Lịch sử đã ghi nhận những nỗ lực to lớn của nhà Hồ để hiện
thực hóa mong muốn này.
Đó là những cải cách sâu sắc do Hồ Quý Ly thực hiện từ cuối
thời Trần nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội. Sau khi Hồ Quý
Ly lên ngôi và đổi quốc hiệu thành Đại Ngu, những cuộc cải cách này càng được đẩy
mạnh và đem lại nhiều đổi thay cho đất nước.
Dưới quốc hiệu Đại Ngu, người Việt cũng được chứng kiến những
thành tựu to lớn về khoa học - kỹ thuật như việc phát minh ra súng thần cơ,
thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng), những hệ thống thủy lợi quy củ,
các công trình kiến trúc hoành tráng…
Thành nhà Hồ là một di sản quý giá mà Hồ Quý Ly để lại cho
người Việt ngày nay. Công trình độc đáo này đã thể hiện bước phát triển mới
trong phong cách kiến trúc và kỹ thuật xây dựng. Việc sử dụng kỹ thuật xây dựng
bằng những khối đá lớn là thành tựu chưa từng có ở Việt Nam, chứng minh quyết
tâm của nhà Hồ trong công cuộc xây dựng đất nước.
Thành được Hồ Quý Ly cho xây vào mùa xuân năm 1397, còn gọi
là Tây Đô (hay Tây Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long, Hà Nội). Nơi đây
từng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa vào cuối triều Trần và kinh đô của
nước Đại Ngu trong khoảng 7 năm, từ 1400 đến 1407.
Sử cũ chép, vào năm 1397, đất nước đứng trước nạn xâm lăng của
nhà Minh, Hồ Quý Ly đã lệnh cho quan Thượng thư Bộ Lại kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tĩnh
đến thị sát vùng đất Thanh Hoá để xây dựng thành trì, chuẩn bị cho việc định
đô. Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn (nay thuộc xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện
Vĩnh Lộc) để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu
dài, đồng thời cũng là cách để hướng lòng người trong thiên hạ xa lánh, đoạn
tuyệt với nhà Trần.
Vùng đất được chọn có địa thế hiểm yếu, có đường đi từ Bắc
vào Nam và sang Lào. Xung quanh được án ngữ bởi nhiều ngọn núi cao, hai mặt
nam, bắc có sông Mã và sông Bưởi chảy qua.
Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng
thành. Trong đó, công trình đồ sộ nhất và còn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay
là Hoàng thành. Toàn bộ mặt ngoài tường thành và bốn cổng chính được xây bằng
những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít
lên nhau. Các bức tường thành được ghép từ những khối đá lớn, có phiến dài tới
hơn 6 m, ước nặng 20 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng
20.000 m3 và gần 100.000 m3 đất được đào đắp công phu.
Theo sử sách ghi lại trong thành có nhiều công trình như điện
Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu,
Đông Thái Miếu... rất nguy nga, tráng lệ chẳng khác gì kinh đô Thăng Long. Tuy
nhiên, trải qua hơn 6 thế kỷ tồn tại với rất nhiều tác động của thiên nhiên và
con người, hầu hết công trình kiến trúc bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy.
Các nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá, kiến trúc của Thành nhà
Hồ rất khoa học, với các phiến đá được đục đẽo vuông vức, công phu xếp đan xen
theo hình múi bưởi để tránh rung chấn lớn như động đất. Giữa các phiến đá xây
thành không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600
năm qua dù chịu rất nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Điều đặc biệt
là công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà quá trình xây dựng chỉ vỏn
vẹn ba tháng (từ tháng 1/1397 đến tháng 3/1397).
Thời ấy chưa có công nghệ vận chuyển hay ghép đá gắn xi
măng, vậy làm sao để những bức tường thành được xếp vuông vắn, thẳng đứng và tồn
tại đến ngày nay? Điều gì đã giúp người thợ xưa với công cụ thô sơ lại có thể vận
chuyển và xây nên tường thành bằng những phiến đá khổng lồ?
Câu trả lời được hé lộ phần nào khi người ta tìm thấy hàng
trăm viên bi đá lớn (bằng quả bóng đá), nhỏ (bằng quả cầu mây) trong nhiều lần
khai quật khảo cổ. Việc tìm thấy những viên bi đá này giúp củng cố giả thiết
người thợ khi xưa đã dùng chúng như con lăn để tời đá từ vùng khai thác (cách vị
trí xây thành hàng chục km). Kết hợp với tời và đắp đất, người ta đã đưa những
phiến đá lên cao để xây thành.
Trải qua hơn 600 năm tồn tại, hầu hết công trình kiến trúc
bên trong Hoàng thành đã bị phá hủy. Những dấu tích nền móng của cung
điện xưa giờ vẫn đang nằm ẩn mình phía dưới những ruộng lúa của người
dân quanh vùng. Ngày 27/6/2011, tại phiên họp lần thứ 35 của Ủy ban di
sản thế giới thuộc Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc
(UNESCO) diễn ra tại thủ đô Paris (Pháp), thành nhà Hồ đã được công nhận
là di sản văn hóa thế giới.
(Kiến Thức)
No comments:
Post a Comment