Monday, January 20, 2025

Lược sử Thế giới (1)

Quyển 1: Thời thượng cổ 

Thời Thượng cổ bắt đầu từ khi có chữ viết đến thế kỷ 5 (kết thúc khi đế quốc La Mã bị tiêu diệt).

Thuở hồng hoang, thời kỳ sơ khai của loài người, là thời gian vẫn phải tìm kiếm nhiều sự việc/di tích để lại của con người. Chúng là những dấu vết để bổ sung vào kiến thức còn sơ sài của chúng ta về tổ tiên của con người thời tiền sử, khi chưa có chữ viết để lưu lại những hiện tượng và sự kiện quan trọng từng xảy ra như với những nền văn minh về sau (cách đây khoảng 5000 năm).

Suốt hàng trăm ngàn năm, người tiền sử chỉ biết dùng lửa và công cụ bằng đá chế tác thô sơ, dần dần mới hoàn thiện, mài đá để làm những đồ vật tinh xảo hơn. Những bước tiến đầu tiên là biết trồng trọt, chăn nuôi gia súc, làm nhà, dệt vải, làm đồ gốm, chế tạo đồ đồng và bắt đầu ghi lại những hình ảnh của cảnh vật, muông thú và sinh hoạt của con người bằng những nét vẽ, tranh vẽ trong hang động và những hoạ tiết tinh xảo trên những đồ vật được sử dụng hàng ngày.

Cổ sử Cận Đông đã được ghi lại làm chúng ta ngạc nhiên về những nền văn minh từ lưu vực sông Nil đến vùng Lưỡng Hà.

Mỗi nền văn minh đều có những đặc điểm riêng: Ai Cập và những kỳ quan kiến trúc hùng vĩ đã phát triển từ nông nghiệp, dần dần tiến tới công nghệ chế tác và thương mại. Người Sumer có tinh thần thượng võ vì là nơi dễ bị xâm lăng. Họ là những người rất giỏi về thiên văn. Dân tộc DT có tinh thần tôn giáo và nổi tiếng với các nhà tiên tri. DT giáo về sau là cội nguồn của đạo Ki-tô. Nay trở thành 1 trong những tôn giáo có những ảnh hưởng mạnh nhất trên thế giới. Dân tộc Crète giỏi về công, thương và nổi tiếng với truyền thuyết của thành Cnosse và thành Troie. Dân tộc Phénicie rất giỏi về thương mại. Họ là những nhà thám hiểm đầu tiên của nhân loại. Tới đâu họ cũng trao đổi sản vật, hàng hóa. Buôn bán phát đạt nên người Phénicie càng tập trung vào khả năng chế tạo, nhờ vậy công nghệ của họ rất phát triển. Dù mang đầu óc con buôn, người Phénicie cũng có công với nhân loại. Họ truyền bá văn minh Cận Đông khắp vùng Địa Trung Hải và 1 phần châu Âu. Họ đặt ra một thứ chữ để dùng trong giao thương từ chữ viết của Ai Cập dung hòa với chữ Chaldée gồm 22 chữ cái rất giản tiện. Lối chữ này truyền qua Hy Lạp, La Mã về sau thành chữ Latinh ngày nay.

Vùng Địa Trung Hải trở nên rực rỡ hơn với những nền văn minh cổ đại Hy Lạp và La Mã sau thời kỳ bình minh của vùng Cận Đông.

Phát triển từ những thành công của người Ai Cập và văn minh Mésopotamie, Hy Lạp nổi bật với nghệ thuật và kiến trúc mang tinh thần hiền triết, khoa học còn La Mã thì thực tế, trọng luật, khéo tổ chức hơn. Cả 2 đế chế này đều trở nên hùng cường nhờ phát triển công nghệ và thương mại. 

Khoảng thế kỷ 9 TCN, người Hy Lạp là những công dân tự do của những vùng đô thị độc lập (theo những quy chế khác nhau*, chung 1 huyết thống mà dân thành thị này có khi coi dân thành thị khác như cừu địch). Trong đó, lớn nhất là Sparte và Athènes.

Sau những cải cách, chính thể Athènes là 1 nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại.

Người Hy Lạp trở nên hùng mạnh trong 2 thế kỷ, tới thế kỷ 7 TCN đã lập nên đế chế của mình với thuộc địa trên những đảo và vùng ven biển Địa Trung Hải. Các thuộc địa này được tự trị, chỉ liên hệ với chính quốc về mặt tinh thần và vh trên cơ sở thống nhất mà thôi.

Vào năm 221 TCN, nhà Tần thống nhất Trung Hoa, ko lâu sau đó người La Mã bắt đầu thống nhất khu vực Địa Trung Hải. Khi Hy Lạp suy vong do cuộc nội chiến tương tàn, đế chế La Mã bắt đầu nổi lên sau khi xâm chiếm Hy Lạp và mở rộng lãnh thổ khắp vùng Địa Trung Hải. Người La Mã nổi tiếng với đội quân tinh nhuệ, cai trị và luật lệ. Hiến pháp La Mã quy định cách cai trị chính quốc và các thuộc địa. Khoảng giữa thế kỷ 5 TCN, người La Mã công bố bộ luật của họ, bộ luật này dần dần được cải thiện và được nhiều nước châu Âu phỏng theo để làm luật riêng.

Người La Mã coi trọng gia đình, trong đó uy quyền người cha rất lớn và có tính cách tôn giáo.

Trung Hoa thời Thượng cổ 

Người phương Tây ở thế kỷ 18 thán phục người Trung Hoa (TH) bao nhiêu, cho họ là văn minh nhất thế giới, thì cuối thế kỷ 19 lại chê họ bấy nhiêu, bảo họ là lạc hậu, là ngủ quên trong cung điện vàng son của mình.

Văn minh TH có tính cách nông nghiệp. Dù nền thương mại TH rất phát đạt, nhưng tầng lớp thượng lưu cho rằng: thương mại và công nghệ phát triển làm con người biến đổi, lợi ít mà họa nhiều nên trọng nông hơn thương.

Vua chúa TH muốn xh trật tự và ổn định trong thuyết tôn ti và trung dung. Gia đình và xh đều trong thể thức/tổ chức tỉ mỉ, hạn chế tình cảm,  quy định mọi hành xử, phép tắc chủ yếu theo Nho giáo trong hàng ngàn năm.

Người TH có tinh thần xh và dân chủ sớm hơn các dân tộc khác. Tuy có nhiều giai cấp nhưng ko có tầng lớp nô lệ. Quan và dân ko có sự cách biệt lớn (vì dân học giỏi thì thành quan. Con quan mà ngu thì cũng phải làm dân). Dân chúng kính sợ vua và vua rất chuyên quyền, nhưng vua ko ra vua thì họ sẽ lật vì "dân muốn cái gì thì Trời muốn cái đó". Vua TH bị phế hoặc giết nhiều hơn vua các nước phương Tây.

TH có sức mạnh đồng hóa phi thường. Dân tộc nào thắng họ cũng theo văn minh của họ: từ ăn mặc, chữ viết, thờ thần thánh, nên xh TH vẫn tồn tại dù nhiều lần bị xâm chiếm.

Người TH vì vậy giữ được nền văn minh lâu dài và ổn định đến mức gần như bảo thủ, bất di bất dịch (tính cách tĩnh), trái hẳn với văn minh phương Tây (tính cách động). Nếu ko có cuộc Chiến tranh Nha phiến với nước Anh thì xh TH vẫn còn đứng 1 chỗ ko biết đến bao giờ.

Ấn Độ & Đạo Phật 

Dân tộc Ấn Độ và Ba Tư đều có chung cội nguồn ở phía Đông biển Caspiene, sau đó tiến xuống phía Nam. Người Ba Tư dừng lại tại vùng trung nguyên Tây Á còn người Ấn tiếp tục vượt sông Ấn tiến vào bán đảo Ấn Độ ngày nay.

Vùng này phía Bắc có dãy núi hiểm trở, các mặt còn lại đều là biển. Vì có 2 con sông lớn là biên giới Đông và Tây (sông Ấn và sông Hằng) nên Ấn Độ gần như biệt lập với thế giới. Dọc theo bờ biển là những dải đồi cao, ngăn gió mưa từ hướng biển nên miền giữa bán đảo rất khô nóng và có nhiều vùng sa mạc nhỏ.

Lịch sử Ấn Độ ko bị xâm lăng nhưng ko thống nhất trong 1 thời gian dài do chia thành hàng ngàn tiểu quốc, giao thông khó khăn, cuộc sống yên ổn hàng thế kỷ.

Người Ấn có chữ viết, kinh Vệ đà là 1 áng văn chương có giá trị.

Xh chia thành nhiều giai cấp: tầng lớp quý phái sống xa hoa trong các cung điện, thích đi săn và hưởng lạc thú; giới tu hành Bà La Môn chẳng làm gì, chỉ tu hành và rất có uy thế; hạng quân nhân, thương nhân và nông dân; cuối cùng là hạng tôi tớ.

Giới tu hành cũng như Giáo hội thời Trung cổ ở châu Âu. Họ hành đạo để giữ chế độ uy quyền hơn là để cứu nhân độ thế. Họ đặt ra nhiều nghi lễ ai cũng phải theo vì theo họ thì con người phải chịu khổ hạnh để thoát vòng sinh tử/luân hồi.

Giữa 1 xh như vậy, có 1 vị Phật xuất hiện, đó là Thích Ca Mâu Ni. Tư tưởng của Phật Thích Ca rất rõ ràng, giản dị và sâu sắc, ko phân biệt giai cấp mà muốn xoá bỏ những sự cách biệt trong xh.

Đạo Phật chủ trương tạo sự bình đẳng, khuyên con người tránh ác làm lành, giữ tâm trong sạch với mục đích giải thoát, ko ham muốn cái đời sống hiện tại.

Sau khi Thích Ca tịch, đệ tử chép lại kinh, sách chứa đạo của ông (từ những bài ông thuyết giáo với 5 đệ tử của mình), chia làm 3 bộ: kinh, luật, luận gọi là tam tạng.

Giai cấp nông dân dù bị giai cấp Bà La Môn áp đặt, theo đạo rất nhiều. Đạo Phật bành trướng rất nhanh, sau chia làm 2 phái: Phái Nam truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Nam Dương; Phái Bắc truyền qua TQ, Triều Tiên, Nhật Bản, VN phát triển rất mạnh.

Nam tông theo giáo lý tiểu thừa, Bắc tông theo giáo lý đại thừa.

Đạo Phật vốn là 1 triết lý hơn là 1 tôn giáo. Đức Phật ko bắt ai tụng kinh, gõ mõ, lễ chùa, cúng Phật. Ông cũng ko nói đến Trời, đến Thần.

Những thuyết phát sinh sau khi đạo Phật vào TQ rất huyền vi. Đạo Phật càng ngày càng truyền đi sai lạc và trở thành 1 tôn giáo**.

------------

(*): Thành Sparte được thành lập và tổ chức như 1 trại lính.

Dân trong thành chia làm 3 giai cấp: cao nhất là quân nhân (ko được làm gì khác ngoài việc cầm khí giới); thứ hai là hạng người tự do; thấp nhất là nô lệ. 

Trẻ em từ 7 tuổi phải xa cha mẹ vào trại sống chung với những trẻ khác dưới sự dạy dỗ theo kỷ luật sắt của nhà binh.

Phụ nữ cũng được huấn luyện gần như đàn ông. Tất cả đều sống giản dị, ko biết xa xỉ phẩm là gì.

Ko muốn dân chúng nhiễm thói hư tật xấu của các nơi khác, người ta cấm ngặt người ngoài vào thành.

Tại thành Athènes, trái lại, người dân tha hồ làm giàu; công nghệ, thương mại rất thịnh.

(**): Về sau người ta lập chùa, làm tượng, đúc chuông, đặt ra các chức hòa thượng, yết ma... Giáo lý của Thích Ca đã ít người thuộc, mà tới tượng Thích Ca cũng ít người biết; còn tượng Quan Âm, 1 nhân vật tưởng tượng thì rất được sùng bái.

(Lược ghi từ Lịch Sử Thế Giới của Nguyễn Hiến Lê & Thiên Giang)

4 comments:

  1. Nguyễn Hiến Lê đã viết cuốn sách này với mục đích mở mang kiến thức cho lớp trẻ. Ông đọc nhiều sách về lịch sử và có ý định dịch và tóm lược lại từ những cuốn sách này.
    Đầu niên khóa 1954-1955, chương trình trung học có thêm môn Lịch sử Thế giới (dạy trong 4 năm). Ông đã gặp ông Thiên Giang (lúc đó dạy sử các lớp trung học) và bàn về việc soạn chung bộ sử thế giới cho học sinh có sách để học.
    Ông Thiên Giang đã đồng ý và viết 2 cuốn giữa, còn ông viết cuốn đầu và cuốn cuối.
    Hai ông gác hết mọi việc khác để viết. Nguyễn Hiến Lê bỏ vốn ra xuất bản, in sách đúng vào năm 1955, trước kỳ tựu trường tháng Chín.

    ReplyDelete
  2. Note: Trong cuốn sách này, 2 tác giả sử dụng từ ngữ phổ cập ở miền Nam (thời kỳ VNCH).
    Khi ghi lại, sau 70 năm, tôi mạn phép các tác giả khi dùng các chữ thông dụng có tính phổ quát để cập nhật thay cho một số chữ ko còn phù hợp (chứ ko phải cổ hủ hay lỗi thời/ko đúng).

    ReplyDelete
  3. Lịch sử thế giới kéo dài qua nhiều niên đại. Nhiều nền văn minh đã biến mất, một số bị chôn vùi trong lòng đất hoặc chìm dưới đáy biển. Các nhà khảo cổ vẫn tiếp tục tìm kiếm và phát hiện những điều rất mới cùng với nhiều câu hỏi đầy bí ẩn.
    Hiện nay, người phương Đông và thế giới nói chung, đều chịu ảnh hưởng của người châu Âu. Trước đây, họ chỉ biết khu vực xung quanh Địa Trung Hải, gọi chung các xứ Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Ả-rập... ở phía Mặt Trời mọc là phương Đông.
    Khi người châu Âu tiến tới Ấn Độ, rồi tới Trung Hoa, VN... bèn gọi những nước sau thuộc miền Viễn Đông, để phân biệt với các nước phía Đông Địa Trung Hải ở trên mà họ đổi thành Cận Đông.
    Từ đó, có danh từ người phương Đông và gọi người châu Âu là người phương Tây.

    ReplyDelete
  4. Vua Hán Cao Tổ tới nước Lỗ, tế Khổng Tử và dùng những nhà nho như Thúc Tôn Thông, Lục Giả... Từ đó, đạo Khổng bắt đầu được tôn sùng rồi trở thành quốc giáo.
    Đạo Phật bắt đầu vào TH từ đời Tần, qua nhiều triều đại cũng biến hóa và phát triển mạnh mẽ cho đến nay.
    Người TH có nhiều phát minh và máy móc từ thời Đông Hán.
    Đời Tùy đã đào kênh Vận Hà từ Giang Nam đến Hà Bắc là 1 con kênh lớn phục vụ giao thông và khai thác miền đất mới.
    Từ thời nhà Hán, trà và mía đã được trồng. Vải lụa rất đẹp, vùng Thành Đô rất nổi tiếng với mười vạn thợ dệt.
    Dương Châu có tiếng về thuộc da, nghề đồng và sắt. Phú Châu nổi tiếng về đồ sứ. Tương Dương có tiếng về đồ sơn.
    Trong các đô thị, những người cùng nghề lập ra hội đoàn để bảo vệ quyền lợi cho nhau.
    Thương mại phát triển nên có những nơi như Tràng An để thương gia gặp nhau. Lái buôn TH đem trà, đồ sứ, lụa ra bán ở Ấn Độ, Bà Tư, Nam Dương, Ả-rập rồi mua về ngà voi, sừng tê, hạt trai, đồi mồi.
    Về chữ viết, người TH dùng bút tre trong ruột đổ sơn đen để viết trên mảnh lụa hoặc trên những thanh tre. Đời Tần chế ra bút lông, viết nhanh hơn. Tới đời Hậu Hán chế được giấy bằng vỏ cây, vải vụn. Đến đời Ngụy, Tấn chế được mực. Nhờ vậy lượng sách vở tăng lên nhiều và tư tưởng truyền bá rộng rãi, mau chóng hơn. Đời Tùy có bản in kinh Phật. Cuối đời Đường người ta bắt đầu in sách.
    Âm nhạc đời Đường rất thịnh, chịu ít nhiều ảnh hưởng từ bên ngoài nên có nhiều điệu mới. Huyền Tôn lập ra viện dạy nhạc và múa gọi là Lê Viên. Thơ cũng được phổ nhạc để hát.
    Hội họa thì vẽ tranh sơn thủy phát triển nhất. Phía Bắc có Lý Tư Huẩn, phía Nam có Vương Duy. Nghề điêu khắc cũng phát đạt nhờ đạo Phật, nhiều tượng và kinh Phật được thực hiện trên đá rất tinh xảo.
    Về kiến trúc, ngoài Vạn Lý Trường Thành, người TH chỉ xây dựng cung điện và chùa với quy mô nhỏ, ko vĩ đại như kim tự tháp của Ai Cập.
    Từ Hán tới Đường, văn chương TH có những tác phẩm lớn. Sử học có bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Bộ Hán Thư của Ban Cố cũng rất có giá trị.
    Về văn thơ, đời Đường rất phát triển. Những ngôi sao sáng nhất trên thi đàn là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị mà đời sau tôn là Thi Tiên, Thi Thánh và Thi Sử.
    Văn xuôi thì có Hàn Dũ và Liễu Tôn Nguyên đề xướng phong trào phục cổ, ko vần, ko đối. Văn của Hàn thì nghiêm trang, cảm động vào hàng bát đại gia cho đến nay. Cả hai đều chủ trương văn phải có mục đích truyền bá đạo Nho.

    ReplyDelete