Monday, December 4, 2017

Ernest Hébrard - Kiến trúc sư đầu tiên đem "chất Pháp" vào Việt Nam

Suốt thời kỳ Pháp thuộc, phong cách Á Đông của người Việt trong nề nếp sinh hoạt, lối sống, đều bị ảnh hưởng ít nhiều bởi người Pháp. Kiến trúc Việt Nam cũng không ngoại lệ. Những tòa nhà Pháp ở Hà Nội hay trên khắp các tỉnh thành Việt Nam đều là những di tích chúng ta cần trân trọng và lưu giữ. Nét kiến trúc cổ theo phong cách phương Đông kết hợp với kiến trúc phương Tây tạo nên một phong cách kiến trúc mới ở Việt Nam - phong cách kiến trúc Đông Dương. Người đi đầu trong phong cách kiến trúc này không ai khác đó chính là kiến trúc sư Ernest Hébrard.


Kiến trúc sư Ernest Hébrard và sinh viên Kiến trúc Việt Nam thời Pháp thuộc

Tiểu sử


Ernest Hébrard (1875-1933) là kiến trúc sư, nhà khảo cổ học, nhà quy hoạch người Pháp. Ông là Giám đốc sở Quy hoạch kiến trúc Đông Dương thuộc Pháp. Ông được biết đến với đồ án quét sạch mọi đặc trưng phương Đông của Thessaloniki, Hy Lạp, giữ lại phần di sản của kiến trúc Byzantine, và chuyển đổi nó thành một thành phố mang phong cách châu Âu.

Đồ án quy hoạch Thesaloniki, Hy Lạp

Hébrard còn được biết đến qua các dự án khác như nâng cấp Casablanca và cung điện Diocletian tại Split, và quy hoạch các thành phố tại thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Ông là kiến trúc sư nổi tiếng đã có giải thưởng Prix de Rome. Hébrard được coi là kiến trúc sư khởi nguồn cho phong cách Kiến trúc Đông Dương. Trước khi trở thành Giám đốc sở quy hoạch kiến trúc Đông Dương thuộc Pháp, Ernest Hébrard là giáo sư của trường Mỹ thuật Đông Dương, một viên chức cao cấp được chính phủ Pháp đưa sang để phụ trách công việc quy hoạch và kiến trúc của ba nước Đông Dương. Ông gọi nó là "phong cách kiến trúc Đông Dương" (style indochinois). Thực chất đây là một phong cách chiết trung Âu – Á, trong đó không chỉ có chi tiết kiến trúc của ba nước Đông Dương mà có cả chi tiết kiến trúc Trung Quốc. Hébrard sử dụng phong cách kiến trúc Đông Dương rất sáng tạo và đã để lại những công trình có giá trị nghệ thuật rất cao.

Một nhà hàng lấy tên vị kiến trúc sư vĩ đại ở Thesaloniki

Nhà hát lớn Hà Nội được người Pháp khởi công xây dựng vào năm 1901 và hoàn thành năm 1911, theo mẫu Nhà hát Opéra Garnier ở Paris.

Lịch sử hình thành "phong cách kiến trúc Đông Dương"


Ra đời

Phong cách kiến trúc Đông Dương là tên gọi những sáng tạo của các kiến trúc sư Pháp. Kiến trúc này đã góp phần tôn vinh nghệ thuật kiến trúc dân tộc, mặc dù nó còn nhiều điểm chiết trung, pha trộn (vì người Pháp không sành kiến trúc cổ điển Việt Nam), nhưng nó đã khích lệ các kiến trúc sư Việt Nam, sinh viên của trường Mỹ thuật Đông Dương tiếp tục đi theo con đường nghệ thuật dân tộc.
Riêng về kiến trúc Pháp còn tồn tại đến nay ở Hà Nội, các phong cách khác nhau được hình thành theo thời gian như một bộ sưu tập trọn vẹn. Từ Kiến trúc thực dân đơn sơ thời kỳ đầu xâm chiếm đến Kiến trúc cổ điển, Kiến trúc địa phương Pháp thể hiện nỗi nhớ quê hương của người Pháp xa nhà, rồi Kiến trúc Đông Dương một thời rực rỡ đến Kiến trúc Art Deco, Kiến trúc tiền hiện đại những năm cuối thời kỳ thực dân, giữa thế kỷ trước.

Tác phẩm của hai kiến trúc sư Harlay và Broyer mang nhiều màu sắc, đường nét kiến trúc của các nhà hát ở miền Nam nước Pháp.

Vì sao ra đời phong cách này?

Trước tiên, những kiến trúc mang từ Pháp sang, sau một số năm thì bộc lộ nhiều bất cập, nhất là không phù hợp với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, gió mạnh... cũng như tập quán sinh hoạt, truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan Việt Nam. Sau nữa, vào lúc đó, những năm 30 – 40 của thế kỷ 20, ảnh hưởng của Pháp ở Việt Nam giảm sút. Để tranh thủ được lòng dân, để thân thiện hơn với Việt Nam, một số kiến trúc sư Pháp dạy tại trường Mỹ thuật Đông Dương nghĩ cách thiết kế những công trình mang tính chất Việt Nam để lấy lại lòng tin của người Việt.

Đặc điểm kiến trúc

Kỹ thuật và vật liệu xây dựng: Sử dụng rộng rãi kỹ thuật và liệu xây dựng mới như hệ khung bê tông cốt thép chịu lực, khung thép tiền chế, sành sứ nhiều màu, ngói ardoise (đá xám chẻ), gạch caro. Các phương tiện kỹ thuật mới khá tiên tiến được áp dụng như: cột thu lôi, đèn điện, cổng sắt uốn.

Giải pháp kiến trúc: Áp dụng các giải pháp thông thoáng, cách nhiệt để phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới như bố trí các dãy hành lang, dàn pergola rộng rãi chạy dọc theo công trình. Trên phần tường sát trần thường bố trí các lam gió để tạo sự thông thoáng và lấy sáng cho không gian bên trong. Đa số các công trình được bố trí thêm các sân trong, giếng trời để tăng sự thông thoáng và chiếu sáng tự nhiên.

Mái: Sử dụng mái bằng (đối với các công trình lớn) hoặc mái lợp ngói (đối với các công trình nhỏ hơn). Mái ngói thường nhô ra xa để che nắng mưa, có bố trí các “khu đĩ” để tạo sự thông thoáng cho phấn bên trong. Xuất hiện các sênô thu nước mưa chạy dọc theo mái. Một số công trình sử dụng dạng mái vút cong ở các góc, mái chồng diêm theo kiểu kiến trúc truyền thống, có hoa văn trang trí ở đỉnh mái và các góc cong của mái.

Cửa: Bố trí nhiều cửa trên tường công trình. Cửa sổ cao, mở rộng để tăng sự thông thoáng, chiếu sáng tự nhiên. Các công trình sử dụng phổ biến kiểu cửa lá sách, đảm bảo được sự thông gió tự nhiên cho không gian bên trong ngay cả trong lúc đóng. Cửa sổ không chỉ được bố trí trên tường công trình, mà còn được bố trí phía ngoài hành lang, đặc biệt là hành lang ở những phía chịu sáng trực tiếp của mặt trời.

Trang trí: Sử dụng rộng rãi các môtíp trang trí với màu sắc, kiểu dáng đa dạng.
Các môtíp trang trí Việt – Hoa như: “lưỡng long chầu nguyệt”, pháp vân, lân sư, rồng phụng, cỏ cây hoa lá…
Kiểu Khmer – Chăm như: rắn naga, hoa Mạn đà la, chữ viết…
Kiểu Phục hưng, cổ điển Pháp như: lan can con triện, gờ chỉ, tranh tượng, phù điêu, hoa lá, các thức cột…
Có lúc còn pha trộn cả những phong cách thời thượng của thế giới lúc bấy giờ như Art Nouveau, Art Déco.

Thực tế xây dựng cho thấy trào lưu phong cách Đông Dương do chính người Việt kế thừa cuối cùng đã chia ra thành hai hướng. Một hướng sa đà vào chủ nghĩa hình thức, nhân danh truyền thống, để rơi vào kiểu hoài cổ, phục cổ. Hướng còn lại, tích cực và sáng tạo hơn, tìm kiếm một phong cách hiện đại Việt Nam cho nền kiến trúc mới hòa nhập với trào lưu quốc tế hóa ở Việt Nam. Ví dụ tiêu biểu là công trình Thư viện Quốc gia Sài Gòn của KTS Nguyễn Hữu Thiện và Dinh Độc Lập của KTS Ngô Viết Thụ. Đây chính là sự kế thừa đúng theo tinh thần của phong cách kiến trúc Đông Dương trong giai đoạn nền kiến trúc Việt nam đã chuyển sang phong cách kiến trúc mới, mà các nhà nghiên cứu quốc tế gọi chung là “Phong cách hiện đại nhiệt đới Đông Nam Á” những năm 1960-1970.


Những công trình mang đậm dấu ấn của Ernest Hébrard

Tòa nhà chính Đại học Đông Dương (1924)


Mặt tiền của trường nhìn từ phố Lý Thường Kiệt. Công trình được xây dựng trong 4 năm (1923-1926) mang phong cách kiến trúc Đông Dương, có sự giao thoa Á - Âu


Kiến trúc sư E.Hébrard thiết kế Toà nhà chính của Đại học Đông Dương năm 1924. Hiện nay thì ĐH Khoa học Tự nhiên và ĐH Dược Hà Nội nằm trên địa điểm của ĐH Tổng hợp Hà Nội (1956) và ĐH Đông Dương xưa (1926). Tọa lạc tại vị trí án ngữ của một đại lộ lớn lúc bấy giờ - Boulevard Carreau (phố Lý Thường Kiệt ngày nay), xế phía trước lại có một vườn hoa nhỏ, công trình đã tạo ra một điểm nhấn đô thị nổi bật.



Theo thiết kế ban đầu thì đây là một công trình mang phong cách Tân cổ điển với cấu trúc hình khối kiến trúc đăng đối hoàn toàn, mặt bằng không gian theo kiểu chính thống, nhấn mạnh khối sảnh trung tâm, hai phía là giảng đường lớn và thư viện được bố trí trên hai tầng nhà. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng, Hébrard đã thay đổi hầu như hoàn toàn hình thức mặt đứng công trình bằng cách đưa vào khá nhiều thành phần kiến trúc Á Đông.




Các cột nhà được chăm chút cầu kỳ với các loại hoa văn uốn lượn và biểu tượng của ngành Y dược




Hoạ sĩ Victor Tardieu bên tác phẩm hội họa của mình (ảnh tư liệu của gia đình họa sĩ V. Tardieu). Bức tranh tường rộng gần 80m2 này được phục dựng năm 2006 tại giảng đường lớn mang tên Giáo sư Ngụy Như Kon Tum ở tòa nhà 19 Lê Thánh Tông (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), nay tòa nhà là biểu tượng của ĐHQGHN




Cầu thang lên tầng của các khoa làm bằng gỗ rất chắc chắn



Điểm nhấn cho khối trung tâm là bộ mái ngói nhiều lớp theo hình thức bát giác, giữa các lớp mái là các cửa nhỏ trang trí hoa văn bên cạnh hàng con sơn đỡ mái theo kiểu Trung Hoa cổ. Bộ mái ngói còn được sử dụng như một hình thức kết thúc phương đứng ở hai cánh nhà, ở tiền sảnh phía sau nhà. Các cửa sổ cũng được che bởi các ô văng chéo dán ngói. Cửa ra vào chính là một cửa dạng vòm có độ cao tương đương hai tầng nhà được trang trí bằng kính và kim loại theo phong cách Art Nouveau, không chỉ làm đẹp cho công trình khi nhìn từ ngoài vào mà làm tăng tính thẩm mỹ cho khu đại sảnh khi nhìn từ trong ra.


Nếu mặt ngoài toà nhà mang dáng vẻ Á Đông thì phần nội thất lại chủ yếu theo tinh thần kinh viện Châu Âu. Chính sảnh được phủ bởi một bộ vòm hai lớp với các hàng cột, các hoạ tiết trang trí kiểu Tân cổ điển. Các không gian lớn và thoáng đãng đặc trưng của các đại học lớn ở Pháp thời bấy giờ. Đặc biệt là trong giảng đường chính có bức tranh tường lớn nhất Việt Nam do hoạ sĩ Victor Tardieu thực hiện, mô tả cuộc sống của người Hà Nội đầu thế kỷ 20 với sự hiện diện của 200 nhân vật đại diện cho xã hội thời bấy giờ.



Công trình Đại học Đông Dương có thể được coi là thử nghiệm đầu tiên của E. Hébrard theo phong cách kết hợp nên còn thiếu sự ăn nhập giữa nội - ngoại thất công trình.






Trụ sở Bộ Ngoại giao (trước đây là Sở tài chính Đông Dương)



Mặt tiền của trụ sở Bộ ngoại giao ngày nay


Công trình trụ sở Bộ Ngoại giao được KTS Ernest Hébrard thiết kế năm 1924, khởi công xây dựng năm 1925 và hoàn thành năm 1928. Đây là công trình duy nhất được xây dựng theo Đồ án Quy hoạch chi tiết khu trung tâm hành chính, chính trị Đông Dương cũng do chính KTS Ernest Hebrard thiết kế. Theo quy hoạch, mặt bằng công trình có hình chữ H. Khối chính cao và rộng nhìn ra quảng trường án ngữ trục phố Chu Văn An (Vallenhoven) hội tụ với hai trục đường chéo phố Điện Biên phủ (Puginier) và Tôn Thất Đàm (Ollivier). Khối sau hẹp và thấp hơn nhìn ra không gian vườn- công viên lớn có đại lộ Paul Doumer (nay là Bắc Sơn) ở giữa, nối thẳng với quảng trường tròn Puginier (nay là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh).


Đây là cách bố cục quy hoạch theo quan niệm “Thành phố - Vườn” thịnh hành thời bấy giờ, đồng thời cho thấy KTS Ernest Hébrard chịu ảnh hưởng rõ rệt của nghệ thuật thiết kế đô thị cổ điển Beaux-arts Paris và phong cách vườn-công viên Ba- rốc Pháp khi tổ chức các trục đại lộ nhiều hàng cây hội tụ hình tia trên những quảng trường rộng với các dạng hình học khác nhau, như trường hợp Versailles ở Pháp. May mắn là quy hoạch không được thực hiện trọn vẹn, bởi ngôn ngữ hình tia, nhiều đường chéo, hội tụ mâu thuẫn hoàn toàn với bố cục vuông vức truyền thống của Hoàng Thành ngàn năm.


Trung thành với nguyên tắc, KTS Ernest Hébrard thiết kế mặt bằng công trình hoàn toàn đối xứng qua trục chính theo kiểu kiến trúc Pháp kinh điển. Khối chính cao bốn tầng nhìn ra quảng trường cuối phố Chu Văn An. Khối sau nhìn ra công viên cao ba tầng. Tầng trệt thấp là nơi đặt các phòng phục vụ. Tầng trệt thấp là cần thiết tạo vẻ bề thế của công trình, nhưng quan trọng hơn, tạo điều kiện thông thoáng, chống nồm, ẩm để đảm bảo môi trường làm việc tốt nhất cho các phòng ở tầng trên.



Về hình thức, hệ mái ngói nhiều lớp kiểu kiến trúc phương Đông được Ernest Hébrard khai thác tài tình, đặc biệt là lầu mái lớn ở khối trung tâm mặt đứng chính, cùng với lớp mái phân tầng, che cửa sổ và mái tiền sảnh... Tất cả kết hợp hài hòa với nhau tạo nên vẻ đẹp độc đáo, nhưng gần gũi của kiến trúc công trình.



Xung quanh tòa nhà là màu xanh của cây cối tạo cảm giác yên tĩnh, trong lành


Sở tài chính Đông Dương trước đây

Hệ mái còn có ý nghĩa quan trọng trong việc chống mưa hắt, che nắng, giảm bức xạ mặt trời. Cửa sổ rộng, trong kính, ngoài chớp, lại có mái che cùng hệ thống các lỗ thoáng ở thân tường trên cửa sổ sát trần và trên sàn làm tăng khả năng đối lưu không khí, thông thoáng tự nhiên đảm bảo điều kiện vi khí hậu trong phòng tốt nhất cả trong mùa hè nóng bức và mùa đông lạnh giá.
Trải qua gần trăm năm lịch sử, Công trình trụ sở Bộ Ngoại giao do KTS Ernest Hébrard thiết kế vẫn luôn được đánh giá là một công trình kiến trúc đẹp, tiêu biểu cho phong cách Kiến trúc Đông Dương, góp phần tạo nên vẻ đẹp kiến trúc đô thị riêng có và hấp dẫn của Hà Nội.


Trường Petrus Ký – Trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong (1927)



Không chỉ nổi bật với lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng hào hùng mà nhắc đến trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, nhiều người đều biết đây với tư cách là một tổng hoà công kiến trúc đẹp, gói gọn trong khuôn viên xanh, rộng rãi lên tới 8 hecta. Với những hàng cây cổ thụ, tháp đồng hồ hay những dãy hành lang lát gạch caro ẩn nấp phía dưới những mái vòm cong độc đáo được xem là những điểm nhấn đặc biệt của ngôi trường.

Trường THPT Lê Hồng Phong dưới bàn tay tài hoa của Ernest đã trở thành ngôi trường tiêu biểu cho phong cách kiến trúc phương Tây tổng hòa với nền giao thoa văn hóa bản địa Á Đông, tạo ra lối kiến trúc Đông Dương, tiêu biểu cho một thời kì lịch sử Việt Nam. Không gian kiến trúc của trường cũng là điển hình về giao lưu văn hóa Việt Nam và phong cách Art Deco, thể nghiệm sự thích nghi kỹ thuật mới vào điều kiện khí hậu bản địa.

Khuôn viên trường bao gồm ba dãy phòng học và một dãy hành lang trước bao quanh sân lớn ở giữa theo đúng như bản vẽ của kiến trúc sư. Các phòng học có hành lang thoáng đãng phía trước dẫn dắt, tạo sự thông thoáng, đón và tận dụng tối đa sáng trời. Hành lang được vận dung, thiết kế theo kiểu ống vòm để mang lại sự cách điệu cho toàn bộ công trình. Lan can hành lang không xây đặc toàn bộ mà được đục thành những lỗ hoặc đặt gạch vuông thông gió.

Lối vào sảnh chính gợi nhớ hình ảnh kiến trúc Khuê Văn Các ở Hà Nội với mái bốn vạt so le, tuy tỷ lệ các phần có khác

Ngôi trường là công trình tiêu biểu cho phong cách kiến trúc Đông Dương

Sự giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và phong cách Art Déco thể hiện rõ trên mái

Bảo tàng lịch sử Việt Nam (trước đây là Bảo tàng Louis Finot)


Bảo tàng Louis Finot xây dựng trong những năm 1928-1932 cũng do kiến trúc sư Hébrard thiết kế là một thành công đầy ấn tượng của phong cách kiến trúc Đông Dương. Mặt bằng bảo tàng được kiến tạo theo yêu cầu của không gian kiến trúc trưng bày nên chỉ gồm hai thành phần chính: Không gian sảnh hình bát giác và một phòng trưng bày lớn, tổ chức theo hình thức xuyên phòng có sự chuyển tiếp được tổ chức khéo léo. Bên cạnh đó còn có một số không gian phù trợ tạo thành một tổng thể trưng bày khoáng đạt. Hệ thống mái chồng mái được tác giả sử dụng, đặc biệt trên khối sảnh bát giác và ở các không gian phù trợ khác cũng là yếu tố chủ đạo của hình thức kết hợp ở công trình này. Các cửa thông gió và lấy sáng được đặc biệt lưu ý, kết hợp với nhiều chi tiết kiến trúc Á Đông được xử lý khéo léo. Hệ thống cây xanh được kéo từ vườn hoa phía trước vào sâu trong sân Bảo tàng làm cho công trình dường như mọc lên từ khối cây xanh nhiệt đới. Là một công trình văn hoá thuộc loại lớn lúc bấy giờ, khu sảnh bát giác mang nhiều tính hình thức của chủ nghĩa biểu hiện là điều dễ thông cảm và tạo ra được ấn tượng tốt.

Toà nhà màu vàng tọa lạc trong một khuôn viên rộng rãi mang đậm phong cách nghệ thuật kiến trúc phương Đông

Màu sắc kết hợp hài hòa, hoa văn chạm khắc tinh tế, độc đáo

Bảo tàng 3 tầng với kiến trúc ngói nhiều lớp

Ngoài xây dựng nên các công trình tên tuổi gắn liền với lịch sử Việt Nam, KTS Hébrard còn phải “nhức nhối” đối với vấn đề quy hoạch đô thị ở Đông Dương. Bỏ qua sự so sánh một cách tuỳ tiện với một đường phố Paris, rõ ràng ở đây tác giả đã mô tả một thành thị như là sự đối lập với các thành phố châu Âu. Chính vì vậy mà những nhà kiến trúc đầu tiên đặt chân đến thuộc địa xa lạ này, đều mang theo một ý tưởng xây dựng đô thị theo mô hình của thành thị nước Pháp.

Năm 1895, ông viết thư gửi cho em gái đã mô tả Hà Nội như sau: “… Cái rét hanh của những ngày qua đã quét sạch bầu trời, ánh sáng chan hoà mở rộng chân trời, mở rộng bầu trời và ý nghĩ. Ánh sáng đó lan tràn, nở rộ, và tất cả cảnh quan rực rỡ này đón chào nó. Cứ cách một trăm bước lại có một lùm tre, một bìa rừng, dưới tán cây đa xuất hiện một ngôi chùa (...). Con đường đất len lỏi qua những lùm cây rậm rạp. Dưới cành lá là ngôi làng chạy dài vô tận, những ngôi làng nghèo nàn làm bằng phên đan, bằng chiếu và vách đất, nhưng cuộc sống vẫn sôi động biết bao! (...). Trên đường, những dòng người nhỏ bé gồm cả đàn ông và đàn bà bước đi nhanh như đàn kiến, tất cả đều tất bật, gánh gồng nặng trĩu ở hai đầu đòn gánh, họ từ ruộng đồng về, lùa theo đàn trâu. Đi cách xa Hà Nội đến 6 cây số vẫn là con đường chạy dài, chen chúc như đường phố Bac”.

Để có được một Hà Nội cổ phảng phất chút kiến trúc phương Tây như bây giờ thì không thể nào không nhắc tới kiến trúc sư Ernest Hébrard. 

DESIGNS.VN

2 comments:

  1. Về nghề nghiệp và khoảng cách Đông-Tây, ở VN có 1 khoảng cách lớn vì chúng ta sính ngoại nhưng chỉ thích những gì chính hiệu mà không nghĩ rằng cần phải có những gì từ chính chúng ta, không ai có thể làm hơn được. Cái đó là tư duy nhỏ bé, lệ thuộc, ăn mày ăn xin... không phải của những dân tộc có tư tưởng lớn.
    Riêng về kiến trúc, rất tiếc, tôi đã không thể chuẩn bị cho mình 1 hành trang đầy đủ để có thể tiếp thu những gì được học từ Hungary nên tự thấy chưa đủ tư cách là 1 kiến trúc sư thực thụ, chỉ là người yêu thích và từng làm nhiều thứ để từ đó biết chút ít về nghề.
    VN thiếu những con chim đầu đàn, trừ hội họa và y khoa là 2 lĩnh vực chúng ta có một số đại diện tiêu biểu, còn lại chỉ là những chắp vá nghèo nàn, sơ khai in đậm những gì của 1 xứ thuộc địa, "không chịu phát triển" kéo dài hàng thế kỷ.
    Lịch sử của một quá trình xây dựng từ tuyên truyền nhiều hơn lao động & sáng tạo thật sự đã bóp chết nhiều tài năng, kìm hãm sức sáng tạo và đam mê đã hình thành 1 cái vòng luẩn quẩn trói buộc cả 1 dân tộc trong cái "đáy giếng" như những con ếch "coi Trời bằng vung", "con người là sản phẩm của xã hội" là như thế, sản phẩm made in CHXHCNVN cũng chỉ là những thứ rẻ tiền, nát vụn mà thôi.

    ReplyDelete
  2. Đến khi nào VN mới hết mắc chứng "táo bón triền miên" trong tư duy & sáng tạo???

    ReplyDelete