HÀ NỘI - VIỆT NAM:
100 NĂM GIAO THOA VĂN HOÁ ĐÔNG - TÂY, NAM - BẮC
(Lý luận và Thực tiễn)
GS Trần Quốc Vượng
I. Khái niệm
1.1. Thuật ngữ phương Tây Acculturation được các nhà văn hóa học Việt Nam, từ thập kỷ 60 đến nay dịch một cách khác nhau:
- Văn hóa hóa (Nguyễn Khắc Viện)
- Hỗn dung văn hoá (Nguyễn Đức Từ Chi)
- Đan xen văn hóa (Trần Quốc Vượng)
- Tiếp biến văn hóa (tiếp xúc và biến đổi văn hóa) (Hà Văn Tấn)
- Giao hòa văn hóa (Hoàng Ngọc Hiến)[1]
- Gần đây nhất nhà nghiên cứu Hữu Ngọc dịch là “Tương tác văn hóa” (tại hội nghị Quốc tế về Việt Nam học, Hà Nội, 1997).
Còn tôi (Trần Quốc Vượng) sau nhiều năm suy nghĩ đã quyết định dịch lại là “Giao thoa văn hóa” ý chỉ sự “móc ngoặc”, “móc nối” giữa hai hay nhiều nền văn hóa, để chuyển biến nền văn hóa bản địa do sự tương tác giữa hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh (endogenous >< exogenous). Khái niệm này đã được lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội chấp thuận với giáo trình Giao thoa văn hóa ở Việt Nam do tôi chủ biên.
Thuật ngữ này
đã xuất hiện trong khoa học nhân văn Âu - Mỹ từ thập kỷ 30 của thế kỷ
này và được học giả lớn H. Herkovits định nghĩa như sau: “Dưới từ acculturation,
ta hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hóa khác nhau,
tiếp xúc lâu dài và trực tiếp gây ra sự biến đổi mô thức (pattern) văn hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm”[2].
Trong quan niệm của các học giả Mỹ, chủ yếu điền dã trên địa bàn Mỹ La tinh và châu Phi, đã nói đến acculturation (R. Ridifield, R. Liton, H. Herkovits...) là sự có mặt của ít nhất 2 cộng đồng (nhóm) người, tộc người... có văn hóa khác nhau, là nói đến sự tiếp xúc văn hóa (contacts culturels) lâu dài và quan hệ trực tiếp giữa hai bên.
1.2. Có thể phân tích mối quan hệ tương tác giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc để làm sáng tỏ quan niệm trên.
Trong nhiều bài viết trước đây[3], tôi đã chứng minh rõ người Việt cổ ở lưu vực tam giác châu thổ sông Nhị với các hằng số sinh thái: nóng - ẩm - mưa nhiều - gió mùa
(P. Gourou gọi là vùng “châu Á gió mùa” (Asie des moussons)) lấy nông
nghiệp lúa nước làm nguồn sống chính, với mối bận tâm chính, như Giáo sư
Viện sĩ Đào Thế Tuấn vạch ra là Nước[4]. Nước có mặt “thủy hại”.
Lũ lụt thì lút cả làng
Đắp đê phòng lụt, thiếp chàng cùng lo!
Và mặt “thủy lợi”
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống
*
Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm...
Trong khi đó, cái nôi của người Hoa là vùng cao nguyên và bình nguyên hoàng thổ (loess) Hoàng Hà[5].
Đất không phải là phù sa sông màu nâu như châu thổ sông Nhị, cái nôi của người
Việt, mà là do gió Tây thổi về rắc lên cao - bình nguyên Hoàng Hà. Độ
ẩm kém, lượng mưa trung bình 400mm/năm và lượng bốc hơi lại cao nên
người Hoa trồng khô với các giống kê, cao lương và sau này là mạch. Khi bành trướng xuống phương Nam, người Hoa - với sự giao thoa văn hóa với các bộ tộc Bách Việt - mới biết trồng lúa nước
và biết ghi chép, kiểu Hoa hóa, các di sản văn hóa Việt cổ vô thể như
huyền tích Bàn Cổ, huyền tích Ngưu Lang - Chức Nữ (“mưa ngâu” đâu có ở
Hoàng Hà?), lịch 12 con vật (lịch Hoa gốc từ Thương - Chu là lịch can -
chi) ... rồi sau này dùng sách dạy lại người Việt y như một di sản văn
hóa Trung Hoa... Cho nên huyền thoại, huyền tích “Thần Nông” (ngữ pháp
Việt) đã mang tính giao thoa văn hóa Việt - Hoa (“cháu 3 đời” Thần Nông là Đế Minh đi “tuần thú” phương Nam lấy nàng Vụ Tiên đẻ ra Lộc Tục (tên Việt đầu tiên còn ghi lại)). Lộc Tục sau là Kinh Dương Vương, chia đất với “anh cùng cha khác mẹ” là Đế Nghi. Đế Nghi cai trị phương Bắc, Kinh Dương Vương trông coi cõi Nam. Rồi Kinh Dương Vương - Long Nữ cũng như huyền thoại - huyền tích Âu Cơ - Lạc Long Quân là
rất đáng trân trọng vì nó còn hoài niệm hồi cố về một địa bàn Bách Việt
cổ rộng lớn từ hồ Động Đình, hồ Bành Lãi xuống phía nam Ngũ Lĩnh (mà
người Trung Hoa thường gọi “hắt ra” là Lĩnh ngoại (Quảng Đông - Việt Đông), Quảng Tây (Việt Tây) - Âu Việt - Lạc Việt (Âu Lạc). Đấy là sự “chế tác” folklore[6] của các nhà
Nho yêu nước. Đây vẫn là truyền thống “con Rồng cháu Tiên” rất đẹp mà
chúng ta, ở thời buổi giao thừa thế kỷ XX - XXI và thiên niên kỷ II -
III cần giữ gìn.
Tất nhiên, từ
trước sau Công nguyên, người Việt đã tiếp thu văn hóa Hoa Hạ (văn hóa
Sở ở nơi giao thủy Hán Thủy - Dương Tử (Hán khẩu) là kết quả giao thoa
văn hóa Việt - Hoa đầu tiên, mà kết tinh là nhân vật văn hóa lớn Khuất Nguyên và các tác phẩm Ly Tao và Cửu Ca[7]. Sách Hán thư dẫn lời Hán Vũ đế nói về Việt phương,
rất sợ phục phương thuật của người Việt. Vì vậy, ở một vài bài trước
đây, tôi đã nói đến diễn trình của giới trí thức Việt Nam lần lượt là
(vẫn có đan xen trong lịch sử):
- Phương sĩ (vua Hùng là tiêu biểu, dùng yêu thuật để lên ngôi).
- Thiền sư (tiêu biểu là Khuông Việt đại sư): đây là kết quả giao thoa Việt - Ấn - Hoa từ đầu Công nguyên.
- Nho sĩ (tiêu biểu là các Trạng nguyên) điển hình của giao thoa văn hóa Việt - Hoa.
- Các trí thức “Tây học” hiện đại
(mà ở Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX có câu : “Phi cao đẳng bất thành phu
phụ”), điển hình của giao thoa văn hóa Việt - Pháp, Đông - Tây[8].
1.3. Sự giao thoa - tương tác văn hóa Việt - Hoa không thể quy giản thành “bên cho” (Hoa) - “bên nhận”
(Việt). Sự đời bao giờ cũng “có đi có lại”. Người Hoa tiếp thu một số
hoa văn Việt trên trống đồng Đông Sơn đưa vào gương đồng, kỹ thuật chế
tác thủy tinh, một vài giống lúa chịu hạn, vải bông, đường mía (như
đường phèn), kỹ thuật dùng kiến trừ sâu cam và một vài truyền thuyết như
vợ chồng Ngâu... Người Việt - đất Việt tiếp thu - hội nhập ở văn hóa
Hán trước hết là mô hình tổ chức hành chính (xã - hương - huyện - quận - đạo - trấn - tỉnh...), ở hệ thống quan chức (tuy có giản lược đi, vì Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Hoa là nước lớn), ở chế độ khoa cử... thậm chí không khỏi có khuynh hướng vọng ngoại “Nam nhân Bắc hướng” (chữ của GS. Tsu - Đại học Princeton, Mỹ)[9].
Thậm chí nhân danh, nhiều địa danh (trừ tên Thăng Long
là “tên chữ” (Hán - Việt, nhưng rất độc đáo Việt Nam) cũng chịu ảnh
hưởng từ Trung Hoa (trước sau Công nguyên, người Việt Nam không có tên
họ như bây giờ, chỉ có tên kiểu (đã được ghi âm bằng chữ Hán, là một
loại Việt - Hán) như Ích Xương, Thi Sách, Trưng Trắc, Lý Bí (sau mới đọc
là Lý Bôn, Lý Phần), Bầu (sau mới đọc là Lý Thiên Bảo). Ở thế kỷ VI,
Hậu Lý Nam Đế chỉ xưng là Lý Phật Tử (Phật Tử họ Lý chứ không xưng là
Thiên tử kiểu Trung Hoa).
Với thời gian
đắp đổi, tiếng Việt cổ cũng hấp thụ nhiều từ, nhiều khái niệm triết lý -
xã hội - văn hóa của người Hoa (trong tiếng Việt có trên 60% từ gốc
Hoa, đọc chệch đi, (ngữ âm khác, phần nhiều thành từ Hán - Việt) với một
ngữ pháp, trật tự từ khác và nhiều khi cả ngữ nghĩa cũng khác đi (“khốn nạn”, “khoái trá”...).
Nhà văn Tô Hoài đã nói đến “tiếng Hồ Gươm” tức tiếng Việt của riêng người Hà Nội, không giống hẳn với bất kỳ tiếng địa phương nào.
1.4. Đến thời kỳ “Đại thương mại” (Grand Commerce XVI, XVII, XVIII) với “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”
(và Hội An, Cù Lao Phố, Bến Nghé ở Đàng Trong) thì người Việt hội nhập
một số từ và sản phẩm ngoại sinh như bánh chưng hình vuông, (kiểu Quảng
Đông - thay cho bánh tét hình trụ), đậu Hà Lan, rượu vang (vin)... cùng một số từ mới như đầu (thay cho trốc), như hoa (thay cho bông), bát (thay cho đọi), thuyền (thay cho ghe), thìa (cùi dìa (cuiller)) ...
1.5. Đặc
biệt, từ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, dưới thời thuộc địa
thực dân, thì sự giao thoa Việt - Pháp, Đông - Tây... diễn ra mạnh hơn,
từ Nam chí Bắc trên rất nhiều lĩnh vực, dưới hai hình thức:
- Giao thoa cưỡng bức (forced acculturation):
Như trường
Pháp - Việt (Franco - Annamite), trường Trung học Bảo hộ (Lycée (du)
Protectorat), sau cách mạng là trường Chu Văn An, không kể trước đó là
trường “Hậu bổ”...; như chế độ Công sứ (tỉnh), Thống sứ (Bắc kỳ), Toàn
quyền (toàn Đông Dương), Đốc lý (Hà Nội); chế độ khoa cử: tốt nghiệp
tiểu học (Certificat), Trung học cơ sở (Diplôme), Trung học chuyên khoa
(Baccalauréat), tốt nghiệp đại học (Licencié) ...
Người Pháp cũng lập Học viện Pháp về Viễn Đông (Ecole Francaise d’ Extrême - Orient) (từ 1901)[10] và
hệ thống Bảo tàng Bắc Trung Nam (ở Hà Nội là Musée Louis Finot, nay là
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), Nhà hát Lớn (Grand Théâtre) mà người Hà Nội
trước gọi là “nhà hát Tây” chuyên diễn ca kịch, opera ... cho phần lớn
ông Tây, bà Đầm xem[11].
- Giao thoa tự nguyện (voluntary acculturation):
Việc trồng
một số cây rau cây hoa gốc ôn đới (đặc biệt vùng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Láng
đã có nền tảng trồng hoa, rau từ trước). Từ đó tiếng Hà Nội, sau đó lan
tỏa ra nhiều địa phương khác đã hội nhập hoa dơn (glaieul), vi-ô-lét (violette), păng-xê (pensée)..., rau xà lách (salade), xu hào (chourave), xu xu (chou-chou), xúp lơ (chou-fleur) ...
Và một số thức ăn, đồ uống Tây: sâm banh (champagne), cô nhắc (cognac), uýt-ky (whisky), tách (tasse), cốc (cup), bít tết (beefsteak), giăm bông (jambon), bánh Tây (pain, nay gọi là bánh mì)[12], pa tê (pâté), xúc xích (saucisse)...
1.5.6. Trong
văn hóa cũng có sự áp đặt và sự tự nguyện về tư tưởng - ý thức hệ, thời
Việt - Hoa (cũ) là Nho giáo, Đạo giáo, cả Phật giáo, thời Việt - Hoa
mới, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là Tân thư, với các tư tưởng Tam Dân của Tôn Dật Tiên, và ở cuối nửa đầu kéo dài gần suốt nửa sau thế kỷ XX là tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Stalin, tư tưởng Mao cho đến khi Bác Hồ mất khá lâu, cuối thập kỷ 80, ta mới nêu cao từ Hà Nội ra cả nước, tư tưởng Hồ Chí Minh (nền tảng bản địa gốc Việt Nam, có hấp thu tư tưởng Mác - Lênin sáng tạo)[13]
1.6. Có thể sơ đồ hóa - hình học hóa quá trình giao thoa văn hóa của Việt Nam - Hà Nội là như sau:
Sơ đồ này chỉ
muốn minh họa một ý tưởng của GS. Olov Janse - người Thụy Điển, đào
khảo cổ ở Việt Nam từ 1934-1935, 1938-1939, sau dạy ở Đại học Havard Mỹ:
“Việt Nam (là) ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh”[14].
Cũng ý đó, nhưng được diễn tả một cách khác, GS. Fukui Hayao, Đại học
Kyoto đến Hà Nội năm 1998 đã nhận xét rằng: “Văn hóa Hà Nội - Việt Nam
cũng như các nền văn hóa khác nên được nhìn nhận như một quá trình tác
động qua lại giữa những nhân tố nội sinh và những nhân tố ngoại sinh”[15].
1.7. Không
một nền văn hóa nào dù lớn, dù nhỏ mà không có sự vay mượn một số nhân
tố của các nền văn hóa khác. Văn hóa Mỹ được gọi một cách biểu tượng là melting pot
(mà nhà văn hóa Hữu Ngọc dịch là “nồi hầm nhừ”, theo tôi thì nên dịch
là “Bình dung hóa”). Australia tự coi là xứ sở đa văn hóa và có chiến
lược đa văn hóa (multiculturalism). Nhiều nhà văn hóa học thế giới cho
rằng có nhiều nền văn hóa Trung Hoa: văn hóa Hoa Bắc, văn hóa Hoa Nam, văn hóa Tây Nam, văn hóa Đông Nam[16] có thể gọi chung là có nhiều văn hóa địa phương (local cultures), trong một nước Trung Hoa. Ở Việt Nam, có lẽ hợp lý nhất là nên nêu luận điểm: thống nhất trong đa dạng.
Và trong nhiều bài viết và nói trên Đài phát thanh và truyền hình, tôi đã nêu và được nhiều học giả đồng tình là quy luật bao quát nhất của văn hóa Thăng Long - Hà Nội là: HỘI TỤ - GIAO THOA - KẾT TINH - LAN TỎA[17].
1.7.1. Một thí dụ là truyện cổ tích, hay huyền tích.
Ở thế kỷ XIX,
đứng trước lý thuyết của những người theo “trường phái vay mượn” (còn
gọi là trường phái di chuyển cốt truyện), theo PGS.TS. Nguyễn Xuân Kính
thì A.N. Vêxêlôpxki (1838-1906), một học giả Nga nổi tiếng, đã hoàn
thiện lý thuyết này. Ông không chỉ khảo sát các hiện tượng văn hóa của
dân tộc có cốt truyện đem “cho”, mà còn nghiên cứu những điều kiện bên
trong của dân tộc tiếp nhận. Ông viết: “Sự tiếp nhận những tài liệu về truyện cổ tích sẽ không thể có
được nếu không có những tính chất nhất định của môi trường tiếp nhận”[18]. Sẽ rất thú vị khi ta đối sánh truyện Tấm Cám với Cinderella
với cuộc đời của Đức Ỷ Lan - thân mẫu Lý Nhân Tông ở Thăng Long thế kỷ
XI (bà là Tấm hay là Cám?), khi ta đối sánh huyền tích về Tây Hồ ở Hàng
Châu và Hồ Tây ở Thăng Long - Hà Nội (Hồ Xác Cáo - Cửu vĩ hồ tinh - Hồ
Kim Ngưu - truyện Trâu Vàng ...).
1.7.2. Người
ta thường nói rằng: ở vùng Đông Á - Viễn Đông thì Trung Hoa và văn hóa
Hoa Hạ đóng vai trò trung tâm; các nước “đồng văn” với Trung Hoa như:
Việt Nam, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản là các nước “vệ tinh”! Trên một
ý nghĩa nào đó và trong những thời điểm nào đó (như thiên niên kỷ I)
thì điều đó cũng đúng thôi. Thời buổi đó, như ở phương Tây thì văn minh -
văn hóa - ngôn ngữ Hy La là trung tâm, còn Pháp, Đức, Bắc Âu, Đông
Âu... là những “vệ tinh”.
Nhưng sự đời
là biến đổi, là biện chứng. Ngày nay không ai nói Pháp - Đức là vệ tinh
của Hy Lạp, Italy. Và thế kỷ XX, với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, với
cách mạng tháng Tám (19-8-1945 ở Hà Nội), với Điện Biên Phủ (Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, trong một lần nói chuyện với sinh viên năm 1955 ở Việt
Nam học xá (nay là khu Đại học Bách khoa) đã nói đại ý: giải phóng Điện Biên là để giải phóng Thủ đô Hà Nội (10-10-1954), thực hiện lời thề cuối năm 1946 “Tạm biệt Thủ đô, rồi đây sẽ về!”). Việt Nam đi đầu (chứ đâu còn là vệ tinh) trong phong trào giải phóng chống ách thực dân ở cả Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á.
Lịch sử thế giới thế kỷ XX ghi công đầu tiên cho Việt Nam, cho Hồ Chí Minh là về chuyện đó, vì theo mấy trăm tác giả của cuốn Văn hóa thế kỷ XX, chỉ nam tiểu sử (1983 - London - New York) thì:
Thế kỷ XX có hai thành tựu văn hóa có giá trị nổi bật:
1. Sự đảo lộn về các lý thuyết khoa học và kỹ năng công nghệ (Việt Nam đóng góp rất khiêm tốn vào lĩnh vực này).
2. Sự giải
tán chủ nghĩa thực dân (De-colonisation) (chứ chưa phải là giải tán chủ
nghĩa tư bản (capitalism) để thay thế bằng chủ nghĩa xã hội
(socialism)): Việt Nam - Hà Nội - Hồ Chí Minh đứng hàng đầu (prime leader of anticolonial movement) trong lĩnh vực này[19] với một Điện Biên Phủ dưới đất và một Điện Biên Phủ trên không ngay ở bầu trời Hà Nội.
GS. Sử học nổi tiếng Mỹ, Australia - David Marr - một nhà Việt Nam học tài danh trong công trình “Những văn hóa thể chế ở Việt Nam trong một năm giữa thế kỷ XX (cuối 1945 - cuối 1946)” (Institutional Culture(s) of Viet Nam in the Year 1945 - 1946) đã viết rằng: nếu năm 1945, Việt Nam có tới 6 văn hóa thể chế:
1. Thể chế thực dân Pháp.
2. Thế chế quân phiệt Nhật.
3. Thể chế quân chủ Nam triều (dù vua Bảo Đại là “bù nhìn” nhưng vẫn có thật)
4. Thể chế Tưởng Giới Thạch (ở bắc vĩ tuyến 16)
5. Thể chế Anh (ở nam vĩ tuyến 16)
6. Thể chế Dân chủ Cộng hòa của chính phủ của cụ Hồ Chí Minh.
Thì kỳ diệu thay chứ đâu chỉ là “vận may” (le moment favorable) như nhà báo - “nhà sử của hôm nay” - J. Lacouture nói, cuối cùng năm thể chế đầu đều biến mất và đến nửa cuối thế kỷ XX (1954, 1975) chỉ còn lại một thể chế Cộng hòa Dân chủ, một biểu hiện cao đẹp của sự giao thoa - giao hòa văn hóa Đông - Tây, Nam - Bắc.
Cố nhiên là
có nhiều “trục trặc”, chiến tranh kéo dài, chộn rộn cả chiến tranh cách
mạng - chiến tranh xâm lược, “can thiệp”, kể cả có lúc mang tính nội
chiến (guere civile) nữa - có nhiều sai lầm nữa, (làm thì bao giờ chả có
đúng có sai)
như sai lầm trong cải cách ruộng đất (1956), sai lầm trong cải tạo công
thương nghiệp (1959-60), sai lầm vì thể chế quan liêu bao cấp (trước
thời kỳ Đổi mới bắt đầu từ 1986), cũng có lúc cả giáo điều rập khuôn
Xtalinit - Maoit nữa, nhưng cuối cùng Việt Nam vẫn hòa nhập với Asean,
hội nhập với quốc tế (“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”) (ý của Đảng Cộng sản Việt Nam
do cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố đầu tiên), hòa nhập mà không
hòa tan, vẫn cố gắng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
để bước vào thế kỷ mới (XXI), vào thiên niên kỷ mới (thứ III sau Công
nguyên), càng nhanh càng tốt, nhưng là những bước tiến vững vàng để trở
thành một nước tương đối công nghiệp hóa, tương đối hiện đại hóa vào
khoảng năm 2020.
ReplyDelete[1] Nhiều tác giả, Khái niệm và quan niệm về văn hóa, Viện Văn hóa xuất bản, H., 1986.
[2] Trần Quốc Vượng (Cb), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. KHXH, 1996, tr.163-190.
[3] Xem Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Hà Nội, 2000.
[4] Đào Thế Tuấn, Hệ sinh thái nông nghiệp, Nxb. Khoa học Kỹ thuật, H., 1984.
[5] Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hóa và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 2000.
[6] Alan Dundes, The Fabrication of Folklore (Việc chế tác Folklore), Essays in Folkloristics (Những tiểu luận về Folklore), Folklore Institute, California, 1978.
[7] Cửu Ca, theo sự nghiên cứu của Lăng Thuần Thanh và các tác giả khác, phản ánh khá rõ các hình ảnh trên trống đồng loại I Heger mà ta thường gọi là trống Đông Sơn.
[8] Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, Nxb. Văn hóa, H., 1995.
Việt Nam cái nhìn địa văn hóa, Nxb. Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 1998.
[9] Từ Tùng Thạch (Prof.Tsu), Việt giang lưu vực nhân sử, Trùng Khánh, 1943.
[10] Tôi vừa dự hội thảo Perspectives on Asian Studies (Triển vọng Nghiên cứu Á châu) ở Tokyo (Nhật), tháng 5/2000 nhân dịp kỷ niệm 100 năm (1901-2000) Học viện Pháp về Viễn Đông (EFEO).
[11] Hà Văn Cầu, Trong cõi (nghệ thuật sân khấu Hà Nội 1000 năm qua), Bản thảo tác giả viết và cho phép tôi sử dụng.
[12] Thế hệ tôi, sinh ở thập kỷ 30 tại Hà Nội gọi là “bánh Tây” nay giới trẻ Thủ đô gọi là “bánh mỳ”.
[13] Võ Nguyên Giáp (Cb), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1997.
[14] Sài Gòn, 1955; bản tiếng Pháp: “Viet Nam, carrefour des peuples et des civilisations”.
[15] Fukui Hayro, Institute of SEA Studies, Kyoto University, 1998.
[16] Colloquinum, Perspective on Asian Studies, Tokyo, Japan, 2000.
[17] Trần Quốc Vượng (Cb), Tìm hiểu di sản văn hóa dân gian Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1995.
[18] Nguyễn Xuân Kính, Tiếp xúc văn hóa và tiếp biến văn hóa, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 12, 1998, tr.12-21.
[19] Newsletter, ANU (Australian
National
University), 1994.