Quyển 2: Châu Âu thời Trung cổ
Thời kỳ Đế quốc La Mã suy tàn là giai đoạn bắt đầu 1 thời kỳ khác của lịch sử châu Âu: Thời kỳ Trung cổ.
Từ 1 ngọn đuốc soi sáng châu Âu, La Mã trở nên suy yếu vào thế kỷ 5, lúc đó bộ tộc Germain tràn vào xâm chiếm vùng Tây La Mã, sau đó là các bộ tộc du mục man rợ khác.
Dân chúng trong thời kỳ hỗn loạn chen chúc trong những vùng đất bị chia cắt nằm trong tay các lãnh chúa, nơi nhà vua mất hết uy quyền. Các pháo đài được xây dựng khắp nơi là nơi ẩn náu của mọi người khi có giặc tới cướp phá.
Dần dần, xung quanh những pháo đài và các vùng lân cận hình thành những khu kinh tế, vh của những thành thị phát triển kỹ nghệ. Từ đó xuất hiện 1 tổ chức xh mới: chế độ phong kiến.
Sống trong thời loạn lạc, con người chỉ biết đánh giết và thôn tính lẫn nhau, hầu như nơi nương náu cuối cùng của dân chúng là những giáo đường vì chỉ có giáo hội còn đủ sức đương đầu với các lãnh chúa. Và như thế, càng ngày uy quyền của Ki-tô giáo càng tăng lên. Giáo hoàng trước kia chỉ là người đại diện tối cao của tôn giáo, uy quyền chỉ trong phạm vi cộng đồng giáo dân, nhưng khi đất đai bị xâm lấn, vua chúa ko được tôn trọng thì Giáo hoàng nhân cơ hội này đã tranh giành quyền lực với các vua chúa.
Cùng với những thành thị phát triển với thành phần thương nhân và thợ thủ công, những cuộc thánh chiến/thập tự chinh cũng làm cho kỹ nghệ thương mại tiến triển, gia tăng sức mạnh cho lực lượng ở các thành thị (sau này cấu thành tầng lớp thị dân mà tiêu biểu là giai cấp tư sản). Đây chính là sức mạnh chính sẽ tiêu diệt chế độ phong kiến của các lãnh chúa.
Sau khi thuốc súng được phát minh ở Trung Hoa, trong tay người châu Âu, nó được nghiên cứu để áp dụng cho pháo binh và bộ binh. Với sức mạnh mới này, cục diện cuộc chiến đã ngả về phía lực lượng thuộc phe ủng hộ chính quyền quân chủ TW tập quyền.
Sau thế kỷ 11, kinh tế châu Âu bắt đầu thay đổi, nông nghiệp ko còn lạc hậu như trước và kỹ nghệ cũng phát triển hơn. Thương mại cũng theo đó tiến triển. Từ thế kỷ 12, nhờ những ngọn hải đăng ven biển, nhờ địa đồ và la bàn và những cải thiện trong việc đóng tàu nên việc buôn bán đường biển cũng phát triển mạnh như trên bộ. Các thương cảng ở Pháp, nhất là ở Đức và Ý phát đạt rất nhanh. Ở vùng Địa Trung Hải công cuộc thương mại rất sầm uất và có vai trò quan trọng trong việc thông thương với phương Đông. Trong đó, phải kể đến Gènes và Venise là 2 đô thị phát triển rất nhanh và là những trung tâm thịnh vượng nhất.
Vai trò của giai cấp thị dân thời này trong sự tiến hóa của xh quan trọng vô cùng. Nhờ họ mà lịch sử phương Tây vượt qua giai đoạn phong kiến để tiến tới giai đoạn tư bản hùng cường. Vì thiếu giai cấp này mà phương Đông đứng mãi 1 chỗ để rồi chịu lệ thuộc phương Tây.
Quyển 3: Thời Cận đại (1453-1789)*
Cuối thời Trung cổ, chính sách phong kiến ở châu Âu đã gây trở ngại cho sự phát triển thương mại và kỹ nghệ. Đây là vấn đề dẫn đến sự xung đột giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc.
Ban đầu, phía tư sản đòi quý tộc nhường cho họ quyền tự trị. Ko chỉ đòi tự trị trong các thành thị, họ còn phải thống nhất quốc gia để tạo cơ hội phát triển cho thương mại và kỹ nghệ. Họ ủng hộ các vua và hoàng đế để đánh bại các lãnh chúa, tập trung quyền bính vào tay các chính quyền quân chủ TW.
Thế kỷ 14, ở Tây Âu các quốc gia quân chủ đã được củng cố; ở Trung Âu, bóng tối phong kiến còn bao phủ nhưng mầm mống quân chủ đã hình thành trong các quốc gia ở đây, dưới ảnh hưởng của Tây Âu tinh thần này ngày càng phát triển; ở Đông Âu, hình thức quốc gia chưa rõ nét, nhưng con đường tiến hóa của Tây Âu đã mở, sớm hay muộn Đông Âu cũng theo con đường ấy mà đi.
Đến thế kỷ 17 thì chế độ quân chủ Tây Âu già cỗi, chế độ quân chủ Trung Âu và Đông Âu đã phát triển lớn mạnh. Thời kỳ Cận đại là lúc các quốc gia này tranh đấu với nhau để mở mang bờ cõi và chiếm ưu thế trên lục địa và trên biển. Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18, các cuộc chiến xảy ra ko dứt, nhất là giữa 2 cường quốc Pháp - Anh.
Đến đây, lịch sử đã bước tới 1 khúc quanh mới bởi quyền lợi kinh tế đã lọt vào tay giai cấp tư sản, họ chỉ chưa nắm được quyền về chính trị.
Trong thời Trung cổ, họ ủng hộ chế độ quân chủ, nhưng để đi tiếp con đường đã mở, họ tiếp tục đấu tranh với các vua và hoàng đế để giành chính quyền về tay mình.
Những cuộc cm đã nổ ra, sự thành lập chế độ đại nghị ở Anh, cuộc cm ở Mỹ cùng bản Tuyên ngôn Độc lập chứng tỏ cuộc chiến đã tới hồi quyết liệt, và kết quả là chế độ quân chủ bị giai cấp Tư sản đánh bại.
Thời kỳ này, nước Pháp là trung tâm văn minh của châu Âu. Đế quốc Pháp đi theo con đường của Anh đã phát triển về mọi mặt, từ vh, khoa học đến cm về tư tưởng. Họ dẫn đầu châu Âu và kéo theo các phong trào cải cách ở Trung Âu và Đông Âu (Phổ, Áo, Nga). Các kts thực hiện khắp châu Âu những công trình kiến trúc mới, loại bỏ các thành trì phong kiến để thể hiện nghệ thuật cổ điển theo lối Pháp, nhất là ở các tp như Vienne, Berlin, Saint Petersburg.
Cuộc Cách mạng Pháp mà người ta mệnh danh là "Cách mạng châu Âu" xảy ra năm 1789 mở màn cho 1 thời kỳ lịch sử mới: Thời Hiện đại.
Quyển 4: Thời Hiện đại (Từ cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789 đến sau này)
Trong cuốn Sapiens - Lược sử loài người, Harari viết: "Nếu chương này** được viết vào năm 1945 hoặc 1962, nó có thể sẽ mang tới thông điệp bi đát hơn nhiều. Vì được viết vào năm 2014, nên chương này chọn một cách tiếp cận tương đối vui vẻ hơn về lịch sử hiện đại."
Bộ sử của 2 tác giả Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang biên soạn xuất bản năm 1955 với những tư liệu được thu thập từ những cuốn sách được viết trước đó nên chỉ giới hạn ở nửa đầu của thế kỷ 20. Đến nay, các diễn biến đang diễn ra với tốc độ chóng mặt, khó lường. Vì vậy, Thời Hiện đại ở đây là phần chưa cập nhật cho đến nay, phần mới nhất sẽ do các nhà nghiên cứu sau chúng ta ghi lại.
------------
Có thể nói: Lịch sử Hiện đại là lịch sử của Cách mạng, đúng hơn, chúng tôi phải nói là lịch sử của Khoa học.
Hầu hết những cuộc cm từ 1789 đến nay và chính sách đế quốc với những ảnh hưởng tai hại của nó, tức những cuộc chiến tranh thuộc địa, phản đế, đại chiến, đều là kết quả gần hay xa của sự phát triển khoa học.
Khoa học đã làm tăng năng lực của loài người, 1 nhà bác học Mỹ đã tính: nếu ko có máy móc mà muốn làm hết những công việc loài người làm được ngày nay, thì phải với 1 dân số đông gấp 40 lần dân số hiện tại trên Trái Đất.
Khoa học giúp chúng ta sung sướng hơn, hiểu biết nhiều hơn, kết nối mật thiết với nhau hơn (tuy cảm xúc ko như trước). Chúng ta có thể ngồi 1 nơi mà nghe tiếng hát của các danh ca trên thế giới, thấy các sự kiện xảy ra ở khắp nơi, chúng ta được ăn nhiều của ngon vật lạ, trang phục đẹp và thích hợp, đi lại ko mất nhiều sức lực và thời gian, truyền tin nhanh chóng hơn v.v.
Khoa học cũng thay đổi đời sống tinh thần của chúng ta. Tôn giáo, gia đình dần dần kém thiêng liêng; những tư tưởng dân chủ và xh xuất hiện và lan truyền rất nhanh. Tới quan niệm quốc gia cũng bị thu hẹp, nhân loại đã nghĩ đến đời sống quốc tế. LHQ sau Thế chiến 2 tuy còn yếu ớt, ko đủ uy quyền để giải quyết những vấn đề lớn của thế giới, song cũng đã là những thử nghiệm để hướng tới 1 sự đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc với nhau.
Nhưng nhân loại còn nhiều vấn đề gay go này nữa, cũng do khoa học gây nên:
Cuộc sống trong các văn phòng hoặc công xưởng tại các đô thị ko được tự nhiên, có hại cho sức khỏe và tinh thần, tính cách con người. Cần tổ chức lại sao cho việc sử dụng được máy móc mà ko bị lệ thuộc như nô lệ của chúng.
Về chính trị, ngay cả những nước tự hào là dân chủ nhất, người dân vẫn chưa có nhiều quyền. Vài ba năm mới được bỏ phiếu 1 lần, vấn đề gì cũng do những người đại diện cho mình giải quyết mà hạng người này thường thiếu tinh thần và đạo đức phục vụ quần chúng. Tại nhiều cường quốc, họ là tay sai của bọn tài phiệt và bọn này lung lạc chính phủ, giật dây trong bóng tối. Những tự do căn bản của con người mặc dù đã được cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp và LHQ long trọng tuyên bố, vẫn chưa được bảo đảm, ngay tại những nước văn minh cũng vậy.
Các cường quốc phải bênh vực, hỗ trợ các dân tộc nhược tiểu, tiêu diệt chính sách đế quốc đi thì nhân loại mới có thể hạnh phúc, chiến tranh mới có thể chấm dứt.
Về kinh tế, phải điều khiển và kiểm soát chặt chẽ sức sx để nhân loại có đủ những sản phẩm cần thiết mà ko lãng phí vào những thứ xa xỉ, để kinh tế ko chịu nạn khủng hoảng, hạn chế tình trạng thất nghiệp là hậu quả của những vấn đề này.
Với thành quả có được, cần phân phối sao cho ko có kẻ bị thiếu thốn, đói khổ. Những sáng kiến, hy sinh phải được khuyến khích mà sự bóc lột thì nhất định phải tận diệt.
Con người đã có những tiến triển trong lịch sử của mình từ 500 năm qua. Đặc biệt tiến mạnh nhất trong khoảng 2 thế kỷ nay, từ khi khoa học bắt đầu phát triển. 200 năm so với dĩ vãng nửa triệu năm (từ khi loài người xuất hiện) và tương lai hàng chục, hàng trăm triệu năm, thực là chẳng đáng kể gì.
Nếu chỉ tồn tại nửa triệu năm nữa, loài người sẽ tiến tới đâu, ko ai có thể tưởng tượng nổi. Với câu hỏi: "Chúng ta từ đâu tới?" đã được các nhà bác học giải đáp 1 cách gần thoả mãn. Nhưng còn câu hỏi: "Chúng ta sẽ đi tới đâu?" thì vẫn còn nguyên vẹn.
Tuy nhiên, chúng ta đã trở nên thông minh, đã ngự trị muôn loài, chiến thắng cả Hóa công thì lẽ nào ko giải quyết được vấn đề sinh tồn và hạnh phúc của mình.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ khủng hoảng, tương lai mù mờ chỉ vì khoa học mới xuất hiện. Nên chúng ta chưa thể tìm ra cách sử dụng nó sao cho thật hiệu quả để nó phục vụ chúng ta đi đến tương lai theo con đường mà chúng ta mong muốn.
Sài Gòn 1955
(*): Thật ra giữa thời Trung cổ và Cận đại ko có ranh giới rõ ràng. Trung cổ ko hoàn toàn tối tăm do kinh tế, vh bị bóp nghẹt trong lãnh địa của các lãnh chúa. Thế kỷ 13, nền kinh tế châu Âu đã có những biến đổi và sinh hoạt vật chất lẫn tinh thần của con người cũng biến đổi theo. Giai cấp quý tộc ở nhiều trung tâm thương mại quan trọng bị giai cấp tư sản lấn át, nhiều trào lưu tư tưởng được phát động, nhiều đại học đường mở cửa đón tiếp tinh thần ham muốn tự do, tiến bộ. Trong nhiều xh như thế phảng phất 1 luồng gió mới, thúc giục con người thoát khỏi ranh giới của quốc gia phong kiến để cùng tiến tới 1 hình thức xh cao hơn.
Chính nhờ cái tinh thần ấy mà thời kỳ Phục Hưng xuất hiện!
(**): Cuộc cách mạng lâu dài (nguyên văn của người dịch: "nó có thể sẽ mang phong cách bi thảm hơn nhiều.")
(Ghi lại từ Lịch sử Thế Giới của Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang)
Vào thời kỳ này, phương Đông và phương Tây bắt đầu có nhiều cách biệt về sức mạnh thúc đẩy sự phát triển.
ReplyDeleteTrung Hoa ko có những thành thị và tầng lớp thị dân, những yếu tố làm nên sự tiến hóa của phương Tây. Chúng có vai trò trọng yếu trong sự phát triển quốc gia.
Cuối thời Trung cổ những cuộc tranh đấu chống lại giai cấp lãnh chúa ở châu Âu trở nên kịch liệt hơn. Thành thị ngày càng chiếm ưu thế, tầng lớp thị dân lớn mạnh hơn, kỹ nghệ và khoa học ngày một nâng cao. Và cuối cùng, giai cấp tư bản đã thắng thế.
Lịch sử phương Tây là lịch sử đấu tranh giữa 3 giai cấp: lãnh chúa/địa chủ, nông dân và thị dân. Trong đó giai cấp thị dân tập trung chống lại địa chủ trên phương diện liên quan đến quyền lợi của họ (lĩnh vực kinh doanh, công thương nghiệp). Họ đòi bãi bỏ pháp luật phong kiến làm trở ngại cho sự phát triển của CNTB.
Trung Hoa duy trì 1 chế độ cai trị chuyên chế, giết chết mọi sáng kiến, nỗ lực cá nhân (của các công thương nghiệp gia) theo chiều hướng tăng trưởng vì bị coi làm phương hại tới uy quyền Hoàng đế nên cả xh bị kìm hãm, ko có được sức mạnh phát triển. Vì vậy, giới công thương nghiệp gia ở Trung Hoa ko tiến lên được. Khi có tiền rồi, họ chọn 1 địa chủ. Thay vì đấu tranh chống quý tộc, họ lại dựa vào quý tộc để sinh tồn.
Trong quan hệ giao thương với Á Đông ở thế kỷ 13, mối quan hệ giữa TH và Venise đã thịnh, tuy nhiên châu Âu hầu như chưa biết gì về xứ này. Đến khi Giáo hoàng Innocent IV và Louis IX phái sứ giả sang triều đình Mông Cổ ở Qaroqorum vào khoảng giữa thế kỷ 13 (1246-1253) và Marco Polo đến TQ (1271-1291), thì người châu Âu mới chú ý đến miền Viễn Đông mà họ gọi chung là "Ấn Độ".
ReplyDeleteSau đó, châu Âu đã mở đường hàng hải sang phương Đông trong thế kỷ 14-15, tới TH, Nhật Bản và Ấn Độ là những xứ có nhiều gia vị, vàng bạc, lụa và kim cương.
Trong thời kỳ này, sự phát triển về hàng hải của Bồ Đào Nha và sự mở rộng đế quốc thực dân của Tây Ban Nha đã có những ảnh hưởng quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Về sau, sự tranh giành giữa các cường quốc phương Tây tăng lên cùng sức mạnh của Hà Lan, Pháp và Anh. Vai trò bá chủ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha suy yếu dần, nhưng về mặt tinh thần, kiến thức loài người nhờ những phát kiến vĩ đại ấy đã được mở rộng thêm. Những điều mới lạ thức tỉnh óc khoa học, thúc giục con người lao vào kỷ nguyên khám phá và nghiên cứu làm cho những lý thuyết mơ hồ, huyễn hoặc, những tín ngưỡng hoang tưởng dần dần bị đánh đổ đế kiến tạo 1 nền văn minh mới.
Nhờ các phát minh khoa học làm cơ sở, đến thời Cận đại, kinh tế phát triển làm phương Tây có ý muốn làm sống lại nền văn minh cổ đại, bị tàn phá trong thời Trung cổ, mà các sử gia gọi là Phong trào Phục Hưng.
ReplyDeleteNhững nhân vật ưu tú nhất của châu Âu đã tận lực thu thập những di sản quý báu để phục dựng những giá trị của Hy Lạp và La Mã cổ đại vào việc kiến tạo 1 nền văn minh mới. Trung tâm của phong trào Phục Hưng là nước Ý, một nước hưng thịnh bậc nhất của châu Âu lúc bấy giờ. Ở đây còn giữ lại nhiều di sản nghệ thuật thời Thượng cổ và số người biết thưởng thức và có ý thức bảo tồn những giá trị này rất nhiều.
Cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16 là thời kỳ cực thịnh của nghệ thuật và tư tưởng khai sáng ở Ý. Dưới sự bảo trợ của dòng họ Médicis (thế kỷ 15), Florence là 1 trung tâm nghệ thuật nổi tiếng khắp châu Âu với những tên tuổi về kiến trúc của Brunelleschi, điêu khắc với Danatello, hội họa như Botticelli ít người bì kịp. Nhưng đầu thế kỷ 16 mới xuất hiện những thiên tài chói lọi như Leonardo da Vinci, Michelangelo và Raphael.
Nước Ý còn có những danh họa khác như Titien chuyên về chân dung, Véronèse chuyên về trang hoàng cung điện. Các họa sĩ này đều sống ở Venise.
Về tôn giáo, vai trò độc tôn của Giáo hoàng thời Trung cổ bị lung lay trước những tư tưởng mới trong thời Cận đại. Các giáo phái khác cùng với những cải cách của giai cấp tư sản đã làm chính Giáo hoàng nhận thức được thực tế nên ko còn giữ tham vọng bá quyền nữa.
ReplyDeleteTừ thế kỷ 14 về sau, Giáo hoàng mất dần uy tín*.
(*): Tác giả Nguyễn Hiến Lê cho biết: bộ sách này đã bị 1 độc giả mạt sát vì cho rằng: tác giả của nó là người có đầu óc đầy "rác rưởi" do phần nội dung nhắc đến thuyết tiến hóa của Darwin về nguồn gốc loài người. Sau đó, có 1 linh mục yêu cầu Bộ Giáo dục cấm bán và tịch thu bộ sử này vì trong Quyển 2 đề cập đến sự bê bối của 1 vị Giáo hoàng.
Trong thế kỷ 18, nước Anh dẫn đầu châu Âu với cuộc Cách mạng Công nghiệp.
ReplyDeleteSau khi áp dụng nhiều cải cách cơ khí thuộc phạm vi của các nghề thủ công (như dệt vải, kéo sợi, chế biến gang thành sắt, thép). Người Anh đã đã sáng chế ra động cơ hơi nước. Đây là 1 động lực to lớn góp phần đẩy mạnh quá trình tiến hóa của con người. Ko những làm cho sức sx của Anh tăng lên gấp bội, phát minh này còn tạo ra những biến đổi vĩ đại trong xh sau này. Trong đó, phải kể đến vai trò của cuộc cm lớn đã gia tăng sức sx, kéo theo sự phát triển thương mại. Thị trường càng mở rộng, sức bành trướng của đế quốc thực dân càng mãnh liệt.
Sống giữa châu Âu và châu Á, vào thế kỷ 17, Nga vẫn là 1 nước lạc hậu. Đến thế kỷ 18, Nga bị Tây Âu chi phối. Châu Âu với nước Nga vừa là kẻ thù vừa là mô hình của các cường quốc lớn mạnh cần học hỏi. Vì vậy, Pierre Đại đế ra sức Âu hoá nước Nga, làm cho nó trở thành 1 cường quốc tương tự các cường quốc Tây Âu.
ReplyDeleteCác nhà tư tưởng Pháp nổi bật với nhóm triết gia gồm Montesquieu, Voltaire, Rousseau và Diderot. Họ đề cao mục đích của con người là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại và chủ trương bằng giáo dục để nâng cao tinh thần tự do, bình đẳng, chống lại áp bức. Từ Pháp, tư tưởng tiến bộ đã tràn khắp châu Âu.
ReplyDeleteTH trong thời Cận đại
ReplyDeleteTừ nhà Minh (1386-1660) đến nhà Thanh (1644-1796)
Vào thời Trung cổ, TH ko có sự cách biệt với châu Âu. Kể từ thế kỷ 14, khoảng cách này tăng lên khi TH đứng hẳn lại trong lúc châu Âu vùn vụt đi tới.
Vì TH đất đai rộng lớn, lại nằm giữa các dân tộc hèn yếu hơn, nên trong cuộc chiến sống còn nó luôn chiếm ưu thế. Nếu bại trận thì bên thắng cuộc vh thấp hơn nên bị TH đồng hoá, lặp lại các triều vua của TH, thành lập chế độ chuyên chế, truyền tử lưu tôn.
Thương nhân người Hoa ko phải là 1 lực lượng đáng kể vì bị khinh khi trong xh. Họ lại sống riêng lẻ, ko có tổ chức như Tây Âu nên dễ bị đàn áp, thao túng.
Đời nhà Minh từng có tàu thuyền cập bến tận châu Âu, nhưng đó là những chiến thuyền, ko phải là thương thuyền. Nhà vua cốt tuyên dương oai đức chứ ko chú trọng đến quyền lợi kinh tế. Tuy chiếm nhiều đất đai, nhưng giữa chính quốc và chư hầu/thuộc quốc chỉ là quan hệ lỏng lẻo về chính trị mà thôi. Chủ yếu bắt nước yếu chịu thần phục và nộp cống, ko phải như Tây Âu mở rộng thuộc địa để chiếm thị trường.
Cho đến đời Thanh, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn được thi hành triệt để. Biết người châu Âu tài giỏi hơn và sợ Tây Âu xâm chiếm, TH ko cố gắng cho bằng họ mà chỉ đóng cửa lại. Nhưng cánh cửa mỏng manh ko ngăn được sức tấn công của đại pháo. Cuối cùng, con sư tử TH phải khuất phục dưới ngọn roi của phương Tây.
Nhật Bản, đất nước thần kỳ của Á Đông
ReplyDeleteTheo sử TH thì vào thế kỷ 4, người Nhật là 1 giống nòi mọi rợ. Năm 522, đạo Phật từ TQ lan sang Nhật Bản, phát triển rất mạnh. Nữ hoàng Suiko (592-621) tôn đạo Phật làm quốc giáo.
Từ nửa thế kỷ 7 trở đi, Nhật Bản từ giai đoạn thị tộc tiến tới giai đoạn quân chủ chuyên chế.
Đời Daigo (898-930), Nhật Bản chịu ảnh hưởng vh nhà Đường. Họ học theo người Tàu cách ăn mặc, chữ viết, thơ văn, âm nhạc, kiến trúc v.v.
Nhưng người Nhật biết dung hòa yếu tố vh bên ngoài với tinh thần dân tộc để tạo thành 1 nền văn minh riêng cho dân tộc.
Sự tiến hóa của Nhật Bản và Tây Âu có chỗ khác nhau: Tây Âu dựa vào giai cấp tư sản và kinh tế thành thị, trái lại, ở Nhật thành thị và thôn quê sống cách biệt nhau. Thôn quê thuộc về các lãnh chúa, sống bằng đất đai; còn thành thị dưới quyền giai cấp tư sản, sống bằng thương mại và giao dịch với nước ngoài.
Đến thế kỷ 16, trong vùng lãnh địa thuộc về lãnh chúa, họ thôn tính lẫn nhau, hợp các vùng đất nhỏ thành các lãnh thổ lớn hơn. Sự phát triển của thành thị ảnh hưởng mạnh đến vùng cai quản của các lãnh chúa. Về sau, Thời Đức Xuyên Gia Khang, tuy chính quyền địa phương vẫn còn, nhưng các lãnh chúa đều phục tùng Mạc Phủ, bắt đầu tổ chức chế độ tập quyền TW.
Đến thế kỷ 16, đạo Ki-tô được truyền bá rộng rãi vì các lãnh chúa muốn lợi dụng người Bồ Đào Nha để củng cố địa vị và bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc tự do buôn bán và kiếm lợi.
Tiếp xúc với người châu Âu, người Nhật cố gắng hấp thụ tư tưởng Tây Âu. Từ thế kỷ 19, Nhật Bản đã bắt đầu vươn lên, thoát khỏi sự cổ hủ của châu Á bằng cuộc chiến với TQ vào năm 1894 (Chiến tranh Giáp Ngọ). Để bước vào cuộc chiến, Nhật Bản đã trải qua cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân, còn TQ vẫn đắm chìm trong ngàn năm đen tối. Họ nhập cảng sách từ châu Âu và thành lập học đường truyền bá khoa học. Tư tưởng này đã làm nên sự chuyển biến lớn vào thời Minh Trị Thiên Hoàng, từ đó, Nhật Bản thoát khỏi ảnh hưởng của TH và hướng đến phương Tây.
Từ những thế giới cách biệt trong thời Thượng cổ và Trung cổ, phương Đông và phương Tây tiếp xúc với nhau nhiều hơn ở thời Cận đại và phương Đông rốt cuộc đã Âu hóa để đối đầu với những kẻ đã chiến thắng mình.
ReplyDeleteTrong thời Hiện đại, ko chỉ có những cuộc cm tư sản nổi lên chống lại chế độ phong kiến và giáo hội ở châu Âu (rồi thắng thế mở rộng chính sách đế quốc trên thế giới). Thế kỷ 20 còn có giai cấp vô sản cũng trỗi dậy và tranh đấu để đòi quyền sống như giai cấp thị dân trong các thế kỷ trước. Và trên bản đồ thế giới từ sau Thế chiến 2 xuất hiện các nước thuộc phe XHCN, đứng đầu là LX.
Những cuộc cm trong thời Hiện đại:
ReplyDeleteCách mạng tư sản Pháp*, cm bài Thanh, phản đế ở TH, cm vô sản ở Nga, cm ở Anh, Ý, Đức, Áo và những cuộc cm ở các thuộc địa của các cường quốc Âu - Mỹ là những sự kiện lớn vẫn còn ảnh hưởng đến thế giới hiện tại của chúng ta.
(*): Xảy ra sau cuộc cm Mỹ, cuộc cm Pháp năm 1789 đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiến triển của nhân loại**. Điều này 1 phần vì tính chất của nó, 1 phần vì vị thế của Pháp lúc đó ở châu Âu, nơi mà nền văn minh đang có những chuyển hướng với nhiều thay đổi lớn lao. Chế độ cộng hòa đầu tiên được thành lập, cờ tam tài tung bay khắp nơi. Chế độ mới san phẳng sự giàu nghèo, bãi bỏ chế độ nô lệ ở thuộc địa. Quốc hội đã soạn bộ Dân luật, chia đất cho người nghèo, sửa đổi cách đánh thuế và cải tổ nền giáo dục.
Đội quân cm gồm những quân nhân chưa từng cầm khí giới, thiếu ăn thiếu mặc, đầu trần chân đất nhưng có thừa tinh thần, họ tin tưởng mạnh mẽ ở tương lai tổ quốc nên đánh đâu thắng đó, tấn công rất nhanh mở đường cho chiến tranh chớp nhoáng, ko như lối đánh bài binh bố trận trước đó.
Với những sĩ quan là những thiếu niên anh hùng, họ xông lên như vũ bão trên chiến trường với châm ngôn luôn tấn công và chỉ tấn công, đè bẹp mọi sức kháng cự của kẻ thù.
Ở phía Bắc, quân cm đuổi Áo ra khỏi Bỉ lập nền Cồng hòa Hà Lan. Ở phía Nam, quân đội do 1 chàng trẻ tuổi chỉ huy, họ tiến vào Ý, thắng hết trận này đền trận khác, đi đến đâu họ cũng tuyên bố: quân cm đến để giải thoát dân Ý và truền bá tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, làm cả châu Âu ngạc nhiên, khâm phục. Chàng trai trẻ đó là Nã Phá Luân.
(**): Sau khi bãi bỏ đặc quyền của giới quý tộc và giáo sĩ, chế độ Cộng hòa ra Tuyên ngôn nhân quyền xác nhận mọi người được quyền bình đẳng, quyền tham dự lập pháp, quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận...
Bản Tuyên ngôn ko khác của Mỹ nhiều, nhưng có những điểm nói đến quyền của con người (Mỹ chỉ nói về quyền công dân), vì lẽ đó mà cuộc cm 1987 có ảnh hưởng mạnh hơn với thế giới. Nước Pháp được coi là quê hương của Tự do và cuộc cm Pháp được gọi là cm châu Âu.
Đến 1870, phong trào cm ở Pháp đã vững mạnh sau 1 thời kỳ thăng trầm, lúc tiến lúc thoái, từ Pháp nó lan sang các nước khác ở châu Âu làm cho chủ nghĩa dân tộc nổi lên khắp nơi. Trước cuộc cm 1789, người châu Âu chưa hề có tinh thần ái quốc mà chỉ biết trung quân.
ReplyDeleteTinh thần cm Pháp lan tới Nam Mỹ và bùng phát ở Vénézuela. Từ phong trào chống vua Tây Ban Nha, vị tướng của cuộc cm là Bolivar tuyên bố độc lập vào năm 1811. Từ đây, phong trào lan khắp Nam Mỹ.
Đến 1870, Đức nổi lên là 1 cường quốc mới ở châu Âu và làm cho thế giới sau này nổi sóng mấy lần.
Những phát minh khoa học ở thế kỷ 17-18 bắt đầu cho cuộc cm Công nghiệp ở thế kỷ 19. Đi cùng với nó là sự bành trường của CN Đế quốc và sau đó là phong trào chống lại nó nổi lên ở khắp các thuộc địa trên thế giới.
Qua thế kỷ 20, các đế quốc bắt đầu những cuộc xung đột lớn mà đỉnh điểm là 2 cuộc Thế chiến. Sau Thế chiến 2, LX vượt lên thành 1 trong 2 cường quốc mạnh nhất và xung đột với Mỹ ở Trung Đông, Triều Tiên và VN.
Nhật Bản Duy tân
ReplyDeleteNhận thấy sức mạnh của Mỹ và Tây Âu, Nhật Bản muốn duy tân đẩ Âu hóa. Phong trào Duy tân nổi lên rất mạnh, Mạc Phủ tự xét ko chống nổi, bèn thoái vị. Thiên hoàng lên cầm quyền.
Nhật hoàng là Minh Trị. Ông là người thông minh, ham hoạt động, có nghị lực và rất sáng suốt. Ông cùng Y Đằng Bác Văn (Ito Hirobumi) tận lực canh tân quốc gia trong 30 năm, trong thời gian rất ngắn này, Nhật Bản đã thay đổi rất nhiều.
Các sĩ phu đều hăng hái học tập, mở mang kiến thức bằng cách dịch sách Âu - Mỹ, nghiên cứu công nghệ. Chính phủ đón thầy Âu dạy học cho dân: kỹ sư Anh chỉ cách làm hệ thống xe lửa và đóng tàu, Pháp dạy luật và binh nghiệp, giáo sư Đức dạy y học và hóa học, chuyên gia Mỹ tổ chức hệ thống giáo dục, các nghệ sĩ Ý dạy âm nhạc và mỹ thuật.
Chính thể Nhật có quy chế đặc biệt: lục quân và hải quân có quyền rất lớn, chỉ chịu theo lệnh của Thiên hoàng. Đây là điểm khác của người Nhật. Vì quyết dùng vũ lực nên họ đào tạo cho thanh niên 1 tinh thần hiếu chiến và ái quốc nồng nàn. Họ coi nhẹ tính mạng và gia đình để phục vụ tổ quốc.
Nhật Bản nổi lên với sức mạnh của 1 cường quốc Đông Á
ReplyDeleteTrong 1 thời gian ngắn, Nhật Bản đã thu thậpđược hết những kinh nghiệm của Âu - Mỹ. Vốn là 1 dân tộc thượng võ, kỹ nghệ tiến nhanh như vậy nên binh lực của Nhật Bản rất hùng mạnh.
Năm 1892, sau 24 năm Minh Trị lên ngôi, Nhật Bản đã có đủ sức mạnh của 1 cường quốc. Họ muốn thử sức nên nhắm vào Triều Tiên.
Vào năm 1894, vì nội loạn nên Triều Tiên cầu cứu nhà Thanh sang giúp. Quân thanh dẹp loạn xong ko chịu rút về. Nhật lấy cớ bảo vệ Nhật kiều liền kéo binh qua Triều Tiên. Nhà Thanh đòi Nhật triệt thoái, Nhật ko chịu, thế là cuộc chiến nổ ra.
Quân Nhật đại thắng cả trên bộ lẫn trên biển khiến Âu - Mỹ kinh hãi, ko ngờ tên học trò lùn của mình lại có thủ đoạn cao cường như vậy. Thừa thắng, Nhật tràn vào nội địa TQ và thắng trận liên tiếp. Nhà Thanh hoảng hốt vội vàng thương thuyết, và Nhật Bản được hưởng những quyền lợi y như Âu - Mỹ trên đất TH.
Chiến tranh Xô - Nhật
ReplyDeleteSau cuộc chiến tranh với TH, năm 1904, Nhật tuyên chiến với LX. Hạm đội LX đại bại ở Lữ Thuận, lục quân cũng bị đánh tan. Các thành Liêu Đông, Lữ Thuận, Phụng Thiên lần lượt bị Nhật chiếm.
LX lập tức điều 1 hạm đội lớn tới ứng cứu nhằm xoay chuyển tình thế thì lại bị Nhật đánh bại. Trận hải chiến dữ dội trên eo biển Đối Mã* này đã kết thúc chiến tranh Xô-Nhật (1905). Ảnh hưởng của nó với Á Đông còn lớn hơn cuộc cm 1789 với châu Âu. Châu Á bắt đầu thời kỳ phục sinh từ đây. Vì thế mà ảnh hưởng của Nhật Bản đối với Ấn Độ, VN, Miến Điện, Mã Lai,... rất lớn.
Bắt đầu từ đó, Nhật Bản nuôi mộng bá chủ Đông Á.
(*): Tsushima