Sapiens - lược sử loài người xuất bản lần đầu ở Israel năm 2011, bằng tiếng Do Thái, ba năm sau mới có bản tiếng Anh.
Cây viết Ian Parker của The New Yorker phân tích sách thu hút người đọc qua cách đặt câu hỏi và khéo biện luận của tác giả: "Chúng ta thực sự muốn gì?", "Có cách nào để đạt hạnh phúc". Yuval Noah Harari nhận định chúng ta đôi khi không hiểu mình thật sự muốn gì, làm sao có thể biết nhu cầu của sinh vật khác? Nhà văn lý giải con người thường xuyên bị những tưởng tượng, hư cấu của mình lừa dối. Lịch sử cũng hư cấu nhưng được kiềm chế bởi thực tại.
Trên The Sunday Times, cây viết John Carey nhận xét: "Thanh lọc não bộ, tác phẩm của Harari tỏa sức mạnh và sự sáng tỏ, khiến thế giới trở nên xa lạ, mới mẻ". "Thật đáng kinh ngạc. Cuốn sách thay đổi cách bạn nhìn thế giới", Simon Mayo viết. Tác giả Matt Haig cho rằng: "Mỗi trang sách chứa thông tin đáng nhớ và nhắc ta nên biết ơn vì được làm người".
Lập luận chính của Harari là Sapiens đã thống trị thế giới vì đây là loài động vật duy nhất có thể cộng tác linh hoạt trong tập hợp cộng đồng với số lượng lớn. Ông lập luận rằng: Sapiens chính là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài người khác như người Neanderthal, cùng với nhiều loài động vật lớn khác. Và khả năng Sapiens cộng tác tập thể với số lượng lớn phát sinh từ một loại năng lực độc nhất của nó để tin vào những thứ tồn tại hoàn toàn trong trí tưởng tượng, các vị thần, quốc gia, tiền bạc và nhân quyền. Và ông còn lập luận rằng: những niềm tin này làm phát sinh sự phân biệt đối xử về chủng tộc, giới tính hay chính trị. Harari tuyên bố rằng: tất cả các hệ thống hợp tác của con người ở phạm vi/quy mô lớn bao gồm tôn giáo, tổ chức chính trị, thương mại và thể chế đều có sự xuất hiện của họ đối với năng lực nhận thức đặc biệt của Sapiens. Theo đó, Harari coi tiền là một hệ thống dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau và xem các hệ thống chính trị và kinh tế ít nhiều đồng nhất với các tôn giáo.
Cách mạng nông nghiệp xảy ra cách đây 12.000 năm. Nó đã biến con người từ săn bắn hái lượm thành nông dân và người chăn nuôi, từ đời sống du mục sang các bộ lạc định cư và gắn bó lâu dài.
Sau cuộc cách mạng nông nghiệp, những nền văn hóa nhỏ bé dần dần hợp nhất thành một nền văn minh lớn hơn và phức tạp hơn. Trong phần nội dung nói về sự thống nhất của loài người, tác giả đề cập đến việc Homo Sapiens đã biết chuyển ngôn ngữ thành chữ viết, có hệ thống tiền tệ, tín ngưỡng tôn giáo, những quốc gia lớn hình thành lớn mạnh dựa vào chính trị và kinh tế.
Cuối cùng, cuộc Cách mạng khoa học chỉ xảy ra cách đây 500 năm, con người đã tìm ra được nguồn sức mạnh to lớn chính là tri thức, từ đó hàng loạt các phát minh và các học thuyết ra đời. Với sự phát triển của khoa học đã mang lại cho loài người sức mạnh chưa từng có.
Nhà sử học cũng cho rằng sự tiến hóa quá nhanh của nhân loại đã khiến tự nhiên quá tải và đưa tất cả đến bờ tuyệt chủng.
Nhưng vào buổi bình minh của thế kỷ 21, khi nhận thấy những tác động chi phối muôn loài trong quá khứ không còn đúng nữa, Homo Sapiens muốn vượt qua những giới hạn này. Hiện họ bắt đầu phá vỡ các quy luật của chọn lọc tự nhiên, thay thế chúng bằng các dạng sơ khai (như công nghệ AI) với trí thông minh nhân tạo mà con người có thể ứng dụng vào mục đích phát triển cao hơn nữa trong tương lai.
Câu chuyện này ''tập trung trao đổi về cuộc khủng hoảng sinh thái mà nhân loại đang phải đối mặt, dù tốt hay xấu, AI cũng là một phần của cuộc khủng hoảng này. AI có thể giúp chúng ta theo nhiều cách để vượt qua khủng hoảng sinh thái hoặc nó có thể khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn rất nhiều.
Trên thực tế, AI có thể sẽ thay đổi ý nghĩa cốt lõi của hệ sinh thái. Bởi vì trong bốn tỷ năm, hệ sinh thái của hành tinh Trái đất chỉ chứa các dạng sống hữu cơ. Và bây giờ, hoặc sớm thôi, chúng ta có thể thấy sự xuất hiện của các dạng sống vô cơ đầu tiên, sau bốn tỷ năm, hoặc ít nhất, sự xuất hiện của các tác nhân vô cơ.
Giờ đây, mọi người đã sợ hãi AI kể từ khi bắt đầu kỷ nguyên máy tính vào giữa thế kỷ 20, và nỗi sợ hãi này đã truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm kinh điển khoa học viễn tưởng như “Kẻ hủy diệt” hay “Ma trận”. Ngày nay, trong khi những kịch bản khoa học viễn tưởng như vậy đã trở thành những dấu mốc văn hóa, chúng vẫn chưa được coi trọng trong các cuộc tranh luận học thuật, khoa học và chính trị, và có lẽ vì một lý do chính đáng. Vì các kịch bản khoa học viễn tưởng thường giả định rằng trước khi AI có thể gây ra mối đe dọa đáng kể cho nhân loại, nó sẽ phải đạt hoặc vượt qua hai mốc quan trọng.''*
(*): Yuval Noah Harari tại hội nghị thế giới Frontiers Forum ngày 29/04/2023. Hai mốc quan trọng này gồm:
Đầu tiên, AI sẽ phải có ý thức và phát triển nhận thức, cảm xúc. Nếu không, tại sao nó lại muốn làm chủ thế giới? Thứ hai, AI sẽ phải thành thạo trong việc di chuyển trong thế giới vật lý. Nếu chúng không thể di chuyển trong thế giới vật lý, làm sao chúng có thể làm chủ được?
(ghi lại từ nhiều nguồn)
Người ta đang tranh cãi, thậm chí còn hoảng sợ với công nghệ AI. Vấn đề nếu nhìn theo con mắt của người Việt, góc độ ra đường, thì với tôi cũng như việc gắn đèn xi-nhan và sử dụng nó ntn.
ReplyDeleteNhưng ngay cả việc nhỏ nhặt này, cũng phải do con người (nhiều dạng khác nhau), tuy hầu như đã chạy ra đường bằng những phương tiện có gắn hệ thống này thì ko phải ai cũng sử dụng đúng. Như thế cũng có thể nâng lên thành quan điểm với AI. Rõ ràng với nhiều người có ý thức (quan niệm đúng) thì nó rất quan trọng. Nhưng trong số này thì dùng ntn cũng khác nhau. Ko phải ai cũng bật và tắt đúng lúc. Tuy nhiên, tôi gọi họ là những người có đủ tư cách* sử dụng cái họ có.
Số còn lại chia làm 2 dạng:
- Dạng ko có quyền/tư cách sử dụng, vì coi như ko có hệ thống này, nên chạy ngang rẽ tắt vtv/vô tội vạ.
- Dạng ngu ngơ: sử dụng sai (vô tư) và tùy tiện, nhớ thì bật quên thì thôi. Ko tập trung nên bật và tắt ko đúng lúc, kể cả chớp bên này rẽ bên kia. Dạng này cũng coi như ko nên sử dụng.
1 xh văn minh sẽ xác định tỷ lệ 2 dạng này trong xh ntn để đánh giá cái xh đó thuộc dạng nào, phát triển hay ko chịu phát triển.
(*): Trong số này sẽ gồm 2 dạng chính:
- Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.
- Sử dụng ko hoàn toàn đúng.
Có thể nêu ví dụ với việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Trong Thế chiến 2, Mỹ là cường quốc nghiên cứu và sử dụng thành công bom nguyên tử. Tuy nhiên, nếu việc này được Hitler thực hiện thì kết cục sẽ ntn còn là chuyện khó lường. Có thể là thảm họa với nhiều dân tộc, và theo Harari thì Đức quốc xã ko thù ghét nhân loại dù chống lại chủ nghĩa nhân văn tự do, nhân quyền và CNCS chính bởi họ đề cao con người và tin tưởng vào tiềm năng to lớn của loài người (Nhưng theo logic tiến hóa của Darwin, họ lập luận rằng: chọn lọc tự nhiên phải được phép loại bỏ những cá thể ko thích hợp, và chỉ để những cá nhân phù hợp nhất, thích ứng tốt nhất được sống sót và sinh sản).