Lời
giới thiệu của dịch
giả: Từ lâu nhiều người chúng ta đã quan tâm tới vấn
đề Việt Nam nên theo mô hình CNXH
nào? Năm 1981 cụ Phạm Văn Đồng từng nói: “Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi thấy ta không theo được Mô hình Xô Viết” (xem “Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm”, tr. 923, Trần Quốc Vượng).
Lại nghe nói ông Vũ Oanh
(nguyên UV BCT) có đề
nghị nghiên cứu về mô hình CNXH Thụy
Điển. Người Trung Quốc đã nghiên cứu nhiều, từ
năm 2002 họ bắt đầu cho công khai đăng một loạt
bài về mô hình này. Đảng CSTQ từ những năm 1980 đã cử
các đoàn cán bộ sang Thụy Điển khảo
sát và do đó có bài giới
thiệu sau đây. Sau đó
năm 2008 Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào chính thức thăm Thụy Điển. Hồi
đó có dư luận Trung Quốc sẽ theo mô hình CNXH Thụy Điển.
Nhưng cuối cùng thì phe phản đối đã thắng
với lý do chủ yếu là làm như
thế thì ĐCSTQ sẽ mất quyền
lãnh đạo đất nước – đây là quyền
lợi sống chết không thể
để mất. Tuy nhiên, dù mô hình CNXH
Thụy Điển vì thế vẫn là vấn
đề “nhạy cảm”, nhưng
là một
thực tế cần được
bàn đến vì lợi ích của dân tộc.
Vương
quốc Thụy Điển nằm
ở đông nam bán đảo Scandinavia thuộc Bắc Âu. Vào năm 1889, khi thành lập Đảng Xã hội
Dân chủ Thụy Điển,[1] vương
quốc này còn là một trong những nước lạc
hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của
cướp biển, phần lớn
dân vốn là cướp biển và tội
phạm bị các nước Tây Âu đày đến
đây cùng các hậu duệ của họ.
Kinh tế Thụy Điển ngày ấy
còn lạc hậu rất nhiều
so với nước Nga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xã hội Dân chủ (XHDC) Thụy Điển bắt
đầu nắm chính quyền cho tới nay, tuy có một số thời
kỳ gián đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền
lãnh đạo đất nước lâu hơn
cả. Trong thời gian đó (từ thập kỷ
20 đến thập kỷ 80, là thời
gian được tác giả khảo sát), Đảng
XHDC đã xây dựng Thụy Điển từ
một nước lạc hậu
trở thành một nước kinh tế
phát triển,[2] đứng thứ hai trên thế
giới về GDP đầu người
(sau Thụy Sĩ); và thứ nhất thế
giới về phúc lợi xã hội, chứng
tỏ sự xã hội hoá phân phối
đã đạt trình độ rất cao.
Trên đây là tóm tắt
nội dung chính của bài “Một số điểm
chính trong bản Báo cáo
khảo sát đến muộn” (sau đây viết
tắt là Báo cáo Khảo sát). Tác giả báo cáo này là đồng chí Dương Khải Tiên, năm 1985 và 1988 từng hai lần đến Thụy
Điển tiến hành khảo sát. Thu hoạch tổng quát của
tác giả là: “Đối với chủ
nghĩa xã hội (CNXH) kiểu Thụy Điển,
nhiều năm qua, chúng ta
chẳng những luôn luôn cho là đối lập với
quan điểm chính thống, giữ thái độ
phê phán nghiêm khắc, mà
thậm chí cho tới ngày nay, trong suy nghĩ của mọi người
nói chung vẫn khẳng định thì ít mà phủ
định thì nhiều. Thực ra, như
vậy là không công bằng. Nếu phân tích một
cách thực sự cầu thị,
ta sẽ không khó phát hiện thấy: ngoài những
vấn đề chính trị còn tranh cãi, tạm thời chưa
thể đưa ra một kết
luận đa số chúng ta có thể đồng ý, thì thành tích của Thụy
Điển về kinh tế là rất lớn,
xét về những gì mà CNXH của Mác [Karl Marx] yêu cầu phải có, dù là về
mặt thúc đẩy sản xuất
phát triển, nâng cao đời sống của
nhân dân, hoặc là về mặt thực
hiện công bằng xã hội, phân phối công bằng, bảo đảm
quyền lợi nên có của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.”
Bài Báo cáo Khảo
sát này được đăng tải trên một tạp chí có số
lượng phát hành nhỏ, và đầu đề
ghi rõ là “đến muộn” (khảo sát vào thập
kỷ 80 thế kỷ XX mà đến
tháng 3/2002 mới được sửa chữa
cho đăng). Điều đó nói
lên, cho tới nay, vấn đề tiến
lên mô hình CNXH kiểu Thụy Điển vẫn
là một đề tài nhạy cảm. Theo tôi, Báo cáo Khảo sát đã đăng báo rồi, hơn
nữa ngày nay xem ra vấn đề này thực
sự không cần phải né tránh; thế
thì ta hoàn toàn có thể
thảo luận và bình phẩm bài báo đó một cách công bằng ngay thẳng, thực sự
cầu thị, nhất là về
mặt lý luận.
Bối cảnh lịch sử
và phác thảo lý luận về hai mô hình tiến
lên chủ nghĩa xã hội
Về lý
luận, trước hết hãy nên bắt
đầu nói về tình hình từ cách mạng Pháp 1848 – 1850 cho tới sau Công xã Paris. Như vậy, chúng ta sẽ
phải ra ngoài đề một chút, sau đó mới
trở lại vấn đề
mô hình CNXH Thụy Điển.
Trong một
thời gian rất dài sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các nhà lý luận Liên Xô bao giờ cũng đề cao quá mức Công xã Paris, coi nó là
hình mẫu cách mạng XHCN của giai cấp vô sản. Thực
ra không phải là như vậy. Trong một
thời gian sau năm 1848,
đúng là Mác và Ăng-ghen [Friedrich Engels] từng
cho rằng đã xuất hiện tình thế
cách mạng trong các nước phương Tây chủ yếu, do đó hai vị
đã tích cực hoạt động vì sự
nghiệp cách mạng này. Nhưng qua thất bại của
cách mạng Pháp 1848-1850
và sau thực tế là các nước tư bản
mấy lần bình yên vượt qua khủng hoảng kinh tế,
sức sản xuất vẫn
được phát triển khá, Mác và Ăng-ghen bắt đầu cảm
thấy sự việc không như
những gì hai vị đã dự kiến
ban đầu, thời cơ cách mạng vẫn còn chưa
chín muồi.
Năm 1850, khi tổng
kết kinh nghiệm cách mạng Pháp, Mác đã chỉ rõ: “Khi sức sản xuất
xã hội của giai cấp tư sản
đang phát triển mạnh với tốc
độ có thể đạt được
trong toàn bộ phạm vi quan hệ của giai cấp
tư sản, thì chưa thể nói gì đến
một cuộc cách mạng thực sự.”
Trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ năm 1871, giai cấp công nhân Paris nhân cơ hội đánh trả
bọn xâm lược và chống hành vi đầu hàng của giai cấp tư sản,
đã vùng lên khởi nghĩa
và áp dụng các biện pháp có tính chất XHCN (hai phái lãnh đạo chính cuộc khởi nghĩa này là phái Lat-xan và phái Pơ-ru-đông).[3]
Khi đó Mác
không tán
thành cuộc
khởi nghĩa này, cho rằng thời cơ
chưa chín muồi.
Nhưng sau khi công nhân Paris phát động khởi nghĩa rồi thì Mác không dội gáo nước lạnh lên họ,
mà nhiệt tình ủng hộ và ca ngợi
tinh thần dũng cảm của thợ
thuyền Pháp, cho rằng Công xã Paris của giai cấp công nhân Pháp là người tiên phong vẻ vang của xã hội mới,
sẽ mãi mãi được kính trọng. Đồng thời,
Mác còn tổng kết sâu sắc các bài học kinh nghiệm của cuộc
cách mạng công nhân đầu tiên này, đề ra không ít ý kiến chỉ đạo
có ý nghĩa quan trọng.
Cần vạch rõ là, khi tổng kết kinh nghiệm
Công xã Paris, Mác từng
nói một câu: “Không phải là giai cấp công nhân muốn thực hiện
một lý tưởng gì, mà chỉ muốn giải
phóng những nhân tố xã hội mới
được ươm trồng trong chính cái xã hội của
giai cấp tư sản đang sụp
đổ.” Điều này cũng có nghĩa là thời cơ cách mạng của giai cấp
công nhân đã chín muồi
chưa, hoặc có thể thực hiện
được xã hội XHCN hay không, vấn đề này hoàn toàn được
quyết định bởi các nhân tố
xã hội mới được uơm
trồng trong xã hội tư sản
(chủ yếu là sự phát triển
cao của sức sản xuất,
dân chủ hoá nền chính trị xã hội và toàn bộ
nền văn minh đạt tới trình độ
cần thiết).
Sau Công xã Paris, Mác tập
trung sức lực chủ yếu
vào việc hoàn thành bộ “Tư bản”
và tiếp tục nghiên cứu lịch sử
phát triển xã hội loài người. Phần lớn
nhiệm vụ chỉ đạo
thực tế phong trào cách mạng là do Ăng-ghen đảm nhiệm. Năm 1883, Mác từ
trần. Trách nhiệm của Ăng-ghen càng nặng
hơn. Không nghi ngờ
gì nữa, “Chủ nghĩa Mác”, mà cho tới nay ta vẫn nói, là do Mác và Ăng-ghen
cùng sáng lập nên. Sau
Cách mạng Tháng Muời và sau khi Lê-nin qua đời, chúng ta lại tiếp thu từ
Liên Xô cách nói “Chủ
nghĩa Mác – Lê-nin”. Cách nói này thực
tế làm mờ nhạt vai trò của
Ăng-ghen (tuy không phủ
định Ăng-ghen). Tôi cho
rằng, nếu Lê-nin còn sống cũng không thể tiếp thu cách nói ấy.
Tác giả Báo cáo Khảo sát cho chúng ta biết, tác giả đã nghe thấy cách nói “Chủ nghĩa Mác Ăng-ghen” từ chính miệng những người
của Đảng XHDC Thụy Điển. Tôi cho rằng
cách nói đó là phù hợp với sự thật
lịch sử. Không bao giờ được tách rời
Mác và Ăng-ghen kia mà! “Chủ
nghĩa Lê-nin” là một
chuyện khác, vấn đề này ta sẽ
bàn sau. Điều cần nói ở đây là, sau khi Mác qua đời, Ăng-ghen đã quán triệt chủ trương
cách mạng
của hai người vào phong trào công nhân
quốc tế như thế
nào. Đây là trang sử rực rỡ nhất
trong cuộc đời Ăng-ghen. Trong những năm cuối đời, Ăng-ghen luôn gắn
mình với số phận của
phong trào xã hội dân chủ quốc tế.
Như bạn tôi là ông Từ Lâm viết trong cuốn sách ông chủ biên Ăng-ghen và thời đại hiện
nay, sau khi Công xã Paris 1871 thất
bại, phong trào công
nhân quốc tế từng có thời
gian rơi vào thoái trào,
tới cuối thập kỷ
1870, đầu thập kỷ 1880 phong trào này mới bắt
đầu hoạt động hăng hái, chủ
nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi. Trên cơ
sở đó, nhiều nước Âu Mỹ
như Đan-mạch,
Bỉ, Tây-ban-nha, Hà-lan,
Ý, Na-uy, Áo, Thụy Điển, Hung-ga-ri, Đức, Pháp, Anh, Mỹ v.v… lần lượt thành lập
các chính đảng công
nhân. Lúc đó, các đảng này
phần lớn lấy tên là đảng
Xã hội dân chủ, đảng Xã hội
hoặc đảng Công nhân (Công đảng), mà không lấy tên là đảng Cộng sản.
Điều này có liên quan với quan điểm của Ăng-ghen. Trong một bức
thư gửi cho bạn vào tháng 2.1894, Ăng-ghen
viết: “Tôi cho rằng từ Chủ
nghĩa Cộng sản hiện nay không thích hợp sử
dụng phổ biến. Tốt
nhất là lưu nó lại cho tới khi nào cần phải có sự
biểu đạt một cách chính xác hơn
hãy dùng.
Cho dù tới
lúc đó cũng cần phải chú thích thêm, vì trên thực tế, đã 30 năm nay không dùng từ này.”
Vấn đề trên có một chút lai lịch, nay nhắc lại là không thừa.
Tháng 7/1898, dưới sự đề xướng
của Ăng-ghen, đảng XHDC Đức và đảng Công nhân Pháp đã triệu tập
các đảng công nhân của 22 nước tham gia đại
hội đại biểu những
người XHCN quốc tế. Đó chính là tổ
chức về sau được người
ta gọi là “Quốc tế thứ
II“. Thật ra tổ chức này rất
lỏng lẻo, không lập ra bất cứ
cơ quan lãnh đạo
nào (trước đó, Hiệp hội Công nhân quốc
tế về sau được gọi
là “Quốc tế thứ I” có lập
một Uỷ ban chung), ngay cả quy chế họp định
kỳ cũng không có. Các đảng
dự đại hội xác nhận
lấy học thuyết Mác Ăng-ghen làm cơ sở
tư tưởng, nhưng tiến hành hoạt
động một cách độc lập tự
chủ.
Nói đến
tư tưởng chỉ đạo
ngày ấy, không thể không nhắc tới bài viết
năm 1894 của Ăng-ghen (một năm trước ngày qua đời) “Lời nói đầu
cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ
năm 1848 đến năm 1850 của Các Mác”. Khi đề cập tới
các sai lầm của Mác và Ăng-ghen trong dự kiến tình hình cách mạng
từ 1848 trở đi, bài này viết: “Lịch sử
cho thấy chúng tôi cũng
từng sai lầm, để lộ
ra cách nhìn của chúng
tôi lúc đó chỉ là ảo tưởng.” “Lịch
sử thể hiện rõ là tình trạng
phát triển kinh tế ở đại
lục châu Âu ngày ấy còn xa mới chín muồi tới trình độ
có thể quét sạch nền sản
xuất tư bản”, chủ
nghĩa tư bản “còn có khả năng phát triển rất lớn”.
Căn cứ vào điều kiện lúc đó, đặc
biệt là kinh nghiệm mới nhất
của đảng XHDC Đức, Ăng-ghen đã suy xét lại sách lược đấu tranh của
giai cấp công nhân, nhấn mạnh đề
ra chủ trương giai cấp công nhân nên lấy việc sử
dụng quyền bỏ phiếu
bầu cử làm “vũ khí mới – một trong những
thứ vũ khí sắc bén nhất”, và nói rõ: “Từ lâu, Tuyên ngôn của đảng Cộng
sản từng tuyên bố, giành lấy quyền bỏ
phiếu, giành dân chủ, là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giai cấp
vô sản chiến đấu.” Đồng
thời tuyên bố các đồng chí chúng ta tuyệt đối
không vì thế mà “vứt bỏ quyền
làm cách mạng (Ang-ghen
nói rõ: dĩ nhiên, điều
đó bao gồm quyền làm cách mạng bạo lực
— chú thích của Ngô
Giang). Cần biết rằng, quyền
làm cách mạng bao giờ cũng là “quyền lợi lịch
sử” chân chính duy nhất.”
Sau khi Ăng-ghen qua đời,
Lip-nếch,[4] một nhà lãnh đạo đảng XHDC Đức
đánh giá Ăng-ghen như
sau: “Người
vừa là người chỉ đường,
lại là người dẫn đường,
vừa là lãnh tụ, vừa là chiến
sĩ. Ở Người thể hiện
sự kết hợp lý luận
với thực tiễn.” Lịch
sử chứng minh sự đánh giá này là hoàn toàn
công bằng.
Mấy
chục năm trước và sau ngày Ăng-ghen qua đời, thế giới
tư bản ở vào thời
kỳ phát triển bình ổn. Phần lớn
các đảng công nhân Âu Mỹ đều hoạt
động công khai, có thể ra sức lợi
dụng vũ khí bỏ phiếu bầu
cử. Bước sang thế kỷ XX, chủ
nghĩa tư bản lại rơi
vào cuộc
khủng hoảng mới, dẫn
đến Thế chiến I. Cuộc
chiến tranh này làm cho
Quốc tế II bị chia rẽ
mạnh – xuất hiện sự
đối lập của hai phái, gọi
là phái “bảo vệ tổ quốc”
và phái “biến chiến tranh đế quốc thành chiến
tranh cách mạng”. Lê-nin
đề xuất chủ trương
của phái thứ hai. Khi đó, ngoài nước Nga dưới sự lãnh đạo
của Lê-nin đã tiến hành thắng lợi cuộc
Cách mạng Tháng Mười ra, các nước (hoặc vùng) Phần-lan,
Đức, Áo, Hung, Italy
cũng lần lượt bùng nổ cách mạng và giành được thắng lợi
tạm thời, cục bộ,
nhưng cuối cùng đều thất bại.
Duy nhất chỉ có cách mạng XHCN Nga thành công. Do đó
sinh ra tên gọi “chủ nghĩa Lê-nin” (việc này xảy ra sau khi Lê-nin qua đời), và có sự đối lập giữa “Quốc
tế II” và Quốc tế III”. Từ
đó có hai phái là phái “chủ nghĩa Lê-nin” và phái “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Kèm theo, xuất hiện hai loại
mô hình tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở
đây, ta không bàn về sự đấu tranh giữa
hai phái trên (trong đó, chống
chủ nghĩa xét lại là một nội
dung chính), cũng không bàn về
thành tích hoặc thất bại và các bài học
kinh nghiêm của CNXH ở Liên xô và các nước XHCN khác cùng mô hình.
Chúng tôi chỉ muốn nói khái quát về phong trào xã hội dân chủ ở Tây Âu, và cũng chỉ nói rất
vắn tắt (vì ở đây cũng không bàn riêng vấn đề này, vấn
đề đó cần một bài viết
khác). Sau Thế chiến I, năm 1919, thành lập “Quốc tế
III” (tức Quốc tế Cộng
sản); năm 1923, “Quốc tế II” khôi phục
hoạt động, và đổi tên là “Quốc tế đảng
Xã hội”.[5] Từ đó trở đi, trong phong trào công nhân Tây Âu hình
thành sự đối lập giữa
hai thế lực nói trên (tức giữa một
bên là các đảng Cộng sản với
một bên là các đảng XHDC và các đảng Xã hội), nhưng ưu
thế và ảnh hưởng chủ
yếu là ở phía các đảng XHDC và đảng Xã hội, vì các đảng này không những chỉ lôi kéo được
tuyệt đại đa số công nhân, mà lý luận và hoạt
động của họ tương
đối
hợp với tâm lý của quảng đại
các tầng lớp trung gian và trí thức ở các nước
tư bản; giai cấp tư sản
cũng tương đối có
thể tiếp thu.
Ở
đây, ta chưa nói về
tình hình phức tạp vừa đấu
tranh vừa hợp tác giữa hai thế lực nói trên (trong thời gian chiến
tranh chống phát-xít, hợp tác là chủ yếu), mà chính bản
thân các đảng tham gia
phong trào xã hội dân chủ trong phạm vi của Quốc
tế Xã hội (các đảng XHDC và các đảng Xã hội) cũng rất phức tạp.
Chủ trương của các đảng
này không hoàn toàn nhất
trí với nhau, ngoại trừ việc
tất cả đều phủ
định cách mạng bạo lực
và nói chung đều tiếp thu CNXH dân chủ. Lúc đầu, nhìn chung còn tuân theo cương lĩnh
của đảng XHDC Đức được soạn
thảo dưới sự chỉ
đạo của Ăng-ghen năm 1889, khi
thành lập Quốc tế II. Về
sau thì mỗi đảng đi một đường: có đảng
tương đối cấp tiến; có đảng
tương đối ôn
hoà; có đảng tiếp tục giương
ngọn cờ chủ nghĩa Mác; có đảng
lại vứt bỏ ngọn
cờ này mà chủ trương đa nguyên hoá tư
tưởng chỉ đạo (trong đó có cả
chủ nghĩa Mác), và chủ trương tư
tưởng XHCN bắt nguồn từ
nhiều con đường; có đảng vẫn coi mình là chính đảng của
giai cấp công nhân, có đảng lại nói mình là đảng
của nhân dân hoặc đảng của
dân tộc; có đảng chủ trương
hợp tác với đảng cộng
sản trong nước mình; có đảng lại phản
đối sự hợp tác đó, v.v… Một
số đảng đã không dưới một lần
cải tổ hoặc xây dựng
lại, về khuynh hướng, cũng trước sau khác nhau. Nhưng nói tổng quát, bản tuyên ngôn công bố năm 1951, khi Quốc tế Xã hội[6]
tổ chức lại, về
đại thể có thể coi là một
khuynh hướng có tính
tiêu biểu.
Tuyên ngôn này viết:
“Dù là người của đảng Xã hội
xây dựng niềm tin của mình theo phương pháp
phân tích
xã hội
của chủ nghĩa Mác, hoặc theo các phương pháp
khác, dù là họ tiếp nhận sự
gợi ý của nguyên tắc tôn giáo hoặc của nguyên tắc
nhân đạo, tất cả họ
đều phấn đấu vì mục
tiêu chung. Mục tiêu đó
là một chế độ phân phối
xã hội công bằng, đời sống
tốt đẹp, tự do và thế
giới hoà bình.” Ở đây chưa viết rõ mục
tiêu phấn đấu là chủ nghĩa xã hội, thế nhưng
“Tuyên
ngôn thành
lập Quốc tế xã hội”
hồi thập kỷ 20 thế
kỷ XX từng khẳng định
mục tiêu này, và nói rõ:
“Mục đích của chủ nghĩa xã hội
là giải phóng mọi người ra khỏi
sự lệ thuộc vào một
thiểu số người chiếm
hữu hoặc kiểm soát tư
liệu sản xuất. Mục
đích của nó là giao quyền kinh tế cho toàn thể nhân dân, tiến tới xây dựng
một xã hội khiến cho mọi
con người tự do đều có thể,
với địa vị bình đẳng,
cùng làm việc với nhau trong xã hội.”
Cho nên, nhìn chung, phải
chăng có thể nói là:
phong trào CNXH dân chủ
Tây Âu (hoặc gọi là “phong trào xã hội dân chủ”, đều như
nhau) hiện đang tìm kiếm một con đường
khác để tiến lên CNXH (khác với con đường của Cách mạng
Tháng Mười)? Hoặc nói là, phong trào này từng bước ươm
trồng các nhân tố XHCN trong cái bào thai tư bản chủ
nghĩa, để bằng cách tiệm tiến (từ
tích luỹ thay đổi về lượng
dẫn đến thay đổi về chất
từng phần, rồi đến
thay đổi về chất cuối
cùng) sáng tạo nên một hình thái mới của xã hội
XHCN? Theo tôi, có thể
nói như vậy được. Dĩ nhiên, sự
sáng tạo này thường có tính thử nghiệm, không thể
bước đều nhau hoặc có xu thế tiến lên theo đường
thẳng, mà tuỳ theo sự thay đổi tình hình hoặc biến đổi
so sánh lực lượng có thể có lặp đi lặp
lại, có lúc tiến lên, có lúc lại tụt lùi. Nhưng
có một
đặc điểm: khi đã tiến lên rồi thì dù cho lại tụt lùi, nhưng
trận địa đã chiếm được thì thường
là không bị mất toàn bộ (thí dụ: về thực
hiện chính sách phúc lợi và chế độ bảo
đảm đời sống). Ở
đây, tôi xin nêu hai thí dụ
có thể giúp nói rõ vấn đề: một
là cuộc cải cách do Công đảng Anh tiến hành năm 1945, và hai là mô
hình Thụy Điển.
Trong bài này chỉ
xin nói vài câu về cuộc cải cách (được
đảng XHDC gọi là cải cách dân chủ
xã hội chủ nghĩa) bắt đầu tiến
hành tại Anh từ 1945. Đây là cuộc cải cách cơ
cấu xã hội do Công đảng Anh lãnh đạo thực hiện
trong tình hình tư bản Tây Âu bị tàn phá nặng nề sau Thế
chiến II. Biện pháp cải cách chủ yếu là:
- Thực hành quốc hữu hoá các ngành khai thác mỏ, ngân hàng phát hành, giao thông vận tải, các doanh nghiệp cung ứng địa phương và sản xuất thép, tức đưa các ngành kinh tế này vào sở hữu nhà nước tư bản, làm cho thành phần quốc doanh trong lĩnh vực kinh tế lên tới 20%;
- Cải tiến thuế thu nhập theo một quy chế luỹ tiến khác biệt rõ ràng giữa các cấp bực, làm cho 2/5 tổng thu nhập quốc dân thông qua hình thức thu thuế được nhà nước thực hành tái phân phối;
- Thực hành quốc hữu hoá các ngành khai thác mỏ, ngân hàng phát hành, giao thông vận tải, các doanh nghiệp cung ứng địa phương và sản xuất thép, tức đưa các ngành kinh tế này vào sở hữu nhà nước tư bản, làm cho thành phần quốc doanh trong lĩnh vực kinh tế lên tới 20%;
- Cải tiến thuế thu nhập theo một quy chế luỹ tiến khác biệt rõ ràng giữa các cấp bực, làm cho 2/5 tổng thu nhập quốc dân thông qua hình thức thu thuế được nhà nước thực hành tái phân phối;
- Áp dụng
phương pháp gọi
là “phúc lợi toàn dân” nhằm
thực hành chế độ bảo
hiểm rộng
rãi ốm đau, tai nạn,
tuổi già, thương
tật, thất
nghiệp, sinh đẻ và
chết đối với tất cả mọi
người và thực
hiện chữa bệnh không mất
tiền cho toàn dân. Năm 1948, lãnh tụ Công đảng
Anh là At-li [Clement Attlee, 1883-1967] tuyên bố: nước Anh đã trở
thành “nhà nước
phúc lợi”. Từ
đó, cái tên “nhà nước
phúc lợi” bắt đầu được sử dụng
rộng rãi. Theo các tài liệu xác thực,
ngày ấy, Stalin có nói chuyện
với nhân vật phái tả của Công đảng
Anh Rat-xki, thậm chí
Stalin còn thừa nhận cuộc cải
cách này có thể là một trong những con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (do đó mà năm 1951, đảng Cộng sản
Liên xô từng giúp đỡ đảng Cộng
sản Anh soạn thảo cương
lĩnh quá độ hoà
bình). Nhưng trên mặt
khác, hoặc nói trên một mặt quan trọng
hơn, cuộc cải cách này đồng
thời lại làm ổn định
trật tự tư bản
chủ nghĩa từng bị phá tan (ghi chú: cuộc cải
cách này hồi ấy được Mỹ
kín đáo cho phép và tài trợ).
(còn nữa)
Tô Giang (TQ)
(còn nữa)
Tô Giang (TQ)
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/06/03/chu-nghia-xa-hoi-thuy-dien-p1/#sthash.jWITOlqR.dpuf
------
Nguồn:
Khảo sát về chủ nghĩa xã hội
kiểu Thụy Điển: Nhân đọc
“Một bản báo cáo khảo sát đến muộn”, Chủ
nghĩa Mác và Hiện thực số tháng 3/2002, Tạp
chí hai tháng một kỳ, tiếng Trung Quốc. Cơ quan chủ
trì tạp chí: Cục Biên dịch thuộc Trung ương
Đảng
CSTQ.
Tác giả
Ngô Giang là giáo sư,
nguyên Viện
trưởng Học viện Chủ
nghĩa xã hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc.
Báo cáo mà tác giả đề
cập là của Dương Khải
Tiên, được viết sau chuyến khảo sát Thụy
Điển hồi những năm 1980, khi Liên Xô còn đang vững mạnh.
Nguyễn
Hải Hoành lược dịch và thực hiện toàn bộ
các chú thích ở cuối trang và trong ngoặc.
------
[1] Đúng ra phải
gọi là đảng Dân chủ xã hội (tiếng
Anh: Social Democratic Party), nhưng
VN ta quen gọi là Xã hội dân chủ (theo nguyên văn âm Hán-Việt theo cách dịch của TQ). Từ
điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học
(NXB Tiến bộ Matxcơva và NXB Sự thật Hà Nội,
1986) dùng “chủ nghĩa
dân chủ xã hội”, nhưng có chỗ dùng “đảng Xã hội dân chủ”, có chỗ dùng “đảng Dân chủ xã hội”. Đảng
XHDC Thuỵ Điển chiếm 36,5% số
đại biểu Quốc hội
khoá bầu 9.1998; hiện Chủ tịch
Đảng là ông Goran Persson
đồng thời làm Thủ tướng chính phủ.
(Trong bài này, toàn bộ
các chú thích ở cuối trang và chú thích trong dấu [ ] đều là của người
dịch).
[2] Số
liệu năm 2001 về Thụy-điển
: 449.964 km2; 8,875 triệu
dân. Kinh tế năm 2000
tăng trưởng 4,3%. Năm
2000, GDP tính theo sức
mua : 197 tỷ USD; GDP đầu người : 22.200 USD (so với 4000 USD của
Nga năm 1998). Nông nghiệp
chiếm 2,2% GDP, công
nghiệp 27,9%, dịch vụ 69,9%. Xuất
khẩu 95,5 tỷ, nhập khẩu
80 tỷ USD. Tỷ lệ lạm
phát 1,2%, tỷ lệ thất nghiệp
6%. Ngân sách : thu 133 tỷ,
chi 125,2 tỷ USD. Viện trợ ODA cho nước
ngoài 1,7 tỷ USD (1999).
Tuổi thọ trung bình 79,71 năm. Năm
1998 có 6 triệu điện thoại và 3,8 triệu
điện thoại di động; 8,25 triệu
radio và 4,6 triệu tivi,
Năm 2000 có 4,5 triệu người dùng Internet. CIA Mỹ nhận định:
Thuỵ Điển là nước “đạt
được mức sống cao dưới
chế độ chính trị kết hợp
chủ nghĩa tư bản công nghệ
cao với chế độ phúc lợi
cao” (theo The World Fact Book 2001 của
Cục Tình báo TƯ Mỹ CIA). Ở
đây người dịch dùng số liệu năm 2001 cho sát với thời
điểm tác giả Ngô Giang viết bài này.
[3] Ferdinand Lassalle: xem chú thích
7. Pierre-Joseph Proudhon (1809-1865):
“nhà chính luận Pháp,
nhà xã hội học và kinh tế; nhà tư tưởng của
giai cấp tiểu tư sản,
một trong những người sáng lập
về mặt lý luận chủ nghĩa vô chính phủ”
(trích dẫn theo Tuyển tập Mác Ang-ghen, NXB Sự thật,
Hà Nội 1981)
[4] V. Liebknecht (1826-1900), nhà sáng lập đảng XHDC Đức,
bạn của Mác và Ang-ghen
[5] Bách khoa thư Xô viết (1987) gọi là Quốc tế 2 rưỡi
(2 1/2).
[6] Sđd1 gọi
là Quốc tế XHCN, và nhận định là “tổ
chức liên hiệp quốc tế
của các đảng dân chủ-xã hội, thi hành đường
lối cải lương.” Đại hội I của Quốc
tế này họp ở Đức
tháng 7.1951, ra tuyên ngôn “Về
những mục tiêu và nhiệm vụ của
chủ nghĩa XHDC” Tính đến 11.1977, Quốc tế XHCN có 38 đảng
(và 16 đảng dự thính), hai tổ chức Phụ
nữ và Thanh niên, 9 tổ chức có tính liên hiệp.
Trong những năm đầu của thập niên 70s, khi sống ở Hungary, tôi rất thích Thụy Điển cũng như cuộc sống ở các nước Bắc Âu và coi đó là hình mẫu phồn vinh và bác ái của thế giới lúc đó. Tôi cảm thấy CNXH và CNTB có nhiều điểm tốt đẹp và nghĩ đến giai đoạn xóa bỏ không còn sự phân biệt và đấu tranh như các bài học chính trị ở VN sặc mùi tuyên giáo. Thế giới khi đó tốt đẹp hơn bây giờ nhưng sau đó dường như đã bị đẩy tới 1 ngã rẽ tệ hại dẫn đến tình trạng hỗn loạn ngày nay... Cái gì đã xô đẩy thế giới như vậy? Khát vọng của nhân loại có thực sự là động lực phát triển hay không và cuộc chiến đấu mà tôi tưởng chỉ là tuyên truyền không lẽ sẽ không bao giờ chấm dứt?
ReplyDelete