nói: Lịch sử Hiện đại là lịch sử của Cách mạng, đúng hơn, chúng tôi phải nói là lịch sử của Khoa học.

Hầu hết những cuộc cm từ 1789 đến nay và chính sách đế quốc với những ảnh hưởng tai hại của nó, tức những cuộc chiến tranh thuộc địa, phản đế, đại chiến, đều là kết quả gần hay xa của sự phát triển khoa học.

Khoa học đã làm tăng năng lực của loài người, 1 nhà bác học Mỹ đã tính: nếu ko có máy móc mà muốn làm hết những công việc loài người làm được ngày nay, thì phải với 1 dân số đông gấp 40 lần dân số hiện tại trên Trái Đất.

Khoa học giúp chúng ta sung sướng hơn, hiểu biết nhiều hơn, kết nối mật thiết với nhau hơn (tuy cảm xúc ko như trước). Chúng ta có thể ngồi 1 nơi mà nghe tiếng hát của các danh ca trên thế giới, thấy các sự kiện xảy ra ở khắp nơi, chúng ta được ăn nhiều của ngon vật lạ, trang phục đẹp và thích hợp, đi lại ko mất nhiều sức lực và thời gian, truyền tin nhanh chóng hơn v.v.

Khoa học cũng thay đổi đời sống tinh thần của chúng ta. Tôn giáo, gia đình dần dần kém thiêng liêng; những tư tưởng dân chủ và xh xuất hiện và lan truyền rất nhanh. Tới quan niệm quốc gia cũng bị thu hẹp, nhân loại đã nghĩ đến đời sống quốc tế. LHQ sau Thế chiến 2 tuy còn yếu ớt, ko đủ uy quyền để giải quyết những vấn đề lớn của thế giới, song cũng đã là những thử nghiệm để hướng tới 1 sự đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc với nhau.

Nhưng nhân loại còn nhiều vấn đề gay go này nữa, cũng do khoa học gây nên:

Cuộc sống trong các văn phòng hoặc công xưởng tại các đô thị ko được tự nhiên, có hại cho sức khỏe và tinh thần, tính cách con người. Cần tổ chức lại sao cho việc sử dụng được máy móc mà ko bị lệ thuộc như nô lệ của chúng.

Về chính trị, ngay cả những nước tự hào là dân chủ nhất, người dân vẫn chưa có nhiều quyền. Vài ba năm mới được bỏ phiếu 1 lần, vấn đề gì cũng do những người đại diện cho mình giải quyết mà hạng người này thường thiếu tinh thần và đạo đức phục vụ quần chúng. Tại nhiều cường quốc, họ là tay sai của bọn tài phiệt và bọn này lung lạc chính phủ, giật dây trong bóng tối. Những tự do căn bản của con người mặc dù đã được cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và LHQ long trọng tuyên bố, vẫn chưa được bảo đảm, ngay tại những nước văn minh cũng vậy.

Các cường quốc phải bênh vực, hỗ trợ các dân tộc nhược tiểu, tiêu diệt chính sách đế quốc đi thì nhân loại mới có thể hạnh phúc, chiến tranh mới có thể chấm dứt.

Về kinh tế, phải điều khiển và kiểm soát chặt chẽ sức sx để nhân loại có đủ những sản phẩm cần thiết mà ko lãng phí vào những thứ xa xỉ, để kinh tế ko chịu nạn khủng hoảng, hạn chế tình trạng thất nghiệp là hậu quả của những vấn đề này.

Với thành quả có được, cần phân phối sao cho ko có kẻ bị thiếu thốn, đói khổ. Những sáng kiến, hy sinh phải được khuyến khích mà sự bóc lột thì nhất định phải tận diệt.

Con người đã có những tiến triển trong lịch sử của mình từ 500 năm qua. Đặc biệt tiến mạnh nhất trong khoảng 2 thế kỷ nay, từ khi khoa học bắt đầu phát triển. 200 năm so với dĩ vãng nửa triệu năm (từ khi loài người xuất hiện) và tương lai hàng chục, hàng trăm triệu năm, thực là chẳng đáng kể gì.

Nếu chỉ tồn tại nửa triệu năm nữa, loài người sẽ tiến tới đâu, ko ai có thể tưởng tượng nổi. Với câu hỏi: "Chúng ta từ đâu tới?" đã được các nhà bác học giải đáp 1 cách gần thoả mãn. Nhưng còn câu hỏi: "Chúng ta sẽ đi tới đâu?" thì vẫn còn nguyên vẹn.

Tuy nhiên, chúng ta đã trở nên thông minh, đã ngự trị muôn loài, chiến thắng cả Hóa công thì lẽ nào ko giải quyết được vấn đề sinh tồn và hạnh phúc của mình.

Chúng ta đang sống trong thời kỳ khủng hoảng, tương lai mù mờ chỉ vì khoa học mới xuất hiện. Nên chúng ta chưa thể tìm ra cách sử dụng nó sao cho thật hiệu quả để nó phục vụ chúng ta đi đến tương lai theo con đường mà chúng ta mong muốn.

Sài Gòn 1955

(*): Thật ra giữa thời Trung cổ và Cận đại ko có ranh giới rõ ràng. Trung cổ ko hoàn toàn tối tăm do kinh tế, vh bị bóp nghẹt trong lãnh địa của các lãnh chúa. Thế kỷ 13, nền kinh tế châu Âu đã có những biến đổi và sinh hoạt vật chất lẫn tinh thần của con người cũng biến đổi theo. Giai cấp quý tộc ở nhiều trung tâm thương mại quan trọng bị giai cấp tư sản lấn át, nhiều trào lưu tư tưởng được phát động, nhiều đại học đường mở cửa đón tiếp tinh thần ham muốn tự do, tiến bộ. Trong nhiều xh như thế phảng phất 1 luồng gió mới, thúc giục con người thoát khỏi ranh giới của quốc gia phong kiến để cùng tiến tới 1 hình thức xh cao hơn.

Chính nhờ cái tinh thần ấy mà thời kỳ Phục Hưng xuất hiện!

(**): Cuộc cách mạng lâu dài (nguyên văn của người dịch: "nó có thể sẽ mang phong cách bi thảm hơn nhiều.")

(Ghi lại từ Lịch sử Thế Giới của Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang)

Monday, January 20, 2025

Lược sử Thế giới (1)

Quyển 1: Thời thượng cổ 

Thời Thượng cổ bắt đầu từ khi có chữ viết đến thế kỷ 5 (kết thúc khi đế quốc La Mã bị tiêu diệt).

Thuở hồng hoang, thời kỳ sơ khai của loài người, là thời gian vẫn phải tìm kiếm nhiều sự việc/di tích để lại của con người. Chúng là những dấu vết để bổ sung vào kiến thức còn sơ sài của chúng ta về tổ tiên của con người thời tiền sử, khi chưa có chữ viết để lưu lại những hiện tượng và sự kiện quan trọng từng xảy ra như với những nền văn minh về sau (cách đây khoảng 5000 năm).

Suốt hàng trăm ngàn năm, người tiền sử chỉ biết dùng lửa và công cụ bằng đá chế tác thô sơ, dần dần mới hoàn thiện, mài đá để làm những đồ vật tinh xảo hơn. Những bước tiến đầu tiên là biết trồng trọt, chăn nuôi gia súc, làm nhà, dệt vải, làm đồ gốm, chế tạo đồ đồng và bắt đầu ghi lại những hình ảnh của cảnh vật, muông thú và sinh hoạt của con người bằng những nét vẽ, tranh vẽ trong hang động và những hoạ tiết tinh xảo trên những đồ vật được sử dụng hàng ngày.

Cổ sử Cận Đông đã được ghi lại làm chúng ta ngạc nhiên về những nền văn minh từ lưu vực sông Nil đến vùng Lưỡng Hà.

Mỗi nền văn minh đều có những đặc điểm riêng: Ai Cập và những kỳ quan kiến trúc hùng vĩ đã phát triển từ nông nghiệp, dần dần tiến tới công nghệ chế tác và thương mại. Người Sumer có tinh thần thượng võ vì là nơi dễ bị xâm lăng. Họ là những người rất giỏi về thiên văn. Dân tộc DT có tinh thần tôn giáo và nổi tiếng với các nhà tiên tri. DT giáo về sau là cội nguồn của đạo Ki-tô. Nay trở thành 1 trong những tôn giáo có những ảnh hưởng mạnh nhất trên thế giới. Dân tộc Crète giỏi về công, thương và nổi tiếng với truyền thuyết của thành Cnosse và thành Troie. Dân tộc Phénicie rất giỏi về thương mại. Họ là những nhà thám hiểm đầu tiên của nhân loại. Tới đâu họ cũng trao đổi sản vật, hàng hóa. Buôn bán phát đạt nên người Phénicie càng tập trung vào khả năng chế tạo, nhờ vậy công nghệ của họ rất phát triển. Dù mang đầu óc con buôn, người Phénicie cũng có công với nhân loại. Họ truyền bá văn minh Cận Đông khắp vùng Địa Trung Hải và 1 phần châu Âu. Họ đặt ra một thứ chữ để dùng trong giao thương từ chữ viết của Ai Cập dung hòa với chữ Chaldée gồm 22 chữ cái rất giản tiện. Lối chữ này truyền qua Hy Lạp, La Mã về sau thành chữ Latinh ngày nay.

Vùng Địa Trung Hải trở nên rực rỡ hơn với những nền văn minh cổ đại Hy Lạp và La Mã sau thời kỳ bình minh của vùng Cận Đông.

Phát triển từ những thành công của người Ai Cập và văn minh Mésopotamie, Hy Lạp nổi bật với nghệ thuật và kiến trúc mang tinh thần hiền triết, khoa học còn La Mã thì thực tế, trọng luật, khéo tổ chức hơn. Cả 2 đế chế này đều trở nên hùng cường nhờ phát triển công nghệ và thương mại. 

Khoảng thế kỷ 9 TCN, người Hy Lạp là những công dân tự do của những vùng đô thị độc lập (theo những quy chế khác nhau*, chung 1 huyết thống mà dân thành thị này có khi coi dân thành thị khác như cừu địch). Trong đó, lớn nhất là Sparte và Athènes.

Sau những cải cách, chính thể Athènes là 1 nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại.

Người Hy Lạp trở nên hùng mạnh trong 2 thế kỷ, tới thế kỷ 7 TCN đã lập nên đế chế của mình với thuộc địa trên những đảo và vùng ven biển Địa Trung Hải. Các thuộc địa này được tự trị, chỉ liên hệ với chính quốc về mặt tinh thần và vh trên cơ sở thống nhất mà thôi.

Vào năm 221 TCN, nhà Tần thống nhất Trung Hoa, ko lâu sau đó người La Mã bắt đầu thống nhất khu vực Địa Trung Hải. Khi Hy Lạp suy vong do cuộc nội chiến tương tàn, đế chế La Mã bắt đầu nổi lên sau khi xâm chiếm Hy Lạp và mở rộng lãnh thổ khắp vùng Địa Trung Hải. Người La Mã nổi tiếng với đội quân tinh nhuệ, cai trị và luật lệ. Hiến pháp La Mã quy định cách cai trị chính quốc và các thuộc địa. Khoảng giữa thế kỷ 5 TCN, người La Mã công bố bộ luật của họ, bộ luật này dần dần được cải thiện và được nhiều nước châu Âu phỏng theo để làm luật riêng.

Người La Mã coi trọng gia đình, trong đó uy quyền người cha rất lớn và có tính cách tôn giáo.

Trung Hoa thời Thượng cổ 

Người phương Tây ở thế kỷ 18 thán phục người Trung Hoa (TH) bao nhiêu, cho họ là văn minh nhất thế giới, thì cuối thế kỷ 19 lại chê họ bấy nhiêu, bảo họ là lạc hậu, là ngủ quên trong cung điện vàng son của mình.

Văn minh TH có tính cách nông nghiệp. Dù nền thương mại TH rất phát đạt, nhưng tầng lớp thượng lưu cho rằng: thương mại và công nghệ phát triển làm con người biến đổi, lợi ít mà họa nhiều nên trọng nông hơn thương.

Vua chúa TH muốn xh trật tự và ổn định trong thuyết tôn ti và trung dung. Gia đình và xh đều trong thể thức/tổ chức tỉ mỉ, hạn chế tình cảm,  quy định mọi hành xử, phép tắc chủ yếu theo Nho giáo trong hàng ngàn năm.

Người TH có tinh thần xh và dân chủ sớm hơn các dân tộc khác. Tuy có nhiều giai cấp nhưng ko có tầng lớp nô lệ. Quan và dân ko có sự cách biệt lớn (vì dân học giỏi thì thành quan. Con quan mà ngu thì cũng phải làm dân). Dân chúng kính sợ vua và vua rất chuyên quyền, nhưng vua ko ra vua thì họ sẽ lật vì "dân muốn cái gì thì Trời muốn cái đó". Vua TH bị phế hoặc giết nhiều hơn vua các nước phương Tây.

TH có sức mạnh đồng hóa phi thường. Dân tộc nào thắng họ cũng theo văn minh của họ: từ ăn mặc, chữ viết, thờ thần thánh, nên xh TH vẫn tồn tại dù nhiều lần bị xâm chiếm.

Người TH vì vậy giữ được nền văn minh lâu dài và ổn định đến mức gần như bảo thủ, bất di bất dịch (tính cách tĩnh), trái hẳn với văn minh phương Tây (tính cách động). Nếu ko có cuộc Chiến tranh Nha phiến với nước Anh thì xh TH vẫn còn đứng 1 chỗ ko biết đến bao giờ.

Ấn Độ & Đạo Phật 

Dân tộc Ấn Độ và Ba Tư đều có chung cội nguồn ở phía Đông biển Caspiene, sau đó tiến xuống phía Nam. Người Ba Tư dừng lại tại vùng trung nguyên Tây Á còn người Ấn tiếp tục vượt sông Ấn tiến vào bán đảo Ấn Độ ngày nay.

Vùng này phía Bắc có dãy núi hiểm trở, các mặt còn lại đều là biển. Vì có 2 con sông lớn là biên giới Đông và Tây (sông Ấn và sông Hằng) nên Ấn Độ gần như biệt lập với thế giới. Dọc theo bờ biển là những dải đồi cao, ngăn gió mưa từ hướng biển nên miền giữa bán đảo rất khô nóng và có nhiều vùng sa mạc nhỏ.

Lịch sử Ấn Độ ko bị xâm lăng nhưng ko thống nhất trong 1 thời gian dài do chia thành hàng ngàn tiểu quốc, giao thông khó khăn, cuộc sống yên ổn hàng thế kỷ.

Người Ấn có chữ viết, kinh Vệ đà là 1 áng văn chương có giá trị.

Xh chia thành nhiều giai cấp: tầng lớp quý phái sống xa hoa trong các cung điện, thích đi săn và hưởng lạc thú; giới tu hành Bà La Môn chẳng làm gì, chỉ tu hành và rất có uy thế; hạng quân nhân, thương nhân và nông dân; cuối cùng là hạng tôi tớ.

Giới tu hành cũng như Giáo hội thời Trung cổ ở châu Âu. Họ hành đạo để giữ chế độ uy quyền hơn là để cứu nhân độ thế. Họ đặt ra nhiều nghi lễ ai cũng phải theo vì theo họ thì con người phải chịu khổ hạnh để thoát vòng sinh tử/luân hồi.

Giữa 1 xh như vậy, có 1 vị Phật xuất hiện, đó là Thích Ca Mâu Ni. Tư tưởng của Phật Thích Ca rất rõ ràng, giản dị và sâu sắc, ko phân biệt giai cấp mà muốn xoá bỏ những sự cách biệt trong xh.

Đạo Phật chủ trương tạo sự bình đẳng, khuyên con người tránh ác làm lành, giữ tâm trong sạch với mục đích giải thoát, ko ham muốn cái đời sống hiện tại.

Sau khi Thích Ca tịch, đệ tử chép lại kinh, sách chứa đạo của ông (từ những bài ông thuyết giáo với 5 đệ tử của mình), chia làm 3 bộ: kinh, luật, luận gọi là tam tạng.

Giai cấp nông dân dù bị giai cấp Bà La Môn áp đặt, theo đạo rất nhiều. Đạo Phật bành trướng rất nhanh, sau chia làm 2 phái: Phái Nam truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Nam Dương; Phái Bắc truyền qua TQ, Triều Tiên, Nhật Bản, VN phát triển rất mạnh.

Nam tông theo giáo lý tiểu thừa, Bắc tông theo giáo lý đại thừa.

Đạo Phật vốn là 1 triết lý hơn là 1 tôn giáo. Đức Phật ko bắt ai tụng kinh, gõ mõ, lễ chùa, cúng Phật. Ông cũng ko nói đến Trời, đến Thần.

Những thuyết phát sinh sau khi đạo Phật vào TQ rất huyền vi. Đạo Phật càng ngày càng truyền đi sai lạc và trở thành 1 tôn giáo**.

------------

(*): Thành Sparte được thành lập và tổ chức như 1 trại lính.

Dân trong thành chia làm 3 giai cấp: cao nhất là quân nhân (ko được làm gì khác ngoài việc cầm khí giới); thứ hai là hạng người tự do; thấp nhất là nô lệ. 

Trẻ em từ 7 tuổi phải xa cha mẹ vào trại sống chung với những trẻ khác dưới sự dạy dỗ theo kỷ luật sắt của nhà binh.

Phụ nữ cũng được huấn luyện gần như đàn ông. Tất cả đều sống giản dị, ko biết xa xỉ phẩm là gì.

Ko muốn dân chúng nhiễm thói hư tật xấu của các nơi khác, người ta cấm ngặt người ngoài vào thành.

Tại thành Athènes, trái lại, người dân tha hồ làm giàu; công nghệ, thương mại rất thịnh.

(**): Về sau người ta lập chùa, làm tượng, đúc chuông, đặt ra các chức hòa thượng, yết ma... Giáo lý của Thích Ca đã ít người thuộc, mà tới tượng Thích Ca cũng ít người biết; còn tượng Quan Âm, 1 nhân vật tưởng tượng thì rất được sùng bái.

(Lược ghi từ Lịch Sử Thế Giới của Nguyễn Hiến Lê & Thiên Giang)

Sunday, January 19, 2025

Văn hóa: Là người được giáo dục tử tế

TÁM ĐẶC TÍNH CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ GIÁO DỤC

Một - nhẹ nhàng, lịch thiệp

Trong giao tiếp hàng ngày.

Bỏ qua chuyện vặt vãnh

Hoặc lời nói không hay.


Hai - Có lòng trắc ẩn

Với loài vật, với người,

Đặc biệt người tàn tật

Hoặc cơ nhỡ trong đời.


Ba - Luôn đọc sách báo,

Nhất là của nước ngoài,

Để nâng cao kiến thức

Và tự hiểu đúng sai.


Bốn - Chân thành, trung thực.

Cả với mình, với người.

Cả việc lớn, việc nhỏ,

Cả việc riêng, việc đời.


Năm - Tự tin, tự trọng.

Mình lo việc của mình,

Không trông chờ người khác,

Không mong người thương tình.


Sáu - Sinh hoạt giản dị.

Từ đi đứng, áo quần.

Không hư danh, phù phiếm,

Không quá kén miếng ăn.


Bảy - Bố đáng mặt bố

Và chồng đáng mặt chồng.

Phải gương mẫu, chuẩn mực,

Đúng nghĩa người đàn ông.


Tám - Phải giữ Năm Giới

Của Đức Phật Thích Ca.

Sống hữu ích, phụng sự

Gia đình và quốc gia.

*

Văn hóa không phụ thuộc

Vào học ít hay nhiều.

Văn hóa là ứng xử

Là tấm lòng thương yêu.


Văn hóa là cái Đức,

Đức làm nên con người.

Hãy sống có văn hóa,

Cho mình và cho đời.

Thái Bá Tân