- Anh có đọc loáng thoáng.
Thì
có một số ý kiến nói nào là chảy máu chất xám, nào là lẽ ra anh phải về Việt Nam cống hiến.
Anh có cảm thấy đòi hỏi như vậy là bất công với anh không?
- Anh
không thấy bất công... Nói chung là có một số ý kiến mà nó... nó ấu trĩ đến mức
mà anh không thể nào quan tâm được (cười). Anh cảm thấy là anh đã qua cái tuổi
mà anh còn chịu áp lực xã hội rồi. Tất nhiên là anh vẫn chịu áp lực từ một số
người mà mình quan tâm ý kiến của họ; ý kiến của họ chính xác thì làm anh suy
nghĩ; còn có nhiều ý kiến xuất phát một là từ sự ấu trĩ, hoặc là từ sự ghen tị
thì anh không để ý.
Nhưng
mà, để đi đến cái chỗ biết cái gì là ấu trĩ để mà bỏ qua cũng là cả một quá
trình, đúng không ạ? Lúc đầu có lẽ mình không làm được như vậy đâu; kể cả mình
biết là người ta nói vô lí thì mình vẫn đau...
- Anh nghĩ là... thực ra để đạt
đến sự ổn định thì mình phải có sự nhạy cảm nhất định với cuộc sống. Một khi
mình đã đau thì mình đừng nhắm mắt bịt tai, mà mình phải cố gắng phân tích cho
đến cùng cái đau đấy, hoặc là cái ngu ngốc của mình.
Anh thực ra không phải là người
có nhiều va chạm xã hội; chỉ có điều là mỗi một lần va chạm thì anh chịu khó
phân tích cái va chạm của mình; thì mỗi lần va chạm, mình càng đau mà mình càng
chịu khó phân tích thì mình càng hiểu, hiểu mình và hiểu người khác hơn.
Nhưng
nếu như mình cứ phải phân tích để biết cái gì không đáng làm mình đau, thì nó
cũng có thể làm mình chai sạn, mệt mỏi. Có thể với toán học thì khác; nhưng với
nhà văn chẳng hạn, nếu mà mình cố gắng lý trí để không làm mình đau thì mình
cũng có khi làm mất cái con mắt quan sát thuần khiết của mình đi…
Làm toán thì tất nhiên nó hơi
khác nhưng nó cũng có cái giống như thế. Bởi vì làm toán thực ra là cực kỳ
violent (bạo lực) với bản thân mình, lúc nào mình cũng phải lý trí, không bao
giờ được chiều bản thân mình, không được chiều theo cái ham muốn hiện tại. Với
lại, toán cũng có cái mâu thuẫn giống như em nói.
Một mặt nó cũng là một dạng profession (nghề
nghiệp), tức là nó cũng có những hoạt động của nó; tức là phải đi làm seminar,
đi làm hội thảo, viết báo cáo; tức là nó cũng phải có những thủ tục; cộng đồng
thì bao giờ cũng phải có thủ tục; nhưng nếu có thủ tục mà thành chuyên nghiệp
quá thì vô thức nó cũng có thể giết đi cái trong sáng, cái khởi thủy của người
làm toán, tức là cái con mắt trong sáng của trẻ con, cái gì mình cũng muốn hiểu ngọn ngành từ đầu đến cuối,
trong khi nếu mình thành chuyên nghiệp thì mình chỉ chú tâm để ý những cái gì
đang nổi, đang mới, đang là mốt, làm cho mình quên đi cái cơ bản nhất.
Nếu muốn làm nhà toán học giỏi
thì không thể để mất đi cái cơ bản. Thực ra anh viết blog Thích Học Toán
một phần là như thế; vì lúc nào anh cũng có điều kiện xem lại những thứ cơ bản
nhất.
Trong
văn học, anh thấy là có khái niệm “văn phong” rất là rõ ràng. Toán học thì có
khái niệm phong cách riêng không?
- Có
chứ, nhưng nói chung là nó hơi khác, vì toán thì… khi mà nó đến cái mức hoàn
hảo thì nó không còn có tính cá nhân nữa, nó vô tính, nó trong sáng đến mức
không biết là ai nữa mặc dù style làm toán thì cũng có tại vì cái cách suy nghĩ
của mỗi người thì có khác nhau.
Thế
style của anh là gì nếu anh phải mô tả bằng một vài từ?
- Anh
cũng không rõ nhưng mà anh làm toán hầu như không bao giờ cần giấy cả.
... anh không cần phải ngồi
tính toán, anh cứ nghĩ đến một lúc mà anh cảm tưởng là được rồi thì anh ngồi
viết ra; lúc đó lại phải lắp ghép lại. Thực ra cái quá trình viết ra đấy là quá
trình hiện thực hóa vì lúc mình nghĩ thì nó giống như là mình xây dựng cả một thế
giới của mình, nó có nhiều đường, nhiều ngã rẽ; đến lúc mình viết ra giấy thì
mình phải viết tuần tự.
Có những bài toán đơn giản thì
dễ nhưng với bài toán phức tạp như cái Bổ đề vừa rồi thì anh viết rất nhiều
lần; lúc mới bắt đầu viết, anh cũng không biết là viết thế nào cả... anh cũng
phải chuẩn bị rất nhiều... như văn chắc là cũng phải chuẩn bị, nhưng văn thì có
thể chuẩn bị thừa một chút chứ toán thì về mặt nguyên tắc là không được chuẩn
bị thừa cái gì cả, chỉ viết cái gì cần thiết, đúng như thế thôi, không dài hơn.
Lúc đầu anh viết thì anh không
biết chính xác là cái gì mình cần, bởi vì nó là cả một cái hệ thống, anh cứ mô
tả dần dần cho đến cuối cùng, sau đó thì mới quay lại sửa. Cái quá trình đấy
cũng tương đối là painful (khó khăn), vì lúc mình nghĩ trong đầu thì kể cả mình
suy nghĩ nhiều, mình cũng không thể nào chặt chẽ 100% được, có nhiều chỗ lúc
nghĩ thì mình bảo chỗ này được rồi, có thể bỏ qua, mình sẽ làm được, cái đấy là
do kinh nghiệm thì mình biết và thường là cũng đúng, nhưng mà lúc viết ra, thì
mỗi đoạn đấy lại phải bổ sung chi tiết, thì có khi mình thêm chỗ này nó lại
phình ra chỗ kia.
Hôm qua em ngồi đọc về Viện
IAS ở Princeton mà anh đang làm việc. Thì có
người chỉ trích là cái viện đó thực ra cũng là chỗ giết chết nhiều người tài,
tức là lúc trước họ làm được nhiều thứ tử tế, nhưng khi đến Viện thì không làm
được gì nữa bởi vì sang đó chỉ phải ngồi nghiên cứu thôi, không có áp lực dạy
học hay làm gì nếu không muốn, cho nên họ đi đến chỗ cô lập, bế tắc. Anh có
nghĩ là đứng về mặt sáng tạo, việc được “bao cấp” và không có áp lực như thế là
cái có hại?
- Với
một số người thì nó có hại thật. Có những người, khi họ không còn chịu áp lực
phải xuất bản công trình nghiên cứu nữa, thì họ chẳng làm gì cả. Nhưng ngược
lại nếu phải chịu áp lực xuất bản nhiều quá, như ở Mỹ này áp lực lớn quá thì
người ta cũng in nhiều thứ nhảm nhí chẳng ai đọc.
Em thấy rác nhiều lắm.
- Nhưng không có cái áp lực xuất
bản công trình nghiên cứu đấy thì cũng nguy hiểm. Cho nên anh vẫn nói làm khoa
học nó có hai mặt; một mặt mình vẫn phải giữ cái con mắt trong sáng của người
muốn tìm hiểu, một mặt mình vẫn phải giữ con người làm việc chuyên nghiệp. Đến
hẹn mình vẫn phải tham gia hội thảo, làm thuyết trình, đấy là việc mình phải
làm, mình không nên từ chối bởi vì khi mà mình từ chối, mình tự rút ra khỏi xã
hội thì không sớm hay muộn mình cũng bị thoái hóa.
Thu mình vào thì nhiều khi cũng
cần thiết để mình có thể nghĩ lâu một cái gì đó nhưng mình cũng có thể bị một
cái bệnh là bệnh chủ quan, tức là mình chỉ quan tâm đến cái mình nghĩ thôi mà
mình lại quên mất nhiều thứ, và mình sẽ khó giao tiếp với người khác. Thì ở IAS
có những người rất là giỏi, bài toán nào các ông ấy cũng giải được, mà ai có gì
khó thì các ông ấy đến giúp; nhưng các ông ấy không thấy có động lực đủ lớn để
làm thêm cái gì nữa, có lẽ họ đã chán toán rồi.
Lúc bé, anh có ý thức gì về
việc thích toán không?Anh có ý thức là mình muốn trở thành nhà toán học
không?
- Lúc bé anh chẳng có ý thức gì
cả. Lúc bé thì toán văn anh đều học giỏi cả nhưng bố anh bảo anh vào chuyên
toán thì anh vào chuyên toán.
Thế
thì anh có nghĩ là cần định hướng sớm cho trẻ con về nghề nghiệp không? Ví dụ
như là hướng cho trẻ con trở thành nhà toán học hay bác sỹ hay kiến trúc sư?
- Anh nghĩ là cũng không cần
phải định hướng về mặt nghề nghiệp sớm như thế đâu. Với nhạc sỹ chẳng hạn thì
anh không biết, có thể họ cần định hướng từ lúc rất bé; còn những nghề mà làm
việc trí óc nghiêm túc thì nhận thức về nghề nghiệp nó phải là lúc mình trưởng
thành rồi.
Chẳng hạn như ông Langlands, ông ấy là một trong
những người có ảnh hưởng mạnh nhất tới toán học thế kỷ 20-21, nhưng mà ông ấy
thực ra cứ tự học, mà học toán cũng tình cờ; bố ông ấy là tiều phu, ông ấy
không đi học trường trung học hay đại học nổi tiếng nào cả, đào tạo cơ bản của
ông ấy thực ra bình thường; nhưng khi ông ấy đi học đại học bên Canada thì học
cũng được, thế là thầy giáo toán của ông ấy bảo ông ấy đi làm PhD (tiến sỹ).
Ông ấy bảo PhD là cái gì. Sau rồi ông ấy thấy ừ thì bây giờ được đi học có học
bổng, mà lại được lấy vợ sớm nữa thì cũng thích (cười); thế là đi làm PhD. Cho
nên anh thì anh không nghĩ chuyện định hướng nghề nghiệp sớm cho trẻ con là
quan trọng.
...
Thế
lúc tinh thần của anh không vững, tức là lúc anh nản chí ấy, thì anh làm gì?
- Nói
chung là lúc mà tâm lý đã đi xuống thì chỉ cứ đợi cho nó đi qua thôi.
Trên
blog Thích Học Toán của anh, anh có nói đến một cụm từ là “15 cô đơn với Bổ
đề”, và anh hứa là anh kể, nhưng anh vẫn chưa kể.
- Từ lúc anh bắt đầu làm PhD,
tức là năm 1993 ấy, thì đến giờ là 17 năm. Lúc mà anh làm PhD thì vấn đề của
Langlands chẳng ai quan tâm, người ta coi là vấn đề chết; tức là mấy chục năm
không ai làm được thì người ta không làm nữa.
Cái luận án tiến sỹ của anh cũng
gần giống với Bổ đề Langlands; nó là của ông Jacquet; nó dĩ nhiên là không nổi
tiếng và không kéo theo quá nhiều những kết quả rực rỡ gì khác như Bổ đề
Langlands nên người ta càng không để ý.
Lúc anh làm PhD là khoảng thời
gian thử thách tâm lý rất lớn; lúc đấy mình còn chưa tin lắm vào khả năng của
mình. Mà lại còn có nhiều chuyện làm mình nản. Chẳng hạn như là ngay cái tên
ấy, ông Langlands ông ấy đặt cái tên “Bổ đề cơ bản” nghe nó đã buồn cười rồi.
Cái Bổ đề bình thường thì nó
không phải là một kết quả quan trọng, nó chỉ là một kết quả trung gian thôi,
người ta dùng cái đó để làm cái khác. Nhưng mà với Bổ đề Langlands thì vì sau
này có quá nhiều thứ liên kết với nó, phụ thuộc vào sự vững chắc của Bổ đề cơ
bản cho nên nó mới trở thành vấn đề trung tâm của ngành.
Thì lúc mà anh đi phỏng vấn xin
việc lần đầu ở Pháp ấy, người ta hỏi anh làm cái gì, anh bảo là anh làm Bổ đề
cơ bản, thì đến một nửa cái hội đồng phỏng vấn là họ phá ra cười, vì nghe nó
buồn cười, nghe nó ngớ ngẩn, vì người ta không biết ngành của anh. Tất nhiên là
lần đấy anh không đỗ, sau này anh mới đỗ.
Lúc đó thực ra không mấy ai tin
là có thể giải quyết được Bổ đề Langlands; kể cả lúc anh sang Chicago năm 2001
rồi sang Princeton, thì lúc đó thực ra anh cũng chỉ có âm mưu giải quyết nó
thôi, chứ anh cũng không chắc chắn lắm; có điều là lúc nào anh cũng giữ trong
đầu một cái hy vọng là lúc nào đấy sẽ làm.
Không biết em có thấy không, ở
đây thì ít đấy chứ ở Princeton có rất nhiều những cái cờ xanh đỏ cắm trên bãi
cỏ để đánh dấu chỗ này là đường ống nước, chỗ này là đường cáp điện, thì ở
Princeton mọi người hay đùa đấy là cờ tưởng niệm các chiến sỹ đã hy sinh vì Bổ
đề Langlands (cười).
Câu
hỏi này có lẽ hơi buồn cười. Triết lý sống hoặc khẩu hiệu sống của anh là gì?
- Không
để lại dấu vết.
(Phan Việt)
Notes:
ReplyDelete1972: Ngô Bảo Châu chào đời tại Hà Nội. Là con trai duy nhất của Tiến sỹ cơ học Ngô Huy Cẩn và Tiến sỹ dược học Trần Lưu Vân Hiền.
1988: Huy chương vàng Olympic toán quốc tế tại Úc
1989: Huy chương vàng Olympic toán quốc tế tại Đức. Là người Việt Nam đầu tiên giành hai huy chương vàng Olympic toán.
1990: Sang Pháp du học tại Đại học Paris 6, sau đó là Đại học Ecole Normale Supérieure.
1997: Trở thành tiến sỹ toán; về công tác tại Trung tâm khoa học quốc gia Pháp
2004: Cùng nhận giải thưởng của Viện toán học Clay với Giáo sư Gerard Laumon cho công trình Bổ đề cơ bản cho các nhóm Unita.
2005: Được đặc cách phong hàm Giáo sư tại Việt Nam và trở thành Giáo sư trẻ nhất của Việt Nam.
2007: Sang Princeton, Mỹ, làm việc tại Viện nghiên cứu cấp cao (Institute for Advanced Study)
2008: Hoàn thành chứng minh Bổ đề cơ bản trong trường hợp tổng quát cho các đại số Lie.
2009: Kết quả chứng minh Bổ đề cơ bản Langlands của Ngô Bảo Châu được tạp chí Time bình chọn là 1 trong 10 phát minh khoa học tiêu biểu của năm 2009.
Hãy nhìn giáo sư Ngô Bảo Châu và Đàm Thanh Sơn, họ không hề theo chủ nghĩa ngoại lệ. Họ hoà vào với thế giới. Họ đang dạy ở ĐH Chicago – đó là địa hạt của kiến thức thế giới. Hai giáo sư đó không cần chủ nghĩa ngoại lệ và họ nổi tiếng trên toàn thế giới. Chủ nghĩa ngoại lệ là cái cách mình chối bỏ và nói “tôi không muốn làm điều đó.” Tự chối bó và nói tôi không muốn thành Ngô Bảo Châu hay Đàm Thanh Sơn.
ReplyDelete(Thomas Vallely)