Nhiều người coi phản biện là cái gì đó đối lập, phản đối. Nhưng thực ra đó là một hành vi rất con người. Trước khi quyết định điều gì đó quan trọng, ai cũng thoáng nghĩ trong đầu là nếu không làm hoặc làm khác đi thì sẽ ra sao? Người khôn ngoan hỏi con cháu, bạn bè thế nào cũng được lời khuyên bổ ích. Ngày xưa vua là con trời mà vẫn phải bổ nhiệm người tài làm Gián Quan để tìm ra nghịch ý giúp ngài cân nhắc. Ngày nay các luận văn khoa học, kỹ thuật luôn phải để cho những bậc chuyên gia vặn vẹo. Đa số các câu hỏi do những chuyên gia độc lập đặt ra, chứ không phải của ông thầy đỡ đầu. Không phải tất cả ý kiến phản biện đều đúng, nhưng chúng giúp thí sinh củng cố hiểu biết của mình.
Karl Marx coi mọi sự vật đều có hai mặt. Phản biện giúp người đứng phía trước nhìn rõ mặt sau của sự vật. Vì vậy mà xã hội dân chủ coi đối lập là cần thiết. Nhà nước chỉ mạnh khi có đối lập mạnh. Phản biện không phải lúc nào cũng phải đến từ phe đối lập, mà chủ yếu đến từ dân chúng, từ thực tiễn cuộc sống. Những ý kiến này được truyền bá qua báo chí, sách vở, văn học, nghệ thuật và các diễn đàn dân sự. Quan trọng hơn nữa là phản biện tồn tại ngay trong nhà nước bởi cơ chế chia sẻ quyền lực và giám sát nhau. Trong bất cứ vụ án hình sự, dân sự hay chính trị nào mà công an, tòa án và kiểm sát luôn vạch cho nhau những sơ hở thì dân được nhờ. Còn nếu ba ông đó bắt tay nhau thì luật sư chỉ còn lo chạy án, truyền thông thì chỉ để câu view. Trong chính sách càng như thế.
Cuốn sách: „Vì sao các quốc gia thất bại“[1] của Acemoglu và Robinson đã cho thấy, các quốc gia thành công đều cởi mở với ý kiến đa chiều và phản biện.
Việt Nam đáng tiếc không nằm trong số đó vì không chấp nhận tam quyền phân lập, không công nhận xã hội dân sự và tự do báo chí. Sau 50 năm thống nhất đất nước, mục tiêu xây dựng CNXH hiện đại đã trở nên xa vời. Hiệu quả của gần 40 năm công nghiệp hóa bằng kinh tế thị trường rất thấp, nếu cân đong thành quả đó với những hậu quả về môi trường, tài nguyên và đạo đức xã hội.
Nay muốn đi nhanh, có hiệu quả ắt phải hóa giải các cản trở này, trong đó có nạn kiểm duyệt.
Kiểm duyệt (censorship) thì ở Phương Tây cũng có. Kẻ kiểm duyệt không phải là ban tuyên huấn mà là chủ báo hay nhà xuất bản. Mỗi tờ báo hay NXB đều phục vụ một đối tượng độc giả trong quang phổ chính trị, từ cực hữu, trung hữu đến thiên tả v.v. Nếu nội dung nào đó khiến độc giả khó chịu, mất doanh thu ắt sẽ bị loại bỏ. Vì mỗi nhà báo, nhà đài đều đại diện cho một nhóm chính kiến trong xã hội nên kiểu kiểm duyệt này vẫn còn đất sống cho phản biện đa chiều. Đó là khác biệt cơ bản với kiểm duyệt độc ngôn, chỉ cho nói một chiều.
Một xã hội trải qua nhiều thăng trầm, bi kịch như Việt Nam lẽ ra phải là mảnh đất sống cho nền văn hóa, nghệ thuật, báo chí rất sinh động. Nhưng kiểm duyệt đã biến nền văn học thành một mảnh đất khô cằn. Kiểm duyệt tin tức, báo chí đã làm cả xã hội, từ trên xuống dưới bị đui mù, huyễn hoặc trước các biến động kinh tế xã hội.
Vậy mà ông cựu chủ tịch nước từng „Mong ước một ngày không xa Việt Nam sẽ có nhà văn đạt giải thưởng Nobel văn chương“[2]. Giải Nobel văn học không biết bao giờ mới có, nhưng nếu Aziz Nesin[3] đưa ra giải thưởng về trào lộng thì chắc chắn ông cựu chủ tịch sẽ là ứng cử viên.
Vì muốn chia sẻ kinh nghiệm sống và kiến thức với bạn bè trong nước nên tôi nhiều lần phải đối mặt với nền kiểm duyệt nói trên. Tất nhiên tôi chỉ chấp nhận cho sửa hoặc cắt những gì không ảnh hưởng đến linh hồn bài viết. Nếu bị làm căng quá thì tôi đưa lên FB là xong. Có lần tôi đưa bản thảo cho ba ban biên tập khác nhau để chọn nơi nào dễ chịu nhất. Điều thú vị mà tôi nhận thấy khi đọc phản hồi từ ba bạn biên tập viên (BTV) là họ nhìn nhận sự nhạy cảm khác nhau. Khái niệm mà bạn này đòi cắt thì bạn khác lại cho qua và ngược lại. Thì ra cái gì „nhậy cảm“ hoàn toàn phụ thuộc vào tinh thần „Tự kiểm duyệt“ (Self-censorship) của từng BTV. Việc câu chữ bị anh A cắt nhưng đối với chị B có thể là bình thường chứng tỏ kiểm duyệt không đến mức như A nghĩ.
Cuộc sống như dòng chảy của con suối, kiểm duyệt là một cái ống cống đặt dọc dòng suối, có lưới lọc. Ống to nước chảy nhanh, ống nhỏ nước chảy ít. Các BTV vốn được coi là những người gác cổng tư tưởng, chính là những đường ống chôn trước hoặc sau cái ống kiểm duyệt đó. Nếu chu vi của các ống BTV to hơn ống kiểm duyệt thì đã buồn rồi, đằng này chúng lại hẹp hơn, khiến dòng chảy đã nghẽn lại càng nghẽn hơn.
Kiểm duyệt dùng sợ hãi khiến cho người ta tự kiểm duyệt để khỏi bị trừng phạt. Những điều hoang tưởng kiểu như: „Em mà like bài viết của anh, người ta biết sẽ khiến con em mất việc“ nhưng lại được đồn thổi khắp xã hội.
Tự kiểm duyệt rất nguy hiểm, vì đó là „Chiến tranh nhân dân“ chống lại tự do suy nghĩ, là con vius lây lan rất nhanh, mọi lúc, mọi chỗ. Tự kiểm duyệt không chỉ là thói xấu của những người cầm bút, mà là một hành vi lan rộng trong xã hội. Nó khiến người ta luôn hèn nhát, không dám sống hết mình, thấy hay không dám khen, thấy ác không dám nói ra. Sống không hết mình là hoang phí cuộc đời. Cuộc đời chỉ có nghĩa khi được sống tự do. Người đứng trên bục giảng câu thơ:
„Thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao“[4]
Mà nhìn đâu cũng sợ nhậy cảm tức là đang tự nhốt mình vào ngục tối.
Tệ hơn nữa, thói tự kiểm duyệt khiến người ta nghi ngại nhau. Nhỡ mình nói ra mà hắn mách thì sao? Nó khiến người ta a dua chạy theo phong trào. Thấy cả bọn khen bà sếp già mặc váy đẹp cũng phải bấm bụng khen để lấy lòng. Một cô giáo đọc bài văn lạ của bé, chẳng suy nghĩ nhiều, cho ngay điểm xấu. Lạ vì nó không theo những đáp án mà cô đã thuộc lòng. Với cô, cái gì lạ, ngoài luồng là xấu. Khi cho gọi gia đình bé đến để khiển trách, cô không những tự phủ nhận trách nhiệm giáo dục của nhà trường mà còn áp đặt thói xấu tự kiểm duyệt của mình lên phụ huynh.
Kiểm duyệt và tự kiểm duyệt là hai vế của một vấn nạn. Kiểm duyệt là một con ngáo ộp (có thực) tung hoành trong cuộc sống, nó khiến nạn nhân sợ hãi để rồi tự phóng đại con ngáo ộp và tự khống chế hành vi của mình. Tự kiểm duyệt tạo ra đất sống cho kiểm duyệt, khiến nó cứ yên tâm tung hoành.
Cái vòng luẩn quẩn đó đã đưa đất nước đến chỗ như hôm nay. Nếu ai cho là Việt nam được như hôm nay là tuyệt vời rồi thì xin cứ tiếp tục sống như cũ.
Việc nạn „tự ru ngủ, huyễn hoặc“ giờ đây được chính báo chí nhà nước lên án, việc hàng chục ban bệ, báo đài, hiệp hội liên quan đến bộ máy kiểm duyệt này đã và đang được tinh giảm cho thấy Việt Nam không thể cứ tiếp tục làm như cũ được nữa rồi.
Mỗi lần về Việt nam tôi đều chứng kiến năng lực sáng tạo của đồng bào mình. Cho dù nền giáo dục còn vô vàn khiếm khuyết nhưng sự thông minh và tính ham học của người Việt đã giúp đất nước có một lực lượng lao động mà không phải ở đâu cũng có. Đây chính là cơ hội. Chỉ có điều lực lượng này sẽ không duy trì được lâu nữa. Với vị trí địa chính trị của mình, Việt Nam đã hưởng lợi rất nhiều từ toàn cầu hóa. Quá trình này đang chuyển sang hướng khác.
Tôi không thích nói đến „kỷ nguyên mới“, đến „vươn mình“. Chỉ mong tất cả người Việt cứ làm việc, cứ sống như người tử tế mà không sợ mình khác người ta là mọi việc sẽ dần thay đổi. Chính sự khác biệt làm cho vạn vật tiến hóa, chứ không phải sự đơn điệu, đồng nhất.
Nguyễn Xuân Thọ
No comments:
Post a Comment