Dưới
ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu nay chúng ta có thành kiến rất sâu sắc
về phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ Tây Âu. Thực ra, cho tới ngày Liên Xô biến mất, người
Liên Xô chưa bao giờ giới thiệu
cho chúng ta biết một cách khách quan, trung thực về tình hình thực
sự của phong trào xã hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối
quan hệ giữa các đảng cộng sản
với các đảng xã hội dân chủ), không phải là “phủ định nhiều,
khẳng định ít”, mà là phủ định toàn bộ.
Trước hết, tôi muốn nói một điều: thật
ra phong trào xã hội dân
chủ Tây Âu đã phức tạp lại
đa dạng, tình hình các nước không hoàn toàn giống nhau. Thụy Điển không ở
vào vùng đất “trái tim”
của thế giới tư
bản, mà chỉ là “tứ chi” thôi (“trái tim” và “tứ chi” là cách nói của Mác), cách khá xa vùng
trung tâm giành giật của các thế lực tư
bản cường quyền, do đó cuộc cải cách xã hội
của Thụy Điển có thể
tiến hành tương đối tự chủ
mà không, hoặc ít chịu sự can thiệp
và ảnh hưởng của các thế
lực ngoại quốc.
Ở
đây cần đặc biệt chỉ
ra một điểm: các đảng XHDC, đảng xã hội, đảng công nhân thuộc
“Quốc tế xã hội” thành lập
năm 1923 ở châu Âu có
cách giải thích về “chủ nghiã xã hội
dân chủ”, trên nguyên tắc và trên nhiều mặt, khác với
cách giải thích của chủ nghĩa Mác; nhất
là chủ trương “đa
nguyên hoá tư tưởng”. Đảng
XHDC Thụy Điển tuy cũng thừa nhận đa nguyên hoá tư
tưởng, nhưng họ vẫn
kiên trì lấy học thuyết Mác Ăng-ghen làm tư tưởng
chỉ đạo chính của mình. Đây là một đặc điểm
và ưu thế của họ.
Tại
đây, tôi chỉ xin căn cứ vào Báo cáo Khảo sát, chia nó ra thành đề mục để
trình bày, tức dùng phương pháp “chỉ thuật lại mà không viết
thêm” (thuật nhi bất tác) để giới thiệu
về tình hình xã hội XHCN dân chủ ở Thụy
Điển mà mọi người rất
muốn tìm hiểu. Tôi xin phép khuyên bạn đọc chịu
khó đọc hết phần sau, chớ
có bỏ qua một dịp tìm hiểu
về chủ nghĩa xã hội của Thụy
Điển.
Về
vấn đề tính chất của đảng
Xã hội dân chủ Thụy Điển
và của xã hội Thụy Điển
Báo cáo khảo
sát viết: “Lâu nay,
chúng ta [tức ĐCSTQ]
luôn cho rằng đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển
là một đảng xét lại, xã hội Thụy Điển
là một xã hội tư bản
như các nước
xã hội phương Tây
khác. Do đó,
trong quá trình
khảo sát, chúng tôi đã cực kỳ thẳng thắn hỏi
các bạn Thụy Điển: rốt
cuộc đảng và xã hội của họ
có tính chất như thế nào? Họ
trả lời rõ ràng: cho tới nay, họ vẫn tự
cho rằng đảng XHDC Thụy Điển là một
chính đảng xã hội chủ nghĩa, xã hội
Thụy Điển là một xã hội
xã hội chủ nghĩa. Lý do chủ yếu là: xét về
lịch sử đảng XHDC Thụy
Điển, năm 1889, khi
thành lập đảng, họ không có cương
lĩnh và điều lệ đảng của
riêng mình, mà sử dụng nguyên xi cương lĩnh
và điều lệ của
đảng XHDC Đức hồi đó, do Ăng-ghen sáng lập. Khi chúng tôi đến
thăm Thụy Điển, tuy họ đang chuẩn bị sửa
đổi lần thứ 7 cương
lĩnh của
đảng, nhưng các tài liệu
tuyên truyền phát đi vẫn ghi rõ: cơ sở lý luận
của đảng XHDC Thụy Điển là đa nguyên, song chủ yếu
là chủ nghĩa Mác
Ăng-ghen; cơ sở giai cấp rộng rãi, nhưng
chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có điều là ghi rõ: giai cấp công nhân không những chỉ
bao gồm công nhân cổ xanh mà còn gồm cả công nhân cổ
trắng…
Nhân vấn
đề này, họ đặc biệt
mời chúng tôi tới thăm Nhà Trưng bày lịch sử đảng
XHDC Thụy Điển. Nhìn thứ tự các bức
ảnh được treo ở đây, có thể thấy rõ: vị
trí thứ nhất là Các Mác, thứ hai là Ăng-ghen, thứ ba là Lát-xan,[7] thứ tư là Bran-hân, nhà lãnh đạo đầu tiên của đảng XHDC Thụy
Điển … Khi trao đổi ý kiến với
một số nhà nghiên cứu lý luận của đảng
XHDC Thụy Điển, họ đặc
biệt nhấn mạnh: chủ
nghĩa xã hội mà họ nói là có điều kiện, tức
là trước đó phải thêm từ “dân chủ”, nói hoàn chỉnh phải là xã hội
“chủ nghĩa xã hội dân chủ“. Nếu không thêm từ
“dân chủ”, thì họ thà để người
ta nói xã hội của họ là xã hội
tư bản, còn hơn là để nói
là xã hội XHCN. Bởi lẽ, loại
xã hội XHCN ấy đại biểu
cho xã hội XHCN kiểu Liên Xô, không có sức thu hút quần chúng, nghĩa là không nhận được phiếu
bầu của quần chúng, cũng tức
là không thể nắm chính quyền và thực thi các chính sách XHCN.
Về
tính chất nền kinh tế Thụy Điển
Báo cáo Khảo
sát viết: “Theo cách nói
của các bạn Thụy Điển,
tính chất của kinh tế Thụy Điển
vừa không hoàn toàn là
kinh tế tư bản, vừa
cũng không phải hoàn
toàn là kinh tế XHCN, mà
là một loại kinh tế hỗn hợp.[8]
Kinh tế hỗn hợp nghĩa là:
- Về
chế độ sở hữu
thì thực hành pha trộn chế độ
sở hữu công cộng và chế độ tư
hữu;
- Về
chế độ phân phối thì thực hành phân phối theo lao động kết hợp
với phân phối theo vốn (tư bản);
- Về
phương thức vận hành kinh tế
thì thực hành nhà nước điều hành vĩ mô kết
hợp với kinh tế thị trường.
Trong đó, cốt lõi nhất là sự hỗn
hợp về chế độ
sở hữu, vì chỉ có làm được như thế
thì mới có thể thực hiện
được sự hỗn hợp
về chế độ phân phối
và về phương thức vận
hành kinh tế. Tại sao chủ nghĩa xã hội phải thực
hành kinh tế hỗn hợp? Về
vấn đề này, các bạn Thụy Điển
đã dùng kinh nghiệm tự thân của đảng mình để
giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học
lịch sử rất sâu sắc
của họ.
“Theo giới
thiệu, khi đảng XHDC Thụy Điển thành lập
năm 1889, lúc đó Thụy Điển hãy còn là một trong những nước lạc
hậu nhất châu Âu, thậm chí dân chúng còn chưa có quyền tối thiểu
là quyền bầu cử phổ
thông. Vì sức sản xuất còn kém và trình độ của
đảng còn thấp, nên khi đảng thành lập, họ không đưa
ra được
cương lĩnh của
đảng, đành phải sử dụng
nguyên xi cương lĩnh của
đảng XHDC Đức hồi đó, do Ăng-ghen lãnh đạo soạn
thảo. Cương lĩnh
này quy định rõ ràng: về chính trị, phải thông qua bầu
cử dân chủ để quá độ
hoà bình giành lấy chính
quyền; về kinh tế, phải thực
hiện chế độ sở
hữu công cộng, phân phối theo lao động và quản lý có kế hoạch. Sau hơn
30 năm phấn
đấu, về cách đề xuất phương
thức mục tiêu đấu tranh chính trị tuy có mấy lần thay đổi,
như ban đầu đề khẩu hiệu
phấn đấu là “đấu tranh giành quyền bầu cử”;
sau khi đã có quyền bầu cử thì sửa
là “đấu tranh để được tham gia nghị
viện”; sau khi đảng đã có chân trong Quốc hội rồi,
lại đề xuất “đấu
tranh giành đa số trong
Quốc hội”. Thế nhưng,
các mục
tiêu kinh tế nói trên
trong cương lĩnh lại
không hề thay đổi.
Trong cuộc
bầu cử năm 1920, số nghị sĩ của
hai đảng XHDC và đảng Nhân dân (thuộc phái bảo thủ) cộng
lại đã vượt quá đa số trong Quốc hội (phe đối
lập chủ yếu là các nghị
sĩ có liên quan tới
Hoàng gia Thuỵ Điển), số ghế
nghị sĩ của đảng XHDC nhiều
hơn của đảng Nhân dân, hai đảng
này đã lập chính phủ liên hợp cùng nắm chính quyền, người lãnh đạo
của đảng XHDC làm Thủ tướng. Do đảng
XHDC là lực lượng chính trong chính phủ, nên đảng này có điều kiện thực
thi cương lĩnh kinh tế
quy định trong Cương lĩnh
của đảng, bắt đầu
dùng biện pháp thu mua
và chuộc lại để xây dựng
trên cả nước một số
lượng lớn các doanh nghiệp sở hữu
công cộng, trong đó sở hữu nhà nước
là chính. Nhưng vì chưa
thể giải quyết tốt
vấn đề quản lý các doanh nghiệp nên chẳng
bao lâu sau, sức sống của các doanh nghiệp
đó bị giảm sút, hiệu quả và lợi
ích không cao, trong nền
kinh tế xuất hiện những
khó khăn không đáng có. Trong cuộc
bầu cử năm 1924, số phiếu bầu
cho đảng XHDC bị giảm mạnh,
kết quả là đảng bị
bật ra khỏi chính phủ, đảng Nhân dân có tính bảo thủ
lên nắm chính quyền. Theo cách nói của các bạn Thuỵ Điển
thì đảng đã đánh mất quyền lãnh đạo
chính phủ.
“Trong tình hình đó, đảng
XHDC Thụy Điển mới bình tĩnh tổng
kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng,
họ rút ra được một kết
luận rất quan trọng. Đó là: đảng XHDC Thụy Điển là một
chính đảng XHCN, do đó
phải kiên trì thực hiện CNXH; nhưng
trong việc thực hiện CNXH thì xã hội
hoá quyền sở hữu không phải
là một vấn đề căn bản;
xã hội hoá phân phối mới là vấn
đề căn bản, tức thực
thi phân phối công bằng của cải
xã hội như thế nào để
bảo đảm quyền lợi
của giai cấp công nhân và người lao động. Lập thật
nhiều doanh nghiệp sở hữu
công cộng, nhà nước phải đầu
tư rất lớn, tốn
nhiều công sức nhưng hiệu
suất và lợi ích đều nói chung không cao, không
làm ra được nhiều của cải,
nếu muốn phân phối một cách công bằng
thì cũng chẳng có cơ sở vật
chất kinh tế lớn mạnh
để làm chỗ dựa mà phân phối.
Như vậy thì không có lợi bằng biện
pháp:
- không lập nhiều doanh nghiệp sở hữu
công cộng (trừ các lĩnh vực bắt buộc
phải do nhà nước làm),
- khuyến khích ủng hộ sự
phát triển kinh tế sở hữu
phi công cộng, để cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều của
cải càng tốt,
- chính phủ thực hiện
phân phối các của cải đó một
cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu
của người lao động.
- Có thể giải quyết
những vấn đề và tệ
nạn phát sinh trong quá
trình phát triển các
doanh nghiệp tư nhân trên hai mặt
sau:
- sử dụng thế lực
của công đoàn ở tổ chức
cơ sở tiến hành đấu
tranh cần thiết;
- sử dụng
quyền lập pháp của Quốc hội
để hạn chế các tệ
nạn đó ngay từ trên thượng tầng.
Đảng
XHDC Thụy Điển đã dựa vào kết
luận này để sửa đổi
lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu
của đảng, qua đó giành được sự ủng
hộ của quần chúng rộng
rãi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng
lại giành được đa số trong Quốc hội và lại
lên nắm chính quyền liên tục 44 năm liền, cho tới năm 1976 mới bị đảng
Nhân dân thay thế một thời gian. Trong mấy
chục năm đó, đảng XHDC đã xây dựng Thụy Điển
từ một nước kinh tế
lạc hậu nhất châu Âu trở
thành nước kinh tế phát triển, đứng thứ
2 trên thế giới về GDP đầu
người (sau Thụy Sĩ). Mặc dù có vài lần bị đảng
Nhân dân thay thế nhưng trong phần lớn thời
gian từ 1976 tới nay, đảng XHDC vẫn nắm chính quyền.
Đến cuối thập kỷ
80, đầu thập kỷ 90 thế
kỷ XX, phần phân phối đã được xã hội
hoá trong toàn bộ của cải quốc
dân, tính theo tỷ lệ thu nhập tài chính của nhà nước so với GDP, đã đạt 57~58%. Nhờ đó đã có điều kiện xây dựng
Thụy Điển thành nước có phúc lợi xã hội nhiều
nhất thế giới, khiến
cho lý thuyết xã hội hoá phân phối được vận
dụng triệt để vào trong thực
tiễn.
Về
nguyên tắc phân phối thực hành tại
Thụy Điển
Báo cáo Khảo
sát viết: “Theo các bạn Thụy Điển
giới thiệu, nguyên tắc phân phối của họ
là: phải vừa có lợi cho việc
huy động, phát huy đầy đủ tính tích cực
về mọi mặt, và nâng cao năng suất lao động,
lại vừa không để xuất hiện
chênh lệch phân phối quá lớn (ý nghĩa có chút giống như khẩu
hiệu “ưu tiên năng suất,
chiếu cố công bằng” mà Trung Quốc mấy năm nay luôn nhấn
mạnh). Biện pháp chủ yếu là: trong lần
phân phối đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, nghĩa là người
làm nhiều, cống hiến nhiều
thì phải được phân phối nhiều; ngược
lại thì chỉ được phân phối
ít. Nhưng khi tái phân phối thì phải
có sự điều tiết hợp
lý, sao cho mức hơn kém
trong phân phối
cuối cùng không quá lớn.
Bởi
thế, cho tới nay trong cả nước Thụy
Điển, chỉ có một số
cực ít các nhà doanh
nghiệp xuất sắc, thí dụ
những người như Tổng
Giám đốc hãng ô tô
Volvo, mới được hưởng mức
thu nhập trên 1 triệu cuaron mỗi năm; còn nhìn chung chênh lệch về thu nhập
thực tế của tuyệt
đại đa số là không lớn lắm.[9] Thí dụ,
lương của người lãnh đạo
cao nhất trong chính phủ so với lương
của công chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch
có thể tới gấp 4-5 lần,
nhưng sau khi nộp thuế, tỷ
lệ chênh lệch chỉ còn bằng
2-3 lần. Điều đặc biệt
là, ngoài lương ra, họ không có bất kỳ phụ cấp cấp
bậc và phụ cấp chức
vụ nào khác; cho nên tỷ lệ chênh lệch
nói trên là rất nhỏ. Khi giới thiệu với
chúng tôi, các bạn Thụy Điển nói chênh lệch
thu nhập ở Thụy Điển
có lẽ là nhỏ nhất thế
giới. Tại Thụy Điển,
cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt
giữa thành thị với nông thôn, giữa
công nhân với nông dân,
giữa lao động trí óc với lao động chân tay. Về vấn đề
này, mới đầu chúng tôi còn nửa tin nửa ngờ; nhưng
sau khi quan sát thực địa
một số gia đình thuộc các diện khác nhau, chúng tôi cảm thấy đúng là về
đại thể là như vậy.”
Về
chế độ phúc lợi ở Thụy
Điển
Báo cáo khảo
sát viết: “Mọi người đều
biết, phúc lợi xã hội ở
Thụy Điển ở mức
nhiều nhất thế giới.
Ngoài 4 loại bảo hiểm lớn
được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc Âu khác): bảo hiểm hưu
trí dưỡng
lão, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm tai nạn lao động, còn có nhiều loại hình phúc lợi
xã hội khác, nhiều đến mức
người ta hình dung Thụy Điển là nước
mà người dân “từ khi lọt lòng đến
khi chết” đều được hưởng
phúc lợi. Căn cứ theo kết quả khảo
sát của chúng tôi thì
câu nói trên đúng là “danh bất
hư truyền”. Thí dụ:
Chế
độ dưỡng lão: người lao động về hưu
được
định kỳ lĩnh lương hưu đủ sống, người
già yếu không tự lo liệu cuộc
sống được thì có thể vào ở trong viện
dưỡng lão của nhà nước, được hưởng
sự chăm sóc y tế miễn phí, điều
kiện sống tại đây tương
đương
với khách sạn 3 sao.
Chế
độ bảo hiểm thất
nghiệp: nếu người lao động
thất nghiệp, họ được
định kỳ lĩnh tiền cứu tế
thất nghiệp, được các trung tâm giới thiệu
việc làm của nhà nước miễn phí giới
thiệu việc làm trong phạm vi toàn quốc. Nếu nơi
làm việc
mới cách xa chỗ ở hiện
nay, nhà nước có thể giúp một phần kinh phí dọn
nhà.
Chế
độ giáo dục: không những tất cả
mọi người đều được
đi học không mất tiền suốt
đời mà luật pháp còn qui định, từ nhà trẻ
cho đến bậc trung học, nếu trong lớp
có một học sinh người nước ngoài, thì nhà trường phải
bố trí một giáo viên biết tiếng mẹ
đẻ của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng phải
lên lớp một số giờ
nhất định bằng tiếng
mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại
học, từ lúc vào học cho đến lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước
số năm học nhất định
nhưng pháp luật
qui định, nếu học sinh nào tốt
nghiệp rồi mà chưa tìm được
công việc thích hợp và không muốn rời nhà trường
thì có thể tiếp tục học
tập miễn phí. Các bạn Thụy Điển
cho biết, hiện nay hầu như ở
trường nào cũng có những sinh viên lớn tuổi đã học
7-8 năm hoặc hơn trong trường.
Chế
độ sinh đẻ: phụ nữ
sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương
(12 tháng đầu hưởng 100% lương,
6 tháng cuối
hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ
18 lại có thai, sẽ tiếp tục
được nghỉ tiếp hưởng
90% lương cho đến khi
đứa trẻ ra đời lại
được hưởng chế độ
nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ
làm công việc tương đối quan trọng không thể hoặc không muốn
nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, thì hai vợ
chồng có thể bàn bạc để
chồng có thể nghỉ thay vợ.
Chế
độ nhà tù: người bị giam giữ
hoặc tội phạm đang lĩnh án được
nhà nước nuôi ăn ở không mất tiền, ngoài ra, mỗi
tháng còn được lĩnh một khoản tiền
mặt trợ cấp tuy không lớn
nhưng cũng không phải là nhỏ
lắm. Nhờ các khoản phúc lợi xã hội nói trên, đời
sống cơ bản của
mỗi người dân trong bất kỳ tình huống nào đều có sự bảo
đảm cần thiết. Vì thế
bộ mặt xã hội nói chung là tốt
đẹp, cuộc sống yên bình, trật
tự nền nếp, thực
là có cái cảnh “ra đường không sợ mất cắp,
đêm nằm không phải đóng cửa”. Các cán bộ sứ quán Trung Quốc
ở đây cho biết, mấy chục
năm qua họ rất ít khi bị mất cắp.
“Dĩ nhiên sự
việc nào cũng có hai mặt. Qua một số điều
chúng tôi đã tiếp xúc hoặc nghe kể, chế độ
phúc lợi suốt đời nói trên của
Thụy Điển ít nhất cũng tồn tại các vấn
đề và mâu thuẫn trên hai mặt sau.
Thứ nhất, chế độ phúc lợi
cao này là dựa vào chế độ thu thuế
cao. Do thu thuế cao nên thu nhập
tài chính nhà nước của Thụy
Điển chiếm gần 60% GDP, mức
cao nhất thế giới. Nghĩa là gần
3/5 của cải
toàn xã hội bị
nhà nước tập
trung vào tay mình, tỷ lệ để lại
cho các doanh nghiệp
và người dân quá nhỏ, trên mức độ nhất
định tất sẽ ảnh
hưởng tới tính tích cực của doanh nghiệp
và người lao động. Đặc biệt
là thuế suất luỹ tiến
của thuế thu nhập, bậc cao nhất
từng dùng thuế suất trên 80% (nay vẫn
trên 70%), nghĩa là gần
hết số tiền mà người
lao động vất vả kiếm
được lại không được hưởng. Điều
đó dẫn đến trường hợp
khi doanh nghiệp hoặc đơn vị
cần hoàn thành một công việc cần kíp thì ngoài 8 giờ làm việc
ra, người lao động nói chung đều không muốn làm ngoài giờ, vì thu nhập làm thêm mình chẳng được hưởng
bao nhiêu. Bất mãn nhất là những người có thu nhập
cao. Thập kỷ 80, một danh thủ
quần vợt nổi tiếng
thế giới người Thụy
Điển chỉ vì bất mãn với
thuế suất quá cao của nước này đã bỏ
sang Anh định cư.
Thứ
hai, chế độ phúc lợi cao rất dễ bị
một số người lợi
dụng kiếm chác những khoản lợi
ích họ không đáng được hưởng. Trong thời
gian thăm Thụy Điển, khi đến một gia đình công nhân được gọi
là có thu nhập thấp nhất, chúng tôi đã phát hiện vấn
đề đó. Gia đình này có 4
cô con gái rồi, nhưng bà chủ lại có thai tiếp.
Cảm thấy rất kỳ lạ,
chúng tôi hỏi ông chủ tại sao đẻ
nhiều như vậy. Ông trả
lời: tôi đã tính toán từ lâu, thấy để vợ
ở nhà đẻ con là có lợi nhất. Chẳng
những bà ấy được nghỉ
một năm rưỡi có lương, mà
khi hết thời hạn đó lại
có thai nữa thì tiếp tục được
nghỉ ở nhà vẫn có lương,
nghĩa là bà ấy được nghỉ phép dài hạn
ở nhà cai quản công việc nội trợ
phức tạp. Hơn nữa,
chính phủ còn khuyến khích sinh đẻ, ai có nhiều con thì được hưởng chế
độ trợ cấp luỹ
tiến; cứ thêm một con thì hàng tháng được trợ cấp
thêm ít nhất 1.000
cuaron, lại không phải đóng thuế thu nhập, như thế
rõ ràng làm tăng thu nhập
của nhà tôi. Khi chúng
tôi hỏi: như thế, ông có bị
thiệt hại gì không? Mới đầu ông ta bảo
không, nhưng sau một lúc suy nghĩ, lại bảo là cũng có thiệt
ở chỗ không thể đi du lịch xa, vì vợ con lóc nhóc đông quá đi xa
rất bất tiện … Câu chuyện
này cho thấy, chế độ phúc lợi
xã hội quá cao quá nhiều của Thụy
Điển cũng cần thiết phải
điều chỉnh, cải tiến
hợp lý.
Về
công bằng xã hội ở Thụy
Điển
Báo cáo Khảo
sát viết: “Qua nhiều thực tế
chúng tôi đã tìm hiểu và
tiếp xúc trong quá trình
khảo sát, có thể nói xã hội Thụy Điển
tương đối công
bằng. Tuy không thể nói Thụy Điển hoàn toàn không có chế độ
đặc quyền đẳng cấp,
lối sống không lành mạnh và hiện tượng tham nhũng thường
thấy ở nhiều nước
khác, nhưng qua tai nghe
mắt thấy thì các hiện tượng đó đúng là không nhiều. Tại
sao xã hội Thụy Điển có thể
thực hiện được tương
đối
công bằng? Chủ yếu là do:
“(1). Có chế độ pháp luật
hoàn thiện, có thể hạn chế một cách hữu
hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất
công xã hội. Thí dụ,
pháp luật quy định
rõ: trừ Quốc vương ra, bất cứ ai, kể cả Thủ tướng, khi ra ngoài đều
không được mang theo nhân viên bảo vệ.
Chính vì thế mà Thủ tướng Thụy
Điển kiêm Chủ tịch đảng
XHDC nước này là ông Ô-lôp Pan-mơ [Olof Palme, 1927-1986] đã bị ám sát. Hôm đó, vào cuối năm 1986 (không lâu trước ngày chúng tôi thăm Thụy Điển),
sau giờ làm việc,
ông Pan-mơ cùng vợ đi
tầu điện
ngầm đến
xem phim ở một rạp chiếu
bóng trong khu phố đông vui nhất
thủ đô Xtốc-khôm
[Stockholm]. Xem phim xong, hai người
ra về, khi đang đi bộ
trên đường phố, sắp đến một ga tầu
điện ngầm
thì ông Pan-mơ bị một kẻ lạ mặt bắn chết;
nghe nói cho tới nay vẫn
chưa tìm ra hung thủ.
Sau vụ này, Thụy
Điển mới sửa đổi
luật, quy định Thủ
tướng khi ra ngoài cũng
có thể mang theo nhân
viên bảo vệ. Khi chúng tôi đến thăm chỗ ông bị ám sát, vẫn
còn thấy vết máu trên đường, thỉnh thoảng có người
mang hoa đến đặt lên chỗ có vết máu tỏ
lòng thương tiếc.
“Luật
pháp cũng ghi rõ: trong cả
nước, chỉ một số
rất ít cấp lãnh đạo như Chủ
tịch Quốc hội, Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại
giao, Bộ trưởng Quốc phòng mới
được nhà nước cấp ô tô công vụ,
còn tất cả các quan chức khác chỉ được đi lại
bằng các phương tiện giao thông công cộng hoặc
xe tư của mình. Quy định trên không những giảm rõ rệt
biên chế nhân viên cơ quan nhà nước
và chi phí, mà còn ngăn chặn
được tình trạng lợi dụng
xe công làm việc tư, cũng
như các tác phong không
lành mạnh
khác.
“Pháp luật
còn quy định rõ: trong
công việc giao thiệp với khách nước
ngoài, người lãnh đạo ở cấp
nào thì được nhận quà tặng trị giá bao nhiêu. Chúng tôi đã có một lần tự
mình thấy rõ điều này. Năm 1985, lần đầu tiên tôi theo Đoàn Cải cách cơ
chế đến Thụy Điển
khảo sát, đơn vị đón tiếp
chính về phía bạn là Bộ Công nghiệp.
Trong buổi làm việc với bà Bộ
trưởng Bộ này, chúng tôi có tặng bà một đôi bình hoa nhỏ Cảnh-Thái-Lam cao khoảng 7-8 tấc
Anh, sản xuất tại Bắc
Kinh, để làm kỷ niệm. Sau khi mở
hộp giấy bọc và xem món quà, bà kinh ngạc khen: Đẹp quá! Nhưng rồi bà lại
thở dài: Rất tiếc là tôi không được
mang món quà này về nhà.
Lúc đó chúng tôi đều
không hiểu tại sao bà lại nói thế. Khi ra về, tôi có hỏi một cán bộ
Sứ quán Trung Quốc cùng dự buổi tiếp
hôm ấy, mới biết luật
pháp Thụy Điển có quy định, lãnh đạo cấp Bộ
trưởng trong hoạt động ngoại
giao chỉ được nhận quà biếu
có giá trị lớn nhất không quá 1.500 cuaron (khoảng 180 đôla Mỹ). Loại bình hoa chúng tôi biếu, ở
Bắc Kinh thì không đáng
bao nhiêu tiền, nhưng ở Thụy
Điển thì ước tính có thể hơn 1.500 cuaron. Do đó bà Bộ trưởng không thể mang về nhà, mà chỉ có thể để
ở phòng làm việc. Bao giờ mãn nhiệm, giả thử
tân Bộ trưởng đến có nói món quà này nếu bà thích thì lấy
đi; lúc đó mới có thể đem về nhà mình.
“(2). Dư
luận giám sát công khai,
là biện pháp hạn chế mạnh
mẽ sự phát sinh và lan tràn các hiện tượng bất
công xã hội. Về mặt này, năm 1988, khi chúng tôi đến Thụy Điển
và Áo [Austria] khảo
sát, ở cả hai nước đều
gặp những chuyện cụ thể.
Chúng tôi tới Thụy Điển đúng vào lúc cô con gái của một vị
Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng XHDC Thụy Điển (tương
đương
Uỷ viên Bộ Chính trị ĐCSTQ) và là Chủ tịch Công đoàn toàn quốc, có chuyện
rắc rối: báo chí tố giác cô này chưa đủ tiêu chuẩn được phân phối
nhà nhưng vẫn được chia nhà, và phê phán ông Chủ tịch Công đoàn lợi
dụng đặc quyền đảng
XHDC đang nắm chính quyền để tư
lợi. Vì vấn đề này, đảng
XHDC đã tổ chức một cuộc
họp báo để công khai giải thích và tỏ thái độ. Trong họp báo, ông Chủ tịch Công đoàn tuyên bố: việc
này ông không được biết trước, là do con gái ông tự làm; dĩ nhiên, ông có trách nhiệm là giáo dục con chưa nghiêm, ông nhất
định sẽ đôn đốc con gái trả
lại nhà nước căn nhà này, và sẵn sàng nhận sự phán xử
của luật pháp. Sau đó, vụ tai tiếng này mới chìm xuống.”
Về
vấn đề địa vị
trong xã hội của chính đảng và của người lãnh đạo
Vấn
đề này được Báo cáo Khảo sát dành riêng một đoạn viết
về những gì đã tìm hiểu khảo sát được:
“Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các chính đảng
và nguy cơ sống còn của đảng đã buộc
lãnh đạo các cấp và tầng lớp
công chức phải đối xử
với quần chúng nhân dân bằng một thái độ
bình đẳng và giải quyết các công việc
xã hội theo nguyên tắc công bằng. Về chính trị,
Thụy Điển thực hành cái gọi
là chế độ dân chủ kiểu phương
Tây, các
chính đảng cạnh tranh với
nhau rất gay gắt, lá phiếu bầu của
quần chúng quyết định đảng
nào được lên vũ đài
chính trị nắm chính quyền, sự sống
còn của đảng trên một mức độ
lớn cũng phụ thuộc vào lá phiếu
bầu cử của nhân dân. Nhà nước
không cấp kinh phí vô điều kiện cho các chính đảng,
nguồn kinh phí hoạt động của
các đảng phải trông vào đảng phí của đảng viên nộp
và các nguồn tự gây quỹ, phần khá lớn
nữa là kinh phí chính phủ cấp dựa
vào số lượng nghị sĩ của đảng
trong Quốc hội. Đảng nào không nhận
được nhiều phiếu bầu
của quần chúng thì không vào được Quốc hội,
do đó không có khoản
kinh phí nói trên, như vậy sẽ rất
khó tồn tại lâu dài.
Bởi
lẽ đó, dù là nguyện vọng chủ
quan thế nào đi nữa, trong mọi hoạt động,
đảng XHDC Thụy Điển đều
bắt buộc phải luôn giữ
cho mình một hình ảnh giầu mà không xa xỉ,
bình đẳng đối xử với
quần chúng, bảo đảm công bằng
xã hội. Thí dụ: tuy đảng XHDC Thụy Điển đã nhiều
lần nắm chính quyền và một lần
nắm chính quyền liền 44 năm, nhưng
vào cuối
thập kỷ 1980 khi chúng tôi đến đây khảo sát, cơ quan trung ương đảng của họ
vẫn chỉ có 50-60 nhân viên công tác.
Tỉnh uỷ tỉnh Goteborg chỉ
có 5~6 người. Khi chúng
tôi đến làm việc với họ,
chỉ thấy một cán bộ
làm tất cả mọi việc,
từ giới thiệu tình hình, toạ
đàm trao đổi ý kiến, dẫn đi tham quan các nơi, hướng
dẫn du lịch, và cả việc lái xe nữa.
Họ cho biết, tỉnh uỷ
Goteborg có 3~400 chi bộ
phân tán trong các cộng
đồng phường xã (vì pháp luật quy định không được tổ chức
chi bộ đảng trong các doanh nghiệp và cơ quan đơn vị), mỗi
tháng ít nhất tỉnh uỷ phải
đến mỗi cơ sở
một lần để tìm hiểu
nắm tình hình, chỉ đạo công tác và truyền
đạt chỉ thị của
cấp trên; do đó công tác
của họ rất bận.
Năm 1985, khi tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế thăm Thụy
Điển lần đầu, hôm đến
Goteborg đúng vào Chủ nhật, Chủ tịch
tỉnh và Chủ tịch Hội
đồng nhân dân tỉnh cùng tổ chức chiêu đãi chúng tôi trong một pháo đài trên núi gần biên giới với Na-uy. Phòng tiệc
bày biện sang trọng nhưng ăn uống rất đơn
giản. Sau bữa ăn, họ mời ra quảng
trường ngoài pháo đài
nghe một đoàn nhạc giao hưởng vừa từ
Moskva trở về biểu diễn.
Khách nghe nhạc, từ toàn đoàn chúng tôi cho tới Chủ tịch
tỉnh và Chủ tịch HĐND tỉnh,
tất cả đều không có chỗ
ngồi, mà cùng đứng chung với khách du lịch suốt hơn
một giờ. Trên đường về thành phố,
khi ô tô chúng tôi sắp
lên phà qua sông, bỗng một chiếc xe phía trước
không nổ được máy. Lúc đó, Chủ tịch HĐND ngồi
bên cửa xe (ông này thọt chân) và Chủ tịch tỉnh
lẳng lặng xuống xe trước
tiên, cùng mọi người đẩy xe cho tới
lúc xe nổ máy được mới thôi. Cảnh
này thật làm mọi người cảm
động.
“Nguyên tắc
công bằng xã hội nói trên của các bạn Thụy Điển
không những chỉ thể hiện
trong việc giải quyết các công việc
trong nước, mà đối với các bạn
nước ngoài cũng vậy. Lần đi Thụy
Điển năm 1988, hôm tới Xtốc-khôm đúng vào hai ngày nghỉ cuối tuần,
vì không bố trí được phòng trọ cho chúng tôi trong thành phố, họ đưa
chúng tôi đến trọ tại nhà nghỉ
của một công đoàn trên hòn đảo ngoài biển gần đấy.
Xung quanh nhà nghỉ là
cánh đồng tuyết, khu nhà nghỉ không có tường bao cũng chẳng có người bảo vệ,
rất ít nhân viên phục vụ. Mỗi
người chúng tôi được bố trí ở
trong một căn phòng khoảng chục mét vuông, kể
cả trưởng đoàn cũng vậy, tuy có được thêm một phòng khách cũng nhỏ như thế,
chỉ vừa đủ chỗ
kê mấy chiếc ghế xô pha. Nghe nói đây là căn phòng ông Các-xơn (Carsson), đương
kim Chủ tịch đảng XHDC và Thủ
tướng chính phủ Thụy Điển,
thường đến nghỉ. Hết
hai ngày cuối tuần, họ đưa
chúng tôi về thành phố, bố trí trọ
tại một khách sạn vừa không đồ
sộ, thiết bị lại
vừa chưa đạt tiêu chuẩn khách sạn ba sao ở Trung Quốc. Trưởng đoàn chúng tôi cũng không được đặc cách ở
phòng sang hơn, mà cũng chỉ ở
một phòng tiêu chuẩn như mọi
đoàn viên.
“Những
người lãnh đạo Thụy Điển
rất chú ý giữ gìn hình ảnh công bằng xã hội tốt đẹp
nói trên, khi họ còn sống cũng như khi giải quyết việc
tang lễ cho người lãnh đạo. Như ông Pan-mơ bị ám sát năm 1988, sinh thời ông vừa
là Thủ tướng và Chủ tịch đảng
XHDC Thụy Điển, mà còn là Chủ tịch Quốc
tế của các đảng Xã hội, có ảnh hưởng
lớn trên thế giới và ở
châu Âu, có uy tín cao trong nước,
cống hiến đối với
đảng và với nước đều
không nhỏ. Nhưng sau khi ông qua đời,
người ta không dựng nhà kỷ niệm hoặc
bia kỷ niệm ông, cũng không xây cất cho ông một ngôi mộ sang trọng, mà chỉ mai táng tro xương ông
trong một nghĩa trang
công cộng phía sau nhà thờ gần dãy phố
nơi ông bị
ám sát. Ngôi mộ ông là một khối hình hộp
bằng đá cẩm thạch màu đen, diện
tích khoảng 4 mét vuông,
trên dựng một phiến đá cao chừng
1 mét có chữ ký của Pan-mơ. Nghe nói phiến
đá này trước đây ở quê ông, mỗi lần về
quê vận động tranh cử, Pan-mơ đều đứng trên phiến
đá này để diễn thuyết, nên người
ta mang nó về đây để làm kỷ niệm.”
Phần
trích dẫn Báo cáo khảo sát đến đây xin dừng lại, chủ
yếu dùng cách sao chép.
Theo tôi nghĩ, phần
trích dẫn trên đã đưa ra một phác thảo
khái quát để bạn đọc có thể
hiểu được tình phong trào xã hội dân chủ Thụy Điển
cùng các thành tựu đạt được.
Cảm
tưởng sau khi đọc Báo cáo Khảo sát
Trước
hết, ta nên nhắc lại những
nguyện vọng của Ăng-ghen gửi
gắm vào phong trào xã hội chủ nghĩa trong mấy
năm cuối đời ông. Dĩ nhiên, Ăng-ghen
không thể thấy trước những
tình hình mới sau khi chủ nghĩa tư bản phát triển
thành chủ nghĩa đế quốc, càng không thể
dự kiến được việc
Thế chiến I đã làm cho trọng điểm phong trào XHCN chuyển từ
Tây Âu đến nước Nga và phương Đông
lạc hậu về kinh tế.
Sau Cách mạng Tháng Muời Nga, nhiều người đặt
hy vọng vào cách mạng XHCN ở Tây Âu. Khi làn sóng cách mạng đó bị lắng xuống,
vấn đề cách mạng XHCN của các nước tư bản
Tây Âu nên đi con đường
nào lại trở nên một vấn
đề thời sự. Phong trào không thể dừng
lại, nhưng rõ ràng, đường
lối thì có khác với đường lối
của Cách mạng Tháng Muời Nga.
Chúng ta có đầy đủ lý do để nhớ lại một sách lược
quan trọng do Ăng-ghen đề ra
năm 1894 — cho rằng giai cấp
công nhân nên “sử dụng
quyền bầu cử làm một
vũ khí mới của
giai cấp công nhân” và nhấn mạnh “giành quyền bầu cử,
giành dân chủ là một
trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của
giai cấp vô sản
chiến đấu”
— sách lược này vẫn
thích hợp với
nhu cầu của
giai cấp công nhân đang chiến đấu
trong các nước tư bản
Tây Âu thời kỳ sau Thế
chiến I. Sau thắng
lợi của
Cách mạng Tháng Muời
Nga, trên thế giới
hình thành sự đối lập gay gắt
giữa chủ
nghĩa tư bản với chủ
nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, dĩ nhiên các đảng XHDC ở
các nước tư bản sẽ gặp nhiều
trắc trở phức tạp
trong quá trình vận dụng
sách lược đó; điểm
này tôi đã trình bày ở phần
trên. Thế nhưng,
phong trào chủ
nghĩa xã hội dân chủ ở Thụy
Điển cùng các thành tựu của nó — như Báo cáo Khảo
sát đã giới thiệu với chúng ta — ít nhất
cũng cho thấy việc vận dụng
sách lược nói trên vào các nước tư bản Tây Âu không phải
là không thu được
thành tích nào. Do đó, giờ đây ngoài việc
quan tâm đến những
kinh nghiệm tự
thân về CNXH mà chúng ta thu được
(gồm kiểm tra, tổng kết và cải
cách tự thân), đồng thời ta cũng nên có thái độ khoa học,
khiêm tốn khảo sát tình hình phong trào
XHCN phương Tây cùng các
thành quả
của nó (gồm cả thất
bại và thành công). Hai
loại kinh nghiệm này, do tình hình mỗi nước và điều
kiện lịch sử khác nhau, cố
nhiên có những cái không
thể so sánh được, song cũng có một số điểm
nào đó có thể so sánh được hoặc có thể
tham chiếu được.
Về
vấn đề này, thực ra bản thân Báo cáo Khảo
sát đã ghi chép lại các
suy nghĩ và cảm tưởng của người
khảo sát. Nay xin trích
dẫn như sau:
“Qua chuyến
thăm này, chúng tôi đã hiểu
biết tương đối nhiều và tương
đối
sâu về tình hình của đảng XHDC Thụy
Điển (và đảng Xã hội Áo), mọi người đều
cảm thấy thu hoạch rất lớn.
Thế nhưng, rốt cuộc
thì CNXH kiểu Thụy Điển và CNXH kiểu
Liên Xô có gì giống nhau
và khác nhau? Rốt cuộc nên phân tích và nhận thức như
thế nào về mối quan hệ
giữa Quốc tế II với
Quốc tế III, giữa chủ nghĩa xét lại
với chủ nghĩa Lê-nin, và giữa đảng Xã hội
kiểu Thụy Điển với
đảng Cộng sản kiểu
Liên Xô, thì chúng tôi cảm
thấy có chút khó hiểu. Bởi thế,
hồi đó, sau khi thăm Thụy Điển, trên đường
về nước nhân ghé qua Paris, chúng
tôi đã tổ chức một cuộc
toạ đàm, có mời vài đồng chí trong đại sứ quán Trung Quốc
tại Pháp cùng dự. Từ các phát biểu
trong và ngoài toạ đàm,
có thể nhận thấy có hai loại
cách nói và cảm tưởng đối với
các vấn đề nêu trên. Thật bất ngờ,
hai loại ý kiến này không hẹn mà lại trùng hợp
nhau; cho đến nay tôi vẫn cho rằng đó là những ý kiến rất đáng để
chúng ta suy nghĩ sâu sắc
và tham khảo.
“Một
loại cảm tưởng cho rằng,
đường lối cách mạng, phương châm và phương
pháp cách
mạng mà lý luận của Quốc
tế II và lý luận của Quốc
tế III cũng như đảng Xã hội kiểu Thụy
Điển và đảng Cộng sản
kiểu Liên Xô đã tuân
theo, đều là đúng, hoặc là có lý lẽ cả; sự
khác biệt giữa hai bên chủ yếu là do tình hình trong nước của
mỗi bên không giống nhau.
Quốc
tế II và đảng Xã hội về cơ
bản đại diện cho các nước
tương đối phát
triển về xã hội và kinh tế
thời đó. Các nước này đã xây dựng được chế
độ bầu cử dân chủ;
mỗi chính đảng đều có thể
qua bầu cử mà nắm được
đa số trong nghị viện, rồi
quá độ hoà bình lên nắm chính quyền, từ đó thực
thi cương lĩnh và chính
sách của
đảng mình. Sau thập kỷ 20 thế
kỷ XX, đảng Xã hội (hoặc đảng
Xã hội dân chủ, Công đảng) ở phần
lớn các nước châu Âu đều lên nắm chính quyền thông qua hình thức bầu cử
dân chủ, thậm chí nắm chính quyền khá lâu, và thực thi các loại chính sách cải cách xã hội; tác dụng của các đảng
này trong việc thúc đẩy sự cải
lương và phát triển kinh tế
xã hội thậm chí cả chế độ
chính trị ở các nước đó, là không thể
bỏ qua, và là sự chứng minh hùng hồn
nhất.
Quốc
tế III và đảng Cộng sản
về cơ bản đại
diện cho một số nước
kinh tế xã hội tương đối lạc hậu
hồi đó. Những nước này không những
chưa xây dựng
được chế độ bầu
cử dân chủ, mà hơn nữa,
bọn phản động nắm
chính quyền được vũ trang tận răng lại có quyền tự do đàn áp các lực
lượng cách mạng. Tại các nước
này, nếu không tiến hành đấu tranh vũ trang thì không thể nào lật đổ
được ách thống trị của
bọn phản động, không thể
giành được chính quyền, củng cố
chính quyền và thực thi cương lĩnh
và chính
sách XHCN. Nhưng
đối
với các nước đó, về tư tưởng
chỉ đạo, có một điểm cần
phải làm hết sức rõ: biện
pháp đấu tranh vũ trang
để cướp chính quyền chỉ có tác dụng
“bà đỡ” đối với CNXH; đánh giá theo tiêu chuẩn và yêu cầu của CNXH Mác-xít thì trên thực tế các nước
này lại chưa “đạt yêu cầu” trên hai mặt cực kỳ quan trọng
sau đây: (1) CNXH yêu cầu phát triển cao độ trình độ sức sản
xuất; (2) CNXH yêu cầu
phải có nền pháp chế dân chủ hoàn thiện. Bởi vậy
sau khi chính quyền XHCN
ra đời dưới sự “đỡ
đẻ” của biện pháp đấu
tranh vũ trang, phải hạ quyết tâm tranh thủ
“học bù” hai bài học này (đây chính là nguyên
nhân Trung Quốc tự xác định mình còn đang ở
trong “giai đoạn sơ cấp của
CNXH”; nhiệm vụ của giai đoạn
này là để “học bù” hai bài học nói trên, nhằm chuẩn bị
điều kiện xây dựng thành công CNXH thực sự — ghi chú của
Ngô Giang).
Nếu
có thể nhận thức như
vậy về vấn đề
này, thì sau khi cách mạng
thành công, xây dựng được chính quyền mới rồi,
trừ phi đất nước bị
xâm lược, nếu không, phải tranh thủ thời cơ
tập trung lực lượng học
thật nhanh thật tốt hai bài “học
bù” này, dựa vào tính ưu việt của
chế độ XHCN sẽ có khả năng nhanh chóng đẩy mạnh
phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, đuổi kịp
trình độ của các nước phát triển, xây dựng thành công CNXH thật sự. Nếu
không nhận thức vấn đề
như vậy, mà cứ chủ quan cho rằng
chỉ cần qua đấu tranh vũ trang xây dựng chính quyền mới thì mình đã là một
nước XHCN “đủ tiêu chuẩn” rồi; ai không đồng
ý với ý kiến đó, hoặc tỏ ý nghi ngờ
gì, thì thẳng tay kiên
quyết loại bỏ, đả
kích thậm chí đàn áp họ. Như vậy
không những rất khó xây dựng thành công CNXH “đủ tiêu chuẩn” thật sự,
hơn thế còn có thể trở thành một
thứ chủ nghĩa cực quyền kiểu
phong kiến nửa phong kiến, như Liên Xô thời kỳ
Stalin trước đây. Cuối cùng, không những không xây dựng thành công CNXH chân
chính, mà còn bị quảng đại quần
chúng và cán bộ phản đối, thậm
chí vứt bỏ.
Một
loại cảm tưởng khác cho rằng,
mối quan hệ giữa Quốc
tế III với Quốc tế
II, giữa đảng Cộng sản
kiểu Liên Xô với đảng Xã hội
kiểu Thụy Điển thì giống
như mối quan hệ giữa đạo
Thiên chúa với đạo Tin lành,[10] “tổ tiên” của cả hai đều
là một nhà. Chẳng qua, Quốc tế III và đảng
Cộng sản kiểu Liên Xô chủ
trương kiên trì tiến
hành mọi cái theo nguyên
văn lời của “tổ tiên” không sai một
chữ (cách nói này có thể bàn lại: làm cách mạng
XHCN tại các nước kinh tế lạc hậu
thực ra đúng là không
theo nguyên văn lời của “tổ tiên”; cái gọi
là khuynh hướng thuyết độc tôn giáo lý cơ
bản[11] thì thể hiện ở
một mặt khác. — Ghi chú của Ngô Giang), không được vượt qua, có chút giống
như thuyết độc tôn giáo lý cơ
bản người ta thường nói. Còn Quốc tế II và đảng
Xã hội kiểu Thụy Điển
thì chủ trương tiến cùng thời
đại, căn cứ theo sự phát triển của thời
đại và sự biến đổi
của xã hội mà không ngừng cải cách đổi
mới, nhằm tạo thuận
lợi cho việc mở rộng
và thực thi ảnh hưởng và chủ
trương của lý luận do “tổ tiên” đề xướng, từ
đó giành được thắng lợi lớn
hơn.”
Ngày nay, xem ra hai mô hình tiến lên chủ nghĩa xã hội nói trên đều có tính tất nhiên và tính chính đáng lịch sử. Còn nói về
việc nhìn nhận hai mô hình đó và mối quan hệ giữa chúng với
nhau, thì đây là một vấn đề nên xem xét thận
trọng và nghiên cứu kỹ. Mong rằng
trên vấn đề này sẽ nhận
được nhiều cao kiến của các bạn
đọc.
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/06/04/chu-nghia-xa-hoi-thuy-dien-p2/#sthash.1802Q9Sv.dpuf
Ngô Giang (TQ)
----------
Nguồn:
Khảo sát về chủ nghĩa xã hội
kiểu Thụy Điển: Nhân đọc
“Một bản báo cáo khảo sát đến muộn”, Chủ
nghĩa Mác và Hiện thực số tháng 3/2002, Tạp
chí hai tháng một kỳ, tiếng Trung Quốc. Cơ quan chủ
trì tạp chí: Cục Biên dịch thuộc Trung ương
Đảng
CSTQ.
Tác giả
Ngô Giang là giáo sư,
nguyên Viện
trưởng Học viện Chủ
nghĩa xã hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc.
Báo cáo mà tác giả đề
cập là của Dương Khải
Tiên, được viết sau chuyến khảo sát Thụy
Điển hồi những năm 1980, khi Liên Xô còn đang vững mạnh.
Nguyễn
Hải Hoành lược dịch và làm toàn bộ
các chú thích ở cuối trang và trong ngoặc.
----------
[7] Ferdinand Lassalle (1825-1864), người Đức, nhà văn, người
tuyên truyền cổ động cho công nhân, thuộc giai cấp
tiểu tư sản; tham gia Cách mạng
1848-1849, quen biết Mác
và Ang-ghen từ đó (trao
đổi thư từ cho đến
1862); thành lập Hội Công nhân toàn Đức (1863) và là Chủ tịch Hội,
bằng việc đó, ông đã đáp ứng nguyện vọng của
các công nhân tiến bộ muốn tách khỏi
giai cấp tư sản tự
do về mặt tổ chức.
Hệ tư tưởng “CNXH nhà nước
quân chủ Phổ” đã dẫn Lassalle tới
chỗ liên minh với Bismarck, do đó bị Mác phê phán. ( theo Sđd3).
[8] Năm 2001, thành phần tư nhân chiếm 90% giá trị sản xuất
công nghiệp (theo Sđd2).
[9] Số
liệu năm 1992 : 10% số người có thu nhập
thấp nhất chiếm 3,7% tổng
thu nhập toàn quốc, 10% số người có thu nhập
cao nhất chiếm 20,1%. Nghĩa là chênh lệch giầu nghèo khá nhỏ
so với các nước khác : chỉ số này ở
Pháp là 2,5 và 24,9% (1989); ở
Mỹ là 1,5 và 28,5%
(1994); ở Trung quốc là 2,2 và 30,9% (1995).
(theo Sđd2).
[10] Nguyên văn chữ Hán là Ki Tô Giáo. Chú ý: Trung quốc
quen dùng Ki Tô Giáo để
chỉ Tân Giáo (tức đạo Tin lành, tiếng
Anh là Protestantism). Đạo
Thiên chúa (còn gọi Công
giáo): Roman Catholic.
[11] Fundamentalism (chủ nghĩa tin theo các ghi chép
trong Kinh Thánh, phủ định Thuyết Tiến hoá và các học
thuyết hiện đại khác). TQ dịch
là chủ nghĩa cơ yếu hoặc
chủ nghĩa nguyên giáo chỉ.
Thủ tướng Pan-mơ là người tôi rất quý mến vì là biểu tượng của Thụy Điển trong thời kỳ chiến tranh VN. Thụy Điển đã giúp đỡ VN một cách vô tư về mặt tinh thần và vật chất. Tuy không phải cùng phe XHCN nhưng Thụy Điển là 1 trong những nước phương Tây đi đầu trong phong trào chống chiến tranh và là tấm gương ủng hộ VN chống lại Mỹ và những nước đi theo con đường đối đầu bằng "chiến tranh lạnh" và gây ra những cuộc xung đột/khủng hoảng trên thế giới.
ReplyDelete