Monday, September 30, 2024

Cây gia đình

 Gia đình như nhánh từ 1 thân cây. Mỗi người trưởng thành theo những hướng khác nhau nhưng đều chung một cội rễ.

Sunday, September 29, 2024

NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL TOÁN HỌC

Hồi học đại học ở Liên Xô, tôi chơi thân với một cậu khá kỳ quặc. Chơi vì cùng đồng hương Nghệ An và cả vì sự kỳ quặc ấy. Từ nhỏ toi vốn không ưa những gì bình thường, nhàm chán.

Hắn là sinh viên một trường danh tiếng ở Matscơva, thông minh và học giỏi. Giỏi với nghĩa xuất sắc thật sự chứ không phải loại khá hơn bình thường. Ngay năm thứ hai, hắn đã có hai bài báo được đăng trên một tạp chí chuyên ngành quốc tế về sinh học, là môn hắn được gửi sang đây để học.

Tuy nhiên, đam mê thực sự của hắn, đam mê suốt đời, lại là toán. Thành ra thành tích sinh học của hắn chỉ dừng lại ở hai bài báo ấy và cái bằng phó tiến sĩ hắn nhận được không mấy khó khăn khi về nước.

Hắn mày mò tự học toán và chắc cũng đạt được điều gì đó, nhưng là người ngoại đạo nên tôi không thể đánh giá.

Một hôm đến chơi, hắn bảo tôi với vẻ rất tự tin:

“Tớ sẽ đoạt giả Nobel Toán học!”

“Nobel không có giải dành cho môn toán,” tôi đáp.

“Tớ biết. Rồi người ta sẽ lập cái giải ấy cho tớ.” Hắn nói, cũng rất tự tin. “Toán là môn khoa học mẹ của tất cả các môn khác. Chỉ tại lão Nobel nhỏ nhen không lập giải này vì vợ lão có bồ là một nhà toán học mà thôi.”

Lần sau gặp, hắn lại nói:

“Cậu dịch thơ được đấy. Phải thừa nhận nhiều bài rất hay. Sao cậu không phấn đấu đoạt giải Nobel về dịch thuật?”

“Xưa nay chưa ai đoạt cái giải ấy. Mà nó cũng chẳng có”.

“Thì người ta sẽ lập nó cho cậu, nếu cậu dịch thực sự hay”.

“Tớ là người bình thường, dịch dọt cho vui chứ Nobel nỗi gì! Khéo người ta cười cho thối mũi,” tôi đáp, rất chân thành.

Thế mà hắn xửng cồ, cái thằng kỳ quặc ấy. Hắn quát vào mặt tôi:

“Cậu tầm thường chứ không phải bình thường. Sống mà không mơ ước, không hoài bão thì sống làm đếch gì! Dịch dọt làm đếch gì!”

“Nhưng tớ phải biết sức mình...” tôi yếu ớt chống đỡ.

“Làm sao biết được sức mình khi chưa thử thách? Nói chuyện với cậu chán bỏ mẹ!”

Rồi hắn lại ngồi vào bàn làm việc, hý húi với môn toán của mình, ra ý đuổi tôi về, chỉ vì tội không muốn nhận giải Nobel dịch thuật.

Về nước, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Sự kỳ cục, cực đoan của hắn không giảm mà còn tăng, và nhiều lần tôi vẫn bị hắn mắng té tát như trước.

Công bằng mà nói thì tôi bị hắn mắng oan. Tôi chỉ bình thường chứ không tầm thường. Như anh nông dân lo cày sâu cuốc bẫm để thu hoạch thật nhiều thóc, tôi cố dịch thật nhiều, cặm cụi ngày đêm viết lách, gọt dũa từng câu, từng ý đến mức hài lòng mới thôi. Tôi không thi vị hóa mà cũng chẳng coi thường cái nghề mình đã chọn, không mảy may mơ ước các giải thưởng này nọ, trong nước chứ chưa nói đến giải Nobel. Nghĩa là tôi cũng tử tế, dám sống chết với nghề, và cũng có hoài bão đấy chứ!

Hắn được phân về làm việc ở một viện nghiên cứu sinh học, đúng chuyên môn đã học. Hắn giỏi đến mức được người ta phân một mình một căn hộ ở khu tập thể Kim Liên, là điều hiếm xảy ra thời đó. Hơn thế, hắn được quyền cả tháng không đến viện ngày nào.

Độ sáu tháng một lần hắn ôm một tập dày các nghiên cứu của hắn nộp lãnh đạo viện. Mọi người, kể cả chuyên gia đầu ngành đọc không hiểu gì, nhưng chẳng dám bác, đành gửi sang Liên Xô nhờ thẩm định hộ. Tôi cũng nhiều lần phải khốn khổ ngồi nghe hắn thuyết trình hàng giờ các công trình nghiên cứu cao siêu mà tôi hoàn toàn mù tịt ấy.

Như trước, đam mê của hắn vẫn là toán, và hắn vẫn không ngừng say mê nghiên cứu để đoạt cái giải Nobel hắn mơ ước.

Một hôm, đang đi trên đường, tôi bị ai đó gọi to chặn lại. Thì ra là hắn. Đã mấy năm chúng tôi không gặp nhau, nhưng quả tình tôi không ngờ hắn thay đổi đến thế.

Trước mặt tôi là một ông già nhếch nhác, ăn mặc luộm thuộm và cáu bẩn.

“Cậu đãi tớ một chầu bia đi!” Hắn nói với vẻ hống hách như ra lệnh. “Lâu lắm chưa được ăn bữa nào ra hồn.”

Chúng tôi vào một quán bia gần đó. Thú thật tôi không thể cầm lòng khi nhìn hắn ăn một cách ngấu nghiến các món dọn ra và liên tục tu hết cốc bia này đến cốc khác. Chỉ những người phải nhịn đói lâu ngày mới có kiểu ăn như vậy.

Ăn uống no nê, hắn bắt đầu hăng hái nói một thôi một hồi những việc hắn đã và đang làm. Vất vả lắm tôi mới lái được câu chuyện sang hướng tôi muốn, tức là chuyện gì đã xẩy ra với hắn những năm vừa rồi. Thì ra hắn bị đuổi việc vì, theo lời hắn, “tớ đếch thèm bận tâm mấy cái chuyện sinh học vớ vẩn ấy nữa. Để dành thời gian cho toán.” 

Rồi hắn quay lại với đề tài hắn yêu thích, thao thao bất tuyêt, đôi mắt đỏ ngầu và tinh sáng một cách khác thường. Thỉnh thoảng bọt mép sùi ra hai bên khóe miệng. Dẫu chua xót, tôi vẫn phải tự bảo mình rằng hắn đã phát điên, chí ít thì tâm thần nặng. Kiểu “phát rồ vì ngộ chữ” như dân gian vẫn nói.

Sau đó tôi đều đặn đến thăm hắn tại căn hộ nhỏ ở Kim Liên. Quả thật tôi không biết hắn sống thế nào và ăn uống những gì. Lần nào đến, tôi cũng thấy hắn đang cắm cúi làm việc bên chiếc bàn sờn cũ.

Thường thì hắn vừa ăn những gì tôi mang tới, vừa mắng tôi cái tội không chịu phấn đấu để lấy cái giải Nobel về dịch thuật. Hắn xem việc tôi đến thăm hắn là chuyện đương nhiên, và chưa một lần cảm ơn tôi. Dần dần tôi học được cách kiên nhẫn ngồi nghe hắn nói về các công trình của hắn mà tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi thực sự thương xót, ái ngại cho hắn, một người sống có niềm tin và sự đam mê mãnh liệt. Không loại trừ khả năng chính nhờ niềm tin và sự đam mê ấy, hắn mới có thể tiếp tục sống và làm việc hết năm này đến năm khác trong điều kiện cùng cực như vậy.

Tuy nhiên, cái phải đến cuối cùng đã đến. Hắn chết cách đây mười năm trong căn phòng đơn độc, giữa một đống lớn giấy tờ bề bộn và chắc với cái dạ dày trống rỗng.

Do không có ai thân thích ở Hà Nội, ông hàng xóm gọi điện cho tôi khi phát hiện hắn chết.

Ông nói:

“Tội nghiệp bác ấy.”

“Vâng. Tiếc ông ấy không sống được đến ngày nhận giải Nobel”.

Tôi đáp, trong thâm tâm thực sự coi hắn đã nhận được cái giải cao quí ấy. Từ ấy đến nay tôi luôn nhớ đến hắn như một người đoạt giải Nobel toán học.

Sau cái chết của hắn, tôi hay ngẫm nghĩ về bản thân, và vẫn chưa dứt khoát xếp mình vào hạng người nào - bình thường hay tầm thường như hắn nói.

Thái Bá Tân - Strasbourg, nước Pháp. 2022

Saturday, September 28, 2024

TANKÖRI TALÁLKOZÓ

HỌP LỚP- 55 năm trước, ngỡ ngàng nhận phòng ở, cùng vội vàng giữa các giảng đường... Nay đã là Các Ông Già...hàn huyên bệnh tình, hân hoan chuyện Con Cháu khắp năm châu...

Băng khuâng Tưởng Niệm Tất Cả Gs và Nhiều Bạn Đồng Niên đã vĩnh viễn Xa vời...Cảm thông với nhiều bạn tuổi cao sức tàn vắng mặt... .

Vẫn hớn hở vui tếu...với bao kỷ niệm  những ngày đầu thu 55 năm trước... LỚP NHẤT BME-GPK KHÓA 1969-1974- 55 năm trước bỡ ngỡ cùng nhau Ký túc xá Máy....


Peter Nagy (FB)

Friday, September 27, 2024

Kiến trúc nền văn minh Maya



Nền văn minh Maya là một trong những nền văn minh cổ đại vĩ đại nhất của châu Mỹ, phát triển rực rỡ từ khoảng năm 2000 TCN đến thế kỷ XVI sau Công nguyên, trước khi bị suy tàn sau cuộc chinh phục của người Tây Ban Nha. Người Maya sinh sống chủ yếu ở vùng đất ngày nay là miền nam Mexico, Guatemala, Belize, Honduras và El Salvador. Họ nổi tiếng với sự phát triển về thiên văn học, toán học, và hệ thống chữ viết biểu tượng phức tạp.

Kiến trúc Maya là một trong những điểm sáng của nền văn minh này, thể hiện qua các công trình kiến trúc đồ sộ, tinh xảo và mang tính tôn giáo sâu sắc. Người Maya xây dựng các thành phố lớn với những kim tự tháp cao chót vót, đền thờ, cung điện và quảng trường rộng lớn. Các công trình này không chỉ được xây dựng bằng kỹ thuật tiên tiến mà còn được trang trí tỉ mỉ với các bức phù điêu, tượng đài và tranh vẽ phản ánh thần thoại, lịch sử và đời sống hàng ngày của người Maya.

Một số ví dụ tiêu biểu của kiến trúc Maya bao gồm Kim tự tháp thờ Thần Rắn Kukulkan tại quần thể di tích Chichen Itza, ngôi đền của Thánh Văn tại Palenque, và thành phố cổ Tikal, nơi chứa đựng hàng loạt các công trình kiến trúc tuyệt mỹ. Những công trình này không chỉ minh chứng cho sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật xây dựng của người Maya mà còn cho thấy tầm quan trọng của tôn giáo và thiên văn học trong cuộc sống của họ.

Các kiến trúc sư Maya sử dụng những vật liệu địa phương có sẵn, chẳng hạn như đá vôi ở Palenque và Tikal, sa thạch ở Quirigua, và đá núi lửa tại Copan. Các khối đá được cắt chỉ bằng các công cụ đá. Xi măng vôi nung được sử dụng để tạo ra một dạng bê tông và thỉnh thoảng được dùng làm vữa, như là bùn đơn giản. Các bề mặt bên ngoài được phủ bằng vữa stucco và trang trí bằng các chạm khắc nổi hoặc điêu khắc ba chiều. Tường có thể được ốp bằng các tấm đá ashlar mỏng đặt lên một lõi đá vụn, một đặc điểm của các công trình trong khu vực Puuc. Tường trong các tòa nhà Maya thường thẳng và tạo ra các góc sắc nét, nhưng một đặc điểm kỳ lạ được thấy ở Nhà của Thống đốc tại Uxmal (thế kỷ 10 CN) có tường ngoài nghiêng ra ngoài khi chúng lên cao (gọi là độ nghiêng âm). 

Toàn bộ bề mặt bên ngoài sau đó được phủ vữa stucco và sơn màu sáng, đặc biệt là đỏ, vàng, xanh lá cây, và xanh dương. Các bức tường bên trong thường được trang trí bằng tranh tường mô tả các trận chiến, các vị vua, và các cảnh tôn giáo.


Đền thờ Chiến Binh là một công trình cao 40 feet (khoảng 12 mét) và rộng 133 feet (khoảng 41 mét). Ngôi đền trung tâm có những bức phù điêu khắc họa các chiến binh, đại bàng và báo đốm đang ăn tim người. Hình ảnh của các vị thần Tlalchitonatiuh và Chaac Mool cũng có thể được tìm thấy trong các chạm khắc này.

Đền thờ Chiến Binh là một trong những công trình ấn tượng và quan trọng nhất tại Chichen Itza. Đây có thể là tòa nhà Maya cổ điển muộn duy nhất được biết đến đủ lớn để tổ chức những cuộc tụ họp lớn.

Ngôi đền bao gồm bốn bệ, với hai bên phía nam và phía tây được bao quanh bởi 200 cột trụ tròn và vuông.

Tất cả các cột vuông đều được chạm khắc phù điêu với hình ảnh các chiến binh Toltec; ở một số nơi, chúng được nối liền với nhau thành các đoạn, được sơn màu rực rỡ và phủ một lớp thạch cao.

Lối vào Đền Thờ Chiến Binh là một cầu thang rộng với hai đoạn dốc bậc thang ở hai bên, mỗi đoạn có các tượng người cầm cờ để giữ cờ. Trước lối vào chính là một bức tượng Chaac Mool nằm ngửa.

Trên đỉnh đền, các cột hình rắn có dạng chữ S đã từng chống đỡ các thanh xà bằng gỗ phía trên cửa ra vào, nhưng chúng đã biến mất theo thời gian.

Các dấu hiệu thiên văn và các chi tiết trang trí trên đầu mỗi con rắn được chạm khắc xung quanh mắt. Trên đỉnh đầu mỗi con rắn có một bồn nông có thể đã được dùng làm đèn dầu.


Điện Tikal là tàn tích của một thành phố cổ nằm sâu trong rừng mưa ở Guatemala. Được phát hiện bởi Ambrosio Tut, một công nhân khai thác cao su, ông đã báo cáo về tàn tích này cho tờ báo La Gaceta của Guatemala, và địa điểm này được đặt tên là Tikal. Sau khi báo cáo này được tạp chí học viện khoa học Berlin tái xuất bản vào năm 1853, Tikal bắt đầu thu hút sự chú ý của giới khảo cổ và các thợ săn kho báu. Ngày nay, du khách tới tham quan Tikal không chỉ để khám phá lịch sử mà còn góp phần bảo vệ khu rừng mưa nơi đây.

Tikal là một trong những địa điểm khảo cổ và trung tâm đô thị lớn nhất của nền văn minh Maya thời kỳ tiền Columbus. Nằm trong khu vực khảo cổ học của lưu vực Petén, thuộc miền bắc Guatemala, địa điểm này thuộc tỉnh El Petén và là một phần của công viên quốc gia Tikal. Năm 1979, Tikal được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.

Trong thời kỳ Maya cổ đại, Tikal là một trong những thành bang hùng mạnh nhất. Dù các công trình kiến trúc tại đây có niên đại từ thế kỷ thứ IV TCN, Tikal chỉ đạt đến đỉnh cao thịnh vượng vào thời kỳ cổ điển, từ khoảng năm 200 đến năm 900.

Trong giai đoạn này, Tikal thống trị khu vực Maya về mặt chính trị, kinh tế và quân sự, nhờ vào mối quan hệ mật thiết với thành bang Teotihuacan tại Trung Mexico. Có bằng chứng cho thấy Tikal đã bị Teotihuacan chinh phục vào thế kỷ thứ IV. Sau khi kết thúc thời kỳ hậu cổ điển, Tikal không còn xây dựng thêm các đền đài lớn, và cung điện của nó có dấu hiệu bị thiêu rụi. Những sự kiện này dẫn đến sự suy giảm dân số, cuối cùng khiến cư dân Tikal rời bỏ nơi này vào cuối thế kỷ thứ 10.


Đền Thờ Thánh Văn (Maya Cổ điển: Bʼolon Yej Teʼ Naah (phát âm tiếng Maya: [ɓolon jex teʔ naːh]) có nghĩa là "Ngôi Nhà của Chín Mũi Giáo Sắc Nhọn") là công trình kim tự tháp bậc thang lớn nhất tại địa điểm Palenque của nền văn minh Maya tiền Columbus, nằm ở bang Chiapas, Mexico hiện đại.

Công trình này được xây dựng đặc biệt để làm lăng mộ cho K'inich Janaab' Pakal, ajaw (vua) của Palenque vào thế kỷ thứ 7, người đã cai trị thành phố trong gần 70 năm. Việc xây dựng đền thờ này bắt đầu trong thập kỷ cuối đời của Pakal và được hoàn thành bởi con trai và người kế vị của ông, K'inich Kan B'alam II. Trong khu vực Palenque, Đền Thờ Thánh Văn nằm trong một khu vực được gọi là Sân Đền Thờ Thánh Văn, và nằm ở góc phải về phía Đông Nam của Cung điện. Đền Thờ Thánh Văn rất quan trọng trong việc nghiên cứu về người Maya cổ đại nhờ vào mẫu chữ tượng hình đặc sắc được tìm thấy trên các Thánh Văn, các tấm điêu khắc ấn tượng trên trụ đỡ của công trình, và các khám phá bên trong lăng mộ của Pakal.

Cấu trúc Công trình này bao gồm một ngôi "đền thờ" nằm trên đỉnh của một kim tự tháp tám bậc (tổng cộng có chín tầng). Năm lối vào ở mặt trước của tòa nhà được bao quanh bởi các trụ đỡ có khắc hình ảnh và các văn bản chữ tượng hình Maya mà ngôi đền được đặt tên theo. Bên trong đền thờ, có một cầu thang dẫn xuống hầm mộ chứa quan tài của Pakal.

Archic Vietnam (FB)

Thursday, September 26, 2024

Biên giới Zion (8)

Sẽ là sai lầm khi kết luận về lịch sử DT chỉ dựa trên sự giết chóc (với những mục đích mà Israel phải đối đầu) trong những hoàn cảnh đáng buồn của họ. ''Nỗi buồn tìm thấy tiếng nói khi niềm vui câm lặng''*. Người nghiên cứu/tìm hiểu lịch sử DT phải GHI NHỚ điều này!

Lịch sử DT như 1 chuỗi những đỉnh điểm và thảm họa nối tiếp nhau. Nó cũng có thể được coi là 1 miền liên tục KHÔNG DỨT của việc học hành kiên nhẫn, sự cần cù làm việc với năng suất/hiệu quả cao và thói quen tập thể mà phần lớn ko được ghi lại.

Hơn 4000 năm, người DT đã tích lũy bất cứ điều gì mà họ thấy có thể tận dụng như 1 tiện nghi nhân văn ở những xh mà họ sinh sống. Họ đặc biệt khéo léo trong việc thích ứng với hoàn cảnh/xh nơi số phận đẩy họ tới. Và cuối cùng họ đã thoát ra khỏi chúng để chứng tỏ: MÌNH LÀ NHỮNG NGƯỜI SỐNG SÓT VĨ ĐẠI.

Ko dân tộc nào tỏ ra có năng suất cao hơn họ trong việc làm giàu từ nghèo túng hay nhân tính hóa của cải, và trong việc biến cái khó thành cái khôn. Khả năng này bắt nguồn từ 1 triết lý đạo đức vừa vững bền vừa tinh tế, chỉ thay đổi rất ít trong 1000 năm qua (vì được coi là phục vụ mục đích của những người có cùng triết lý đó). Vô số người DT, đủ mọi lứa tuổi, đã rên xiết dưới gánh nặng DT giáo. Nhưng họ tiếp tục mang gánh nặng đó vì biết, từ trong trái tim mình, rằng: nó cũng mang họ. Người DT là những người sống sót vì họ sở hữu LUẬT SINH TỒN.

Hình ảnh Biểu tượng Do Thái giáo/Judaism (Chọn từ net)

DT giáo cần được ghi nhận (từ trước đến nay) là 1 tôn giáo mà ảnh hưởng ko phụ thuộc vào tổng số các tín đồ vì phạm vi tác động của nó luôn lớn hơn, vượt ra ngoài con số này. DT giáo tạo ra người DT, chứ ko phải ngược lại.

Triết gia Leon Roth đã nói: ''Do Thái giáo đứng đầu. Nó không phải là một sản phẩm mà là một chương trình, còn người Do Thái là công cụ để hoàn thành chương trình đó.'' Lịch sử DT ko chỉ ghi chép về sự thật vật chất mà còn cả những ý niệm siêu hình. Người DT tin rằng: mình được tạo ra và được lệnh trở thành ngọn đèn cho dân ngoại/phi DT, và họ đã làm theo điều đó trong khả năng đáng kể của mình.

Kết quả của người DT, dù được xem xét về mặt tôn giáo hay thế tục, đều rất đáng chú ý. Người DT mang đến thế giới này chủ nghĩa độc thần đạo đức có thể được mô tả là việc áp dụng lý trí vào thần thánh.

Trong 1 kỷ nguyên thế tục hơn, lịch sử DT cho thấy: người DT áp dụng các nguyên tắc lý trí vào toàn bộ các hoạt động của con người (thường là đi trước phần còn lại của nhân loại). Ánh sáng mà họ tỏa ra vừa làm xáo trộn vừa soi sáng, vì nó tiết lộ những sự thật đau đớn về tinh thần con người, cũng như cách để nâng đỡ nó. Nhưng vì thế mà họ phải trải qua khổ nạn.

Hình ảnh: Chọn từ net

Người DT là những người nói sự thật, và đó là 1 lý do quan trọng với câu hỏi tại sao họ bị ghét đến vậy. Những nhà tiên tri sẽ làm mọi người kính sợ, đôi khi được tôn vinh, nhưng có khi nào họ được  yêu mến? Tuy nhiên, là nhà tiên tri phải tiên tri và người DT sẽ tiếp tục mưu cầu sự thật như họ thấy, dù nó có dẫn họ tới đâu đi nữa.

Lịch sử DT dạy, nếu như cái gì cũng có thể dạy, rằng: quả thực có 1 mục đích trong sự tồn tại của con người, và rằng chúng ta ko chỉ sinh ra để sống và chết như thú vật. Khi tiếp tục giải nghĩa sự sáng thế, người DT sẽ tìm thấy niềm an ủi từ mệnh lệnh, được nhắc lại 3 lần, trong chương đầu tiên của Sách Joshua: ''Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh hoàng! Vì Yavê Thiên Chúa của ngươi vẫn ở cùng ngươi bất cứ ngươi đi đâu.''

Kinh Thánh (Sách Joshua - Chương đầu)

Tổ phụ của người DT, Abraham, được mô tả là ''một con người trí tuệ uyên thâm'' có ''khái niệm về đức hạnh cao hơn những người khác cùng thời'' (Cổ Vật Do Thái, Josephus). Do đó, Abraham ''quyết tâm thay đổi hoàn toàn quan điểm của mọi người khi đó về Chúa.''
Liệu điều gì sẽ xảy ra với nhân loại nếu Abraham ko phải là người như vậy, hoặc ông ta ko rời Ur, chỉ giữ lại các khái niệm đó cho riêng mình, và ko có người DT nào được sinh ra.

Thế giới ko có người DT sẽ là 1 nơi hoàn toàn khác. Nhân loại cũng có thể (tình cờ) phát hiện ra những hiểu biết của người DT, nhưng điều này ko thể chắc chắn. Tất cả những khám phá/ý tưởng vĩ đại của trí tuệ dường như hiển nhiên và ko thể bỏ qua 1 khi chúng đã được tiết lộ. Tuy nhiên cần phải có 1 tài năng đặc biệt để thể hiện tất cả (ngay từ lần đầu tiên). Người DT có tài năng này.

Chúng ta nợ dân tộc DT ý tưởng về sự bình đẳng (trước pháp luật thánh thần và pháp luật của con người); về tính linh thiêng của sự sống và phẩm giá con người; về lương tâm cá thể và từ đó về cứu chuộc của mỗi người; về lương tâm tập thể (và do đó) về trách nhiệm xh; về hòa bình như 1 lý tưởng trừu tượng và tình yêu như nền tảng của công lý, và nhiều giá trị khác làm nên cấu trúc đạo đức cơ bản của trí óc/tinh thần con người. Ko có người DT, trí óc của chúng ta (có thể) là miền trống rỗng hơn nhiều. 

Về tư tưởng, trên tất cả, người DT dạy chúng ta cách giải thích duy lý về những điều bản thân ko thể hiểu. Thế giới sẽ ntn nếu chủ nghĩa độc thần và 3 tôn giáo lớn (từ đó) ko xuất hiện? Từ góc độ lịch sử tối thượng, Abraham và Moses có vẻ kém quan trọng hơn Spinoza, bởi tác động của người DT với nhân loại luôn thay đổi. Quả thực, chủ nghĩa độc thần có thể được coi là 1 cột mốc trên con đường dẫn con người tới chỗ hoàn toàn ko cần đến Chúa.

Những diễn biến này đã xảy ra từ thời cổ đại. Người DT là những người cải cách vĩ đại trong tôn giáo và đạo đức luận. Qua Kỷ nguyên Đen tối và giai đoạn đầu thời Trung cổ, tuy vẫn là 1 dân tộc tiên tiến về kiến thức và công nghệ, họ bị đẩy khỏi vị trí tiên phong và có vẻ bị tụt lại so với thế giới văn minh trong cuộc cm Công nghiệp (cuối thế kỷ 18). Nhưng họ đã trở lại với 1 đợt sáng tạo thứ 2 (sau thời kỳ ghetto) trong lĩnh vực thế tục. Phần lớn cấu trúc tinh thần của thế giới hiện đại do họ dựng nên.

Người DT ko chỉ là những người cải cách, họ còn là những tấm gương và biểu tượng của nhân sinh. Dường như họ là sự trình diện (trong nhiều phiên bản) của tất cả các thế tiến thoái lưỡng nan của con người (dưới dạng nâng cao và sáng tỏ). Họ là ''khách ngoại bang và kẻ kiều ngụ tinh túy''. Và chính chúng ta cũng chẳng khác họ khi mỗi người cũng là ''kẻ ở trọ'' trên hành tinh này trong chừng 70 năm! Vì vậy, Trái Đất chẳng phải là nơi tạm trú ko hơn, của tất cả chúng ta?

Người DT là những người lý tưởng hóa một cách mãnh liệt, nỗ lực để đạt sự hoàn hảo. Họ đồng thời cũng là những người đàn ông, đàn bà mong manh khao khát sống sung túc và an toàn. Họ muốn tuân theo luật lệ hà khắc của Chúa, và cũng muốn được SỐNG.

 Hebron là một trong bốn thành phố linh thiêng nhất ở Trung Đông (với người DT và người theo Hồi giáo). Nơi đây, trong hang Machpelah là khu mộ của các bậc tổ phụ, tổ tiên của chủng tộc DT. (Hình ảnh: Chọn từ net)

Thế tiến thoái lưỡng nan của người DT (từ thời cổ đại) thể hiện qua quá trình cố gắng liên tục một cách xuất chúng về mặt đạo đức của 1 nền thần quyền để kết hợp với nhu cầu thực tế của 1 nhà nước hiện hữu, có khả năng tự bảo vệ mình, tiếp tục được tái tạo trong thời đại của chúng ta dưới hình dạng Israel. Nhà nước DT được lập ra để thực hiện 1 lý tưởng nhân đạo, và đồng thời phát hiện ra rằng: nó phải nhẫn tâm, chỉ để sống sót trong 1 thế giới thù địch.

Trong việc này, dường như vai trò của người DT là tập trung và kịch tính hóa những trải nghiệm chung của nhân loại khi lịch sử loài người và vấn đề sinh tồn đang tác động đến mọi xh. Và người DT đang tiếp tục biến số phận của họ thành 1 quy tắc đạo đức phổ quát. Nhưng nếu người DT có vai trò này thì ai đã viết nó cho họ?

Khi nghiên cứu lịch sử, qua các sự kiện, cần chú ý tới việc tìm kiếm các mẫu hình theo ý Chúa (nếu có những sợi dây liên hệ với nhau). Tuy nhiên, ko nên quá dễ dãi vì chúng ta vốn là loài sinh vật nhẹ dạ, sinh ra để tin với trí tưởng tượng mạnh mẽ (sẵn sàng tạo ra và sắp xếp các dữ kiện) vào những gì phù hợp với bất cứ kế hoạch tiên nghiệm nào. Ngược lại, hoài nghi thái quá có thể bóp méo nghiêm trọng mọi vấn đề.

Cần cân nhắc xem xét mọi dạng dữ liệu/bằng chứng, gồm cả bằng chứng siêu hình hoặc có vẻ siêu hình. Người DT luôn biết rằng: xh DT được chỉ định là 1 dự án/chương trình để thực hiện (thí điểm) cho toàn bộ loài người. Với họ, tấn kịch và thảm họa phải được thể hiện thật mẫu mực, nếu cần khoa trương cũng là điều tự nhiên. Và vì thế họ bị căm ghét suốt nhiều thiên niên kỷ. Với nhiều người, đây là điều ko thể giải thích nổi, tuy đáng tiếc nhưng ko có gì bất ngờ.

Trên tất cả những điều này, việc người DT vẫn sống sót, trong khi các dân tộc cổ đại (cùng thời với họ) đã bị biến đổi hoặc biến mất, là điều hoàn toàn có thể dự đoán. 
Làm sao có thể khác được?
Ý Chúa đã định và người DT tuân theo.

Những nhà viết sử và nghiên cứu/học giả có thể cho rằng: ko có gì là ý Chúa cả. Có thể là thế, nhưng niềm tin của con người vào 1 động lực lịch sử như thế, nó có thể đủ mạnh mẽ và bền bỉ, tạo thành nội lực và tựa vào bản lề của các sự kiện để di chuyển chúng.
Người DT hoàn toàn thống nhất và đồng thuận khi tin mình là 1 dân tộc đặc biệt. Trải qua hơn 4.000 năm, họ trở thành 1 dân tộc như vậy. Quả thực, họ có 1 vai trò vì họ viết nó cho chính mình và đây có lẽ là chìa khóa cho câu chuyện của họ.

Phù điêu mô tả chiến thắng của người La Mã với những chiến lợi phẩm từ Jerusalem được ghi lại trên Khải Hoàn Môn Titus ở Rome (Bản chọn từ net)

(Lược ghi từ Lịch Sử Do Thái của Paul Johnson)

(*): Paul Johnson

Wednesday, September 25, 2024

Sự trường tồn

Khó khăn không trường tồn. Chỉ con người cứng rắn trường tồn.

Robert H. Schuller

Monday, September 23, 2024

Phong cách Tối giản

Phong cách tối giản, hay còn gọi là Minimalism, bắt nguồn từ phương Tây và phát triển mạnh mẽ vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20, và đã trở thành xu hướng phổ biến trong các lĩnh vực như thời trang, âm nhạc, hội họa và kiến trúc. Hiện nay, phong cách này được ưa chuộng nhờ vào sự đơn giản, gọn gàng và tinh tế.

Ludwig Mies van der Rohe (1886 – 1969), một kiến trúc sư người Đức, được coi là người tiên phong của phong cách kiến trúc tối giản. Ông đã đặt nền tảng cho phong cách này bằng cách tạo ra các không gian đơn giản nhưng vẫn giữ được sự thanh lịch, tinh tế, với các đường nét và mặt phẳng tối giản, chủ yếu là đường thẳng và góc vuông.

Phong cách kiến trúc tối giản Minimalism tuân thủ nguyên tắc "Less is more" (ít mà chất), tức là đơn giản hóa đến mức tối đa. Tuy nhiên, với một số người, phong cách này có thể mang lại cảm giác đơn điệu và khô cứng. 

Một số điều cần lưu ý nếu bạn đang có ý định xoay chuyển không gian sống của mình theo phong cách này:

🟨 Áp dụng nguyên tắc "Less is more" trong không gian nội thất

🟨 Hạn chế về màu sắc

Việc sử dụng màu sắc rất quan trọng, đối với phong cách Minimalism, không nên sử dụng quá 4 màu trong một không gian. Tốt nhất nên chọn từ 2 đến 3 màu: một màu chủ đạo, một màu nền và một màu nhấn. Màu trung tính thường được sử dụng cho phong cách này để nhấn mạnh vào sự đơn giản, nhẹ nhàng.

🟨 Sử dụng ánh sáng để tạo điểm nhấn cho thiết kế

Ánh sáng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hiệu ứng thẩm mỹ cho không gian. Ánh sáng phù hợp sẽ tạo điểm nhấn cho các khu vực quan trọng thông qua hiệu ứng đổ bóng, làm nổi bật hình khối nội thất. Việc tận dụng ánh sáng tự nhiên bằng cách sử dụng cửa kính lớn, kết hợp với rèm cửa hay bình phong, cũng mang lại cảm giác tự do, thoải mái.

🟨 Sử dụng nội thất đơn giản, tối ưu

Với nguyên tắc "Less is more", phong cách nội thất tối giản sẽ được giản lược tối đa về các chi tiết thiết kế. Nội thất chỉ bao gồm những món đồ cần thiết, tập trung công năng của sản phẩm, giúp tiết kiệm không gian và tạo ra một môi trường sống thoáng đãng, nhẹ nhàng, giảm bớt cảm giác tù túng.

🟨 Hạn chế các thành phần trang trí

Trong phong cách này, các vật trang trí rườm rà đa sắc thường rất ít, nếu có thì chúng phải đáp ứng nhu cầu sử dụng thiết yếu, chứ không chỉ đơn thuần là để trang trí.

🟨 Loại bỏ các chi tiết phức tạp không cần thiết

Phong cách thiết kế tối giản luôn ưu tiên chất lượng hơn số lượng. Do đó, những món đồ cũ, không rõ mục đích sử dụng sẽ được loại bỏ để giảm bớt sự chật chội, giúp không gian tinh gọn hơn.

🟨 Đường nét gọn gàng, tinh giản

Thay vì sử dụng các đường cong hay hoa văn phức tạp, phong cách tối giản tập trung vào những đường nét gọn gàng, rõ ràng như đường thẳng và góc vuông, tạo ra sự thanh lịch và tinh tế.

Archic Vietnam (FB)

Sunday, September 22, 2024

Từ bàn tay ta

Bàn tay ta làm nên tất cả.

Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.

Saturday, September 21, 2024

Đúc kết lại để tự chỉnh đốn và phát triển bản thân

TỰ HỌC - VUA CỦA MỌI LOẠI KỸ NĂNG

Trong bất cứ kỹ năng nào khi làm việc, kỹ năng "tự học" luôn là một trong những kỷ năng quan trọng bậc nhất và chính nó sẽ "cải thiện", "xúc tiến" những kỹ năng còn lại. Mình là một người tự học Marketing không qua trường lớp (lúc trước học kế toán). Năm 22 tuổi bị bắt đi lính, hên là chỉ đi dân quân thường trực, ăn ở trong thành phố, ngồi trong doanh trại chẳng biết làm gì (lúc này toàn đánh máy cho mấy anh sĩ quan), mua hơn 100 cuốn sách về Marketing, kinh doanh, tâm lý học, tạo động lực về đọc.... thế là ra quân đi làm Marketing luôn (đi lính 1 năm 2 tháng).

Chân ướt chân ráo vào nghề, không có thầy dạy (năm 2014-2015), thị trường Marketing bây giờ cũng chẳng có nhiều khóa học, edumall, kyna, unica chưa có.... tất cả mọi thứ đều nhớ kỹ năng TỰ HỌC. Học từ sách, học từ người khác, học từ thương hiệu có sẵn... đúc kết mọi thứ lại và bắt đầu thực hành trình vô định... ấy vậy mà vẫn học được tốt, bây giờ cái gì trên mạng cũng có hết rồi đâm ra lười học…

Trong bài viết này, Minh sẽ đúc kết lại tất tần tật kỹ năng tự học của mình và các vấn đề mà nhiều người đang mắc phải khi bắt đầu tự học một cái gì đó.

# VÌ SAO CHÚNG TA NÊN TỰ HỌC, VÀ PHẢI HỌC THẬT NHANH?

Tự học là một việc cực kỳ thù vị, vì tự học sẽ giúp chúng ta phá bỏ mọi khuôn khổ, thỏa sức sáng tạo, không bị bất cứ ai, bất cứ điều gì làm rào cản (thay vì đi học thì bị thầy cô bắt phải làm theo ý, theo bài giảng...). Và vì vậy nên chúng ta **RẤT DỄ PHÁT TRIỂN**, và phát triển rất nhanh.

Việc tự học cũng giúp chúng ta RA KẾT QUẢ nhanh hơn bình thường, điều mà bất cứ doanh nghiệp, người chủ nào cũng mong muốn. Viêc tự học là việc mà chúng ta tự giác, không bị ai thúc đây, chúng ta học bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, không bị giới hạn thời gian, và việc tự học cũng rất thực tế vì chúng ta quan sát, đúc kết từ mọi thứ.

**-----> Tự học giúp chúng ta thăng tiến nhanh hơn bình thường.

Ngoài ra, việc tự học còn giúp chúng ta rèn luyện các kỹ năng:

* - Lập mục đích: khi chúng ta đã khao khát học một điều gì đó, có nghĩa là chúng ta phải hiểu rất rõ chúng ta cần học gì, và mong muốn đạt kết quả gì.

* - Kiên trì: Tự học là một việc rất khó, chúng ta phải đọc hàng chục cuốn sách, chúng ta phải xem hàng trăm video, follow hàng chục chuyên gia.....làm như vậy thì mới có thể học ra ngô ra khoai... mà để làm được điều đó thì phải rất kiên trì.

* - Quan sát: khi mới bắt đầu tự học, chúng ta sẽ thấy "ồ người này dạy đúng quá, thôi học người này đủ rồi"... nhưng về sau thì chúng ta sẽ nhận ra mọi thứ sẽ không đúng hoàn toàn, mỗi tác giả, mỗi cuốn sách đều sẻ có điểm hay, điểm dở riêng, cái quan trọng là mình phải quan sát thường xuyên và chắt lọc ra những điều tinh túy nhất. (điều mà 8/10 người đều nói thì chắc là đúng )

* - Logic:càng quan sát nhiều, học hỏi nhiều, chúng ta sẽ càng biết được những suy luận, lập luận vấn đề của người khác, từ khởi đầu cho đến khi ra kết quả. Tính logic càng lúc sẽ càng được tăng lên

* - Trình bày: Học là phải thực hành và chia sẻ, như thế mới có thể nhớ lâu... mà càng chia sẻ nhiều thì chúng ta sẽ càng cải thiện được kỹ năng nói, kỹ năng trình bày vấn đề của mình.

* - Thực tế: Học từ chuyên gia, học từ những case study thực tế sẽ giúp chúng ta càng lúc càng nghiệm ra vấn đề. Mọi thứ chúng ta lập luận, nói sẽ càng "tiệm cận đúng".

.....

Và còn rất nhiều rất nhiều kỹ năng, lợi ích khác mà chúng ta có thể có thông qua việc tự học. Ví dụ như mình từ một thằng mọt sách, mọt máy tính chả nói chuyện với ai, sống khép mình. Nhờ tự học riết mà mình trở nên nói nhiều, hòa đồng chẳng hạn Và quan trọng nhất, là chúng ta phải HỌC NHANH.

> **Lưu ý: KHÔNG ÔNG SẾP NÀO CHO CHÚNG TA QUÁ NHIỀU THỜI GIAN ĐỂ TỰ HỌC. SẾP LUÔN NHÌN VÀO GIÁ TRỊ. Vì sao họ không thuê người có kinh nghiệm làm luôn mà phải thuê mình vào rồi "tự học". Một nhân viên Marketing, khi nhận job rồi vào làm thì còn phải biết một chút về SEO, content, facebook ads, design, editor bla bla bla (ở mức căn bản)... nếu chúng ta mất 3 tháng chỉ để học Design ảnh thì... 3 tháng đó lương đâu ra....**

Người học nhanh sẽ tạo ra nhiều kết quả, người có tâm thế học nhanh (nhận thức siêu rõ ràng) thì chắc chắn sẽ học nhanh hơn người khác.

**PHẢI QUAN NIỆM TRONG ĐẦU, MÌNH CHỈ CẦN 3 NGÀY ĐỂ HỌC XONG, HOẶC NGAY TRONG NGÀY HÔM NAY.**

# BIẾT RÕ MÌNH CẦN PHẢI HỌC GÌ?

Hà, cái này là cái quan trọng nè nhiều đứa nhân viên mình kêu nó đi tự học về marketing cái nó đi học mấy cái vĩ mô như chiến lược, 7p, 4p, kiến thức hàn lâm các kiểu rồi lúc mình kêu nó thực hành thì nó lại chả làm được gì Đây là một cái lỗi cực kì quan trọng của người tự học. LUÔN SUY NGHĨ CAO SIÊU VỀ CÁC KIẾN THỨC MÀ MÌNH CẦN HỌC.

Chúng ta hay có một thói quen "đứng núi này, trông núi nọ" mà không nhìn vào cái "bản chất". Mà bản chất của việc học là "kết quả". Học là để thực hành ra kết quả, học là phải thực tế, phải làm được....

-----> Chúng ta cần phải xác định rõ mục đích học của chúng ta là gì, và mục đích đó NÊN PHÙ HỢP CÔNG VIỆC (hoặc phù hợp những điều mà chúng ta muốn)

Để biết mình cần phải học gì thì:

* - Nên hỏi người trong ngành, hỏi sếp, hỏi đồng nghiệp....

* - Nên suy nghĩ về "kết quả" trước khi học

* - Nên làm một file tổng hợp tất tần tật về chuyên gia (như file tất tần tật kiến thức về Content mà mình đã làm)... việc làm file tổng hợp này cũng cho chúng ta cái nhìn tổng quan nhất về "những kiến thức nền cần học" và liệt kê cả các chuyên gia, các group, fanpage, website, channel hay ho để chúng ta học dần.

* ....

Và sau khi biết được mình cần học gì rồi thì học thôi. Mà học thì phải dùng công thức học thì mới học nhanh được.

# CÔNG THỨC HỌC TẠO NÊN NHỮNG CHUYÊN GIA

Đây là công thức mà mình đã được đúc kết lại từ quá trình học, cũng nhiều chuyên gia đã nói về nó và ngay cả quá trình đi làm sếp mình cũng nói rất nhiều. Đó là công thức:

- TỰ HỌC

- ĐÚC KẾT

- THỰC HÀNH

- CHIA SẺ.

Đây là một công thức sẽ biến những gì chúng ta BIẾT thành những gì chúng ta SỞ HỮU, biến kiến thức thành thực hành, thành kết quả của chúng ta.

**TỰ HỌC.**

Phần này là phần quan trọng nhất, chúng ta phải biết mình muốn học gì, kết quả học là gì và có lộ trình học rõ ràng nữa thì càng tốt. Phương pháp học mà mình thường dùng:

* - Có nhận thức rõ ràng về việc PHẢI HỌC: học không còn là việc rảnh thì làm nữa mà nó là điều BẮT BUỘC PHẢI LÀM. Dù mình có là ai đi chăng nữa, làm công việc gì đi chăng nữa thì việc học vẫn là việc rất quan trọng.

* - Có nhận thức rõ ràng về việc "thu nhận kiến thức": dù bạn học ai, dù họ giỏi hay dở thì họ vẫn CÓ THỨ CHO BẠN HỌC. hoặc nếu không có đi nữa thì mình cũng happy vì đã biết được một video ko nên xem. Tâm thế "tìm tòi kiến thức" sẽ khác với tâm thế "tìm tòi kẽ hở để chê bai".

* - Học thì phải có thói quen GHI CHÉP. Phải có giấy viết mọi lúc mọi nơi, theo mình thì không nên dùng notes trên đt mà nên dùng giấy viết thì sẽ nhớ được lâu hơn.

* - Có sự khao khát về việc học: cái này chỉ cần chúng ta có mục đích rõ ràng, và ham muốn học thực sự thì nó sẽ sản sinh ra. Nếu không, hãy ép bản thân khao khát bằng mọi cách (vì chỉ khi "thực sự khao khát học", bạn mới có tâm thế học tập đúng đắn)... mình từng dùng những thứ tiêu cực để ép bản thân học, không hi vọng mọi người sẽ làm vậy nha.

n trọng nè, kiến thức nếu không được thực hành thi sẽ nhanh chóng biến thành con số 0. Thực hành để chính chúng ta có được trải nghiệm, case study của riêng mình. Nếu mình không tự học thường xuyên và áp dụng công thức này, chắc chắn mình sẽ chẳng bao giờ viết được bài này trong 3h. Công thức này đã trở thành QUÁN TÍNH CỦA MÌNH trong thời gian dài, vì vậy mình có thể viết nó ra ngay lập tức mà không cần suy nghĩ.

Việc thực hành cũng sẽ khiến chúng ta có cái nhìn THỰC TẾ hơn. Những gì mà chúng ta học chỉ mới nằm ở trên lý thuyết, nếu chúng ta đem những kiến thức này đi chia sẻ lại thì chúng ta có thể "lùa gà" được chứ gặp những người hiểu rõ bản chất vấn đề họ sẽ biết ngay. ----> Cần phải thực hành những gì chúng ta đã học để mọi thứ trở nên RÕ RÀNG hơn, không lý thuyết suông nữa.

Nhưng, đôi khi không phải cái gì chúng ta cũng có thể thực hành, mình sẽ chỉ cho các bạn một cách đơn giản hơn ở phần sau đó là cách "đặt câu hỏi TẠI SAO". (nhưng nếu được thì cứ dấn thân vào mà làm, mà trải nghiệm đi nhé... nếu không là bị chửi lý thuyết suông đấy)

**CHIA SẺ.**

Bước cuối cùng này mới là "mấu chốt" để kiến thức được chuyển biến từ "biết" sáng "sở hữu". Đây cũng là lý do mà mọi người thấy mình chia sẻ thường xuyên, chia sẻ liên tục hết group này đến group khác, và ngay cả trên tường nhà cá nhân nữa.

Nếu kiến thức của bạn chỉ mãi ở trong đầu bạn, thì qua bao nhiêu ngày gì đó nó sẽ trở thành trí nhớ ngắn hạn (cái này mấy bạn search nha, mình nhớ mang máng thôi) nhưng những gì mà bạn CHIA SẺ nó với người khác, bạn sẽ nhớ rất lâu.

VD:

- Mình vẫn còn nhớ như in những kiến thức về "bài toán bốc thuốc", "quy tắc lục âm", "7 trạng thái khách hàng"... đây là những kiến thức ~ 1 năm trước, từ lớp training marketing lần đầu mà mình đứng lớp mình đã nói về nó. Và tới tận bây giờ, khi nói về bài toán bốc thuốc thì mình có thể nói vanh vách từng chữ... dù mình chả có ý định học thuộc.

Chính bạn cũng có thể làm như vậy, bạn cũng có thể nhớ như in mọi thứ nếu bạn hội tụ đủ 3 yếu tố:

- Chuẩn bị kỹ càng (viết, note, ghi chép đầy đủ, review lại lần 2)

- Chia sẻ nó với người khác trên bất cứ phương tiện nào.

**MỘT KIẾN THỨC SẼ ĐƯỢC NHỚ NHƯ IN NẾU HỘI TỤ ĐỦ 6 GIÁC QUAN:**

- Nghe

- Viết

- Đọc

- Nói

- Liên tưởng

- Cảm nhận.

Bạn không tin?, hãy thử xem

----------

Kết thúc phần công thức học. Có thể nói đây chỉ là những kiến thức rất rất rất căn bản nhưng nếu bạn có thể thực hiện từ những cái căn bản này, mọi thứ sẽ trở nên rất dễ dàng.

Nguồn ảnh: Mape Academy

Nguồn: ST - Cà phê cùng tony (FB)

Friday, September 20, 2024

Học & họp

Học, học nữa, học mãi có vẻ ko bằng họp, họp nữa, họp mãi. Vì càng họp càng thấy dốt, càng dốt càng phải họp?

Thursday, September 19, 2024

Biên giới Zion (7)

Giáo dục đặt ra những vấn đề vô cùng phức tạp. Có 4 loại trường học dưới thời ủy trị: Zion Phổ thông (thế tục), Histadrut (thế tục-HTX), Mizrachi (Torah-thế tục) và Agudat (Duy nhất Torah). Đạo luật Giáo dục Thống nhất (1953) ghép 4 loại này thành 2 loại: Trường chính phủ - thế tục và Trường chính phủ - tôn giáo. Agudat rút các trường của mình ra khỏi hệ thống chung (ko được chính phủ đầu tư nếu ko dành đủ thời gian cho các môn học thế tục).

Có nhiều trận chiến và bạo động đã nổ ra (chống lại chính sách tuyên truyền thế tục) mà phe tôn giáo đã giành nhiều chiến thắng. Họ cũng giành cả chiến thắng về vấn đề trọng tâm là hôn nhân. Các thành viên theo chủ nghĩa thế tục của Knesset đã ủng hộ việc áp đặt luật Chính thống giáo (kể cả với hôn nhân thế tục) vì nếu ko như thế thì Israel sẽ dần chia thành 2 cộng đồng ko thể cưới nhau được.

Do đó, về cơ bản hệ thống này vẫn đáp ứng được nhu cầu của người dân. Nó có thể mang trong mình 1 số cái gai, nhưng chúng ko đâm tất cả người DT, vì chỉ là vấn đề cá nhân chứ ko phải điều mà hệ thống pháp luật quan tâm đến toàn thể người dân. Điều này hàm chứa sự thật rằng: DT giáo là 1 tôn giáo cầu toàn và điểm mạnh của nó nằm trong chính các điểm yếu của nó. Nó cho rằng: người thực hành DT giáo là tầng lớp tinh hoa, vì DT giáo tìm cách tạo ra 1 xh kiểu mẫu. Đây là điều khiến DT giáo, theo nhiều cách khác nhau, đã trở thành 1 tôn giáo lý tưởng cho Israel. 

Knesset: Cơ quan lập pháp chính của Nhà nước Israel (Hình ảnh chọn từ net)

Luật DT giáo được tạo ra khoảng 3.200 năm trước khi nhà nước Israel thành lập. Vì tính liên tục độc đáo của DT giáo nên nhiều điều luật cổ xưa nhất vẫn có giá trị và được tuân thủ cho đến nay.
Khác với từ ''nghi thức'' trong tiếng Anh mang tính miệt thị (có từ truyền thống Tin Lành), từ này trong tiếng Hebrew là Mizvot (mệnh lệnh tôn giáo) có sức mạnh đạo đức* (dù nói về quan hệ người với người hay giữa con người với Chúa).

Bản chất của tinh thần nghi thức là sự tuân thủ tỉ mỉ, đây là điểm mạnh của DT giáo (được điều chỉnh đặc biệt để phù hợp với 1 quốc gia mới). Sau 1945, trong số hơn 100 nước giành độc lập, nhiều nước phải vay mượn các cơ chế và truyền thống từ những kẻ cai trị (thực dân) hoặc sáng tạo từ 1 quá khứ hầu như ko được ghi lại rõ ràng. Israel may mắn vì quá khứ của nó dài nhất và phong phú nhất trong tất cả (những nước này) bởi được ghi lại rất nhiều và cập nhật bằng sự liên tục một cách tuyệt đối.

Tài năng viết sử của người DT đã được chứng tỏ từ thời Josephus đến tận thế kỷ 19. Khi nhà nước Zion được thành lập, nó thể hiện mình ko chỉ trong lịch sử mà trên hết là trong khảo cổ học. Các chính khách và tướng lĩnh như Ben Gurion, Moshe Dayan và Yigael Yadin, cùng hàng ngàn dân thường, trở thành các nhà khảo cổ học đầy đam mê, cả nghiệp dư lẫn chuyên nghiệp**.

 Yigael Yadin (1917 – 1984) là một nhà khảo cổ học, quân nhân và chính trị gia. Ông là Tham mưu trưởng thứ hai của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) và Phó Thủ tướng từ năm 1977 đến năm 1981 (Hình ảnh: Chọn từ net)

Gắn liền với lịch sử là 1 yếu tố quan trọng trong việc tạo ra 1 quốc gia gắn bó trong mối quan hệ hữu cơ. Tuy vậy, nó ko quan trọng so với sinh lực của 1 tôn giáo đã tạo nên chủng tộc DT.
Người DT sống sót chính vì họ tỉ mỉ về các nghi thức của mình và sẵn sàng chết vì chúng. Một điều đúng đắn và lành mạnh là sự tôn trọng dành cho việc tuân thủ nghiêm ngặt đã trở thành 1 đặc điểm trung tâm của cộng đồng Zion.

Núi Đền là 1 ví dụ nổi bật, đây là địa điểm vô cùng linh thiêng của người DT, khi lòng can đảm và ý Chúa đã mang nó trở về với họ cùng với phần còn lại của Thành cổ trong Chiến Tranh Sáu Ngày. Dù Ngôi đền đã bị phá hủy hoàn toàn từ thời cổ đại, song di tích của nó và vùng lân cận là nơi người DT luôn tới cầu nguyện, nhất là Bức tường phía Tây. Đặc biệt, ko ai được phép vào nơi cực thánh, trừ thầy cả, và kể cả thầy cả cũng chỉ được vào đây 1 lần trong năm (Ngày Cứu chuộc).

Các giáo sĩ Jerusalem rất muốn giữ quy định về nơi tôn nghiêm này một cách nghiêm ngặt, kể cả trong ý niệm, chẳng hạn như ko muốn người DT coi những chiến thắng của phe Zion (như việc tái chiếm Thành cổ) là biểu hiện ứng nghiệm về cứu thế. Điều này cũng được áp dụng cho các đề xuất xây lại Ngôi đền (trên nền của Ngôi đền, hiện nay, là 2 cấu trúc Hồi giáo có tầm quan trọng lịch sử và nghệ thuật vô cùng to lớn). Do đó, Ngôi đền thứ 3 sẽ được dựng 1 cách siêu nhiên nhờ sự can thiệp trực tiếp của Chúa.

Núi Đền, một địa điểm linh thiêng trong hàng ngàn năm (với Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo). Hình ảnh: Chọn từ net

Việc xây dựng Israel trong thế kỷ 20 tương đương với việc xây lại Ngôi Đền. Giống như Ngôi Đền thời Herod Đại đế, nó có những khía cạnh chưa thỏa mãn, nhưng nó ở đó. Việc nó tồn tại, có thể đến thăm và chia sẻ, đã mang tới 1 khía cạnh hoàn toàn mới cho cộng đồng DT trên thế giới. Nó luôn được quan tâm, đôi khi lo lắng, nhưng thường là tự hào.

Khi nhà nước Israel được thành lập và chứng tỏ nó có thể bảo vệ và biện minh cho mình, thì ko thành viên nào của cộng đồng DT thế giới phải cảm thấy xấu hổ/mặc cảm vì là người DT nữa. Ngay cả khi thế kỷ 20 trôi qua, cộng đồng DT thế giới vẫn tiếp tục duy trì những đặc điểm như cực giàu và cực nghèo và đa dạng đến khó hiểu.

Ở châu Âu, cộng đồng DT Pháp cho thấy: họ luôn là những người theo chủ nghĩa đồng hóa nhiệt thành nhất. Đặc biệt vì Cách mạng Pháp đã cho phép họ đồng cảm gần như hoàn toàn với các thiết chế cộng hòa. Các nhà văn đứng ngay chính trung tâm nền văn hóa Pháp đương đại. Tầng lớp trung lưu ko phô trương, vô cùng tinh tế thì tham gia chính quyền với những vị thủ tướng đáng chú ý. Tuy vậy, việc người Sephardi tràn vào từ châu Phi đã gia tăng tính chất DT của cộng đồng DT Pháp.

Được mở rộng nhờ những người Sephardi, nhưng cộng đồng DT Pháp vẫn kiên quyết phản đối chủ nghĩa Zion. Ko có nhiều người DT chuyển tới định cư ở Israel, nhưng họ thấy mình dự phần trong sự sống sót của Israel trong những năm 1956, 1967, 1973 và đầu những năm 1980. Ngoài việc  phản ứng mạnh mẽ với các chính sách của chính phủ Pháp mà họ thấy ko có lợi cho người DT (và cho Israel), họ là 1 lực lượng/yếu tố quan trọng trong việc thay thế chế độ cánh hữu de Gaulle.

Một giới quyền uy DT mới, quyết liệt và mạnh mẽ hơn dần hình thành và có được vai trò quan trọng hơn trong tiếng nói chung/dư luận của cộng đồng DT thế giới, nhất là khi tiếng nói từ Đức gần như câm lặng do hậu quả từ kỷ nguyên Đức Quốc xã của Hitler.

René Mayer là một chính trị gia cấp tiến người Pháp của Đệ tứ Cộng hòa, từng giữ chức Thủ tướng (1953). Ông là Thủ tướng thứ ba của Pháp gốc Do Thái (sau Léon Blum và Alexandre Millerand). Hình ảnh: Chọn từ net

Với sự suy tàn của tiếng Yiddish, tiếng nói chung của cộng đồng DT thế giới là tiếng Anh. Việc người DT quay lại Anh năm 1646 đã có vai trò quan trọng trong việc hơn 1 nửa dân số DT thế giới hiện sử dụng tiếng Anh. Những dấu ấn của nước Anh trong lịch sử DT đến và đi với sự ra đời của chủ nghĩa Zion hiện đại. Tuyên bố Balfour và chế độ ủy trị. Cộng đồng DT tại Anh trở thành, và vẫn là, cộng đồng ổn định và mãn nguyện nhất. Họ ít bị đe dọa nhất trong tất cả những cộng đồng DT lớn.

Cộng đồng DT Anh hiện đại ko thiếu tinh thần và nhiệt huyết. Tinh thần dám nghĩ dám làm của người DT được thể hiện trong ngành tài chính từ lâu đời. Nó giữ tầm quan trọng đặc biệt trong các lĩnh vực giải trí, BĐS, thời trang và kinh doanh - bán lẻ. Nó tạo ra các tổ chức quốc gia như Granada TV. Đế chế Sieff biến công ty thành công Marks & Spencer trở thành chiến thắng lâu dài nhất ở Anh thời hậu chiến, và Weinstock biến General Electric thành công ty Anh lớn nhất.

Người DT cũng rất sôi nổi trong lĩnh vực báo chí & truyền thông. Trong số này, Jewish Chronicle là 1 tạp chí tốt nhất trong tất cả tạp chí của cộng đồng DT thế giới. Người DT có mặt ngày càng nhiều trong Thượng viện. Nhưng dù vậy, những hoạt động ấn tượng đầy nhiệt huyết này chưa được sử dụng mang tính tập thể để tạo được ảnh hưởng rộng lớn hay nhà nước Zion. Trong khía cạnh này, cộng đồng DT Anh đã cư xử, và có lẽ buộc phải thế, cũng như nước Anh: trao ngọn đuốc cho Mỹ.

Một bài báo của Herzl đăng trên Jewish Chronicle. Hình ảnh: Chọn từ net

Việc mở rộng và củng cố cộng đồng DT Mỹ từ cuối thế kỷ 19 đối với lịch sử DT có vai trò quan trọng tương đương việc lập nhà nước Israel, thậm chí ở 1 số khía cạnh nó còn quan trọng hơn. Bởi nếu việc thực hiện chủ nghĩa Zion mang lại cho cộng đồng DT thế giới (bị đe dọa/quấy rối) 1 nơi nương náu ngày càng mở rộng với các quyền tự quyết và bảo vệ số phận của mình, thì sự phát triển của cộng đồng DT Mỹ là 1 sự lên ngôi thuộc đẳng cấp hoàn toàn khác, điều này mang đến cho người DT 1 vai trò quan trọng, chính đáng và lâu dài trong việc định hình các chính sách của nhà nước lớn nhất trên Trái Đất. Đây ko phải là ảnh hưởng Hofjuden*** mong manh mà là hệ quả của sự thuyết phục dân chủ và thực tế nhân khẩu học.

Đến cuối những năm 1970, dân số DT ở Mỹ là 5.780.960 người. Con số này chỉ tương đương 2,7% tổng dân số Mỹ, nhưng nó tập trung nhiều nhất ở các đô thị lớn, nổi tiếng là những trung tâm có ảnh hưởng vh, xh, kinh tế và chính trị. Tới cuối thế kỷ 20, người DT vẫn là cư dân của các tp lớn: 394.000 người ở Tel Aviv - Jaffa; Hơn 300.000 ở Paris; 285.000 ở Moscow; 280.000 ở London; 272.000 ở Jerusalem; 210.000 ở Kiev; 165.000 ở St. Petersburg; 115.000 ở Montreal và 115.000 ở Toronto. Nhưng sự tập trung ở đô thị ấn tượng nhất thuộc về Mỹ với 1.998.000 người ở NY (tp DT lớn nhất Trái Đất). Tp lớn thứ 2 là Los Angeles (455.000), tiếp theo là Philadelphia (295.000), Chicago (253.000), Miami (225.000), Boston (170.000) và Washington DC (160.000).

Ngoài ra còn có 1 sự tập trung dân số tại các bang chủ chốt. Bang NY (2.143.458 người) chiếm 12% dân số bang. Bang New Jersey (6%). Bang Florida (4,6%). Bang Marylan (4,5%). Bang Massachusetts (4.4%). Bang Pennsylvania (3,6%). Bang California (3,1%). Bang Illinois (2,4%). Trong các lá phiếu của các sắc tộc lớn ở Mỹ, lá phiếu DT được tổ chức tốt nhất, đáp ứng tốt nhất đối với sự hướng dẫn của giới lãnh đạo và chắc chắn có những nỗ lực đầy hiệu quả. 

Người DT và cộng đồng người Mỹ 
(photo credit: REUTERS)

Về mặt chính trị, tác động của người DT ở Mỹ cho thấy phần lớn đã bỏ phiếu/nghiêng hẳn về phía Đảng Dân chủ (đôi khi lên tới 85-90%). Trên thực tế, những năm 1960-70, lòng trung thành của cử tri DT ngày càng có vẻ dựa trên cơ sở tình cảm - lịch sử hơn là sự tương đồng lợi ích. Phần lớn từ sự thông cảm dành cho người nghèo và bị thua thiệt (ko hoàn toàn vì những lý do kinh tế hay chính sách của chính phủ). Đến cuối thế kỷ 20, khái niệm ''vận động hành lang DT'' trong nền chính trị Mỹ, ở mức độ nào đó, đã trở thành chuyện hoang đường.

Những gì diễn ra trong mối quan hệ của các công dân DT với Mỹ (nói chung) là 1 chuyện hoàn toàn khác và quan trọng hơn nhiều, đó là sự chuyển biến của thiểu số DT thành 1 yếu tố cốt lõi của xh Mỹ. Trong suốt thế kỷ 20, người DT Mỹ tiếp tục tận dụng tối đa các cơ hội mà đất nước này mở ra cho họ. Họ vào các ĐH, trở thành bác sĩ, luật sư, giáo viên. Cả nam và nữ đều có tay nghề trong mọi lĩnh vực: chính trị gia và công chức nhà nước cũng như làm ăn phát đạt trong ngành tài chính và kinh doanh (như họ vẫn luôn là vậy ở bất cứ đâu).

Người DT còn là 1 nhóm vận động hành lang trong xh Mỹ, họ trở thành 1 phần của sinh thể tự nhiên, 1 bộ phận hữu cơ, và là 1 bộ phận đầy sức mạnh. Họ bắt đầu hoạt động ko phải từ bên ngoài (cơ thể Mỹ) vào bên trong, mà từ bên trong tác động/ảnh hưởng ra bên ngoài. Với truyền thống dân chủ, khoan dung và tự do trong lịch sử của mình, vai trò của họ (ở mức độ nào đó) giống như vai trò của người Whig ở Anh: 1 tầng lớp tinh hoa/elite tìm kiếm lý lẽ đạo đức cho các đặc quyền của mình bằng cách khai sáng những người kém may mắn hơn. Do đó, hoạt động ko nằm trong mục đích tìm quyền lợi của họ mà là ban phát chúng trong lĩnh vực chính trị một cách lặng lẽ khó nhận thấy, chuyển từ gây ảnh hưởng lên sự lãnh đạo sang thực hiện nó.

Hình ảnh: Chọn từ net

Rất khó phân biệt 1 cách cụ thể các yếu tố DT trong xh Mỹ, chúng đã trở thành 1 phần hài hòa ko thể thiếu trong nền vh Mỹ. Cũng rất khó xác định chính sách nào của Mỹ được đề ra là để đáp ứng cái được cho là lợi ích DT bởi lợi ích đó có xu hướng ngày càng tương đồng với lợi ích của Mỹ nói chung. Nguyên tắc này hoạt động rất rõ ràng trong trường hợp Israel. Lúc này ko cần phải thuyết phục các nhà lãnh đạo Mỹ bảo đảm quyền sinh tồn của Israel nữa. Điều đó được coi là đương nhiên.

Israel là 1 tiền đồn cô đơn của nền dân chủ tự do, bảo vệ nền pháp trị và các tiêu chuẩn hành xử văn minh ở 1 khu vực mà các giá trị đó bị bỏ qua. Việc Israel nhận sự hỗ trợ của Mỹ là tất yếu và cần được thảo luận để bằng cách nào có thể cung cấp sự hỗ trợ đó (một cách thận trọng nhất). Đến những năm 1980, thực tế Israel vẫn là đồng minh đáng tin cậy nhất của Mỹ ở Trung Đông, và Mỹ là người bạn đáng tin cậy nhất của Israel trên thế giới (kể cả khi cộng đồng DT Mỹ ko tồn tại).

Tuy nhiên, cộng đồng đó thực sự tồn tại và đạt được 1 vị thế độc đáo trong cộng đồng DT thế giới. Ko chỉ vì quy mô mà còn vì đặc điểm của nó. Đây là 1 cộng đồng đã đồng hóa hoàn toàn, nhưng vẫn giữ lại ý thức DT của mình. Hiện tượng này chưa từng tồn tại trong lịch sử DT. Nó đã hình thành nhờ hoàn cảnh đặc biệt của sự phát triển và cấu trúc xh Mỹ.

Hình ảnh: Chọn từ net

Người DT, ''kẻ khách ngoại bang và kẻ kiều ngụ'' mãi mãi, cuối cùng đã tìm được chốn nghỉ lâu dài ở 1 đất nước mà những người di cư đều đến với tư cách' ''khách ngoại bang''. Tất cả đều có quyền cư trú như nhau, cho tới khi tất cả bình đẳng trước công lý, có thể gọi vùng đất này là nhà. Mỹ là nơi đầu tiên người DT đã định cư, và thấy tôn giáo của mình cùng sự tuân thủ tôn giáo của mình là 1 lợi thế, vì mọi tôn giáo rao giảng đức hạnh công dân đều được tôn vinh.

Mỹ là nơi, cũng và trên hết, tôn vinh thứ tôn giáo bao trùm của riêng mình, cái có thể được gọi là Luật Dân chủ, một Torah thế tục mà người DT được chuẩn bị vô cùng tốt để tuân theo.

Vì tất cả những lý do này, nên nếu coi cộng đồng DT Mỹ là 1 phần của cộng đồng DT thế giới có lẽ ko chuẩn xác. Người DT ở Mỹ thấy mình là người Mỹ hơn người DT ở Israel thấy mình là người Israel. Cần phải tạo 1 từ mới để mô tả hoàn cảnh của họ, vì người DT Mỹ, cùng với người DT ở Israel và người DT ở các nơi khác trên thế giới, đến/hợp lại để trở thành chân còn lại của cái kiềng 3 chân DT mới, mà sự an toàn và tương lai của cả dân tộc đặt trên đó.

Hình ảnh: Chọn từ net

Sự cần thiết về 1 nhà nước Israel hiện đại thế tục ko giảm trong lịch sử 40 năm đầu tiên của nó, mà tăng lên cho đến hôm nay. Ban đầu, nó được lập ra để đón các nạn nhân của chủ nghĩa bài DT ở châu Âu, sau thảm họa Holocaust. Đây là nơi trú ngụ cho những người sống sót vẫn còn đang rất đau buồn vì những mất mát và sốc vì những chấn thương tinh thần bởi những gì họ đã trải qua. Đây cũng là nơi sinh sống cho những người bị trục xuất khỏi những cộng đồng DT Ả-rập. Chỉ riêng những mục đích (đã được hoàn thành này) cũng đủ để biện minh cho sự tồn tại của nó.

Sau đó là những nhiệm vụ mới xuất hiện sau Thế chiến Thứ 2. Người DT ko dễ đạt được 1 thỏa hiệp hòa bình với LX và bằng chứng cho thấy rằng họ có thể gặp nguy hiểm tập thể lớn hơn bao giờ hết. Việc đưa 1.750.000 người DT thoát khỏi sức mạnh Xô-viết là mục đích hệ trọng của Israel buộc họ sẵn sàng đối đầu với bất cứ sự ko hài lòng nào từ nhà nước Xô-viết đối với người DT (dưới các hình thức khác nhau).

Nhà nước Israel có mục đích thậm chí còn nghiêm túc hơn bởi nó là nơi nương náu có chủ quyền của người DT gặp nguy hiểm ở bất cứ đâu trên thế giới. Nó là kẻ bảo vệ những người DT đã về đây tề tựu trong biên giới của mình. Nó là sự đảm bảo vật chất và sức mạnh duy nhất rằng 1 thảm họa Holocaust khác sẽ ko xảy ra.

Lực lượng thiết giáp của IDF trong Chiến Tranh Sáu Ngày (Hình ảnh: Chọn từ net)

Mặt trận chống Israel với chiến dịch bài DT khốc liệt của nhà nước Xô-viết và Khối các nước Ả-rập cho thấy: dù riêng biệt hay cùng nhau, họ đều có thể tìm cách áp đặt 1 Giải pháp Cuối cùng nếu có cơ hội. Israel phải đặt ra 1 khả năng như thế, và phải vũ trang để chống lại khả năng/nguy cơ đó. Israel có những lời hứa đáng tin cậy về sự bảo vệ của Mỹ, nhưng khi ko còn cách nào khác thì 1 quốc gia có chủ quyền phải trông chờ vào khả năng phòng vệ của chính mình.

Do đó, Israel phải sở hữu các phương tiện để gây ra những tổn thất (ko thể chấp nhận được) đối với những kẻ gây hấn tương lai, dù đó là kẻ thù mạnh cỡ nào. Trong Thế chiến Thứ 2, các nhà khoa học DT đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc chế tạo những vũ khí hạt nhân đầu tiên bởi họ ko muốn Hitler sẽ có 1 quả bom nguyên tử trước.

Trong những năm 1950-60, khi sự thù địch của LX và Khối đồng minh Ả-rập đối với Israel gia tăng, Israel đã nghiên cứu để trang bị cho mình 1 phương tiện (dùng để) răn đe. Và trong những năm 1970-80 họ đã nắm trong tay năng lực hạt nhân. Điều này là 1 bí mật, nhưng nó đều được biết ở những nơi mà nó sẽ có tác động mạnh mẽ nhất. Israel phải hoàn thành cả 2 mục đích/nhiệm vụ mà hoàn cảnh đã đặt lên vai mình.

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1939, nhà vật lý người Hungary Leó Szilárd và Albert Einstein đã gửi một lá thư cho Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt thúc giục ông phát triển bom hạt nhân, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của Dự án Manhattan (Hình ảnh:  AHF/Atomic Heritage Foundation)

(Lược ghi từ Lịch Sử Do Thái của Paul Johnson)

(*): Trong bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều được ghi trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm chí còn để khoảng trống để mọi người mở rộng với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về lý luận và luật.

(**): Talmud chính là nguồn gốc trí tuệ của người Do Thái. Talmud có nghĩa là “nghiên cứu” hoặc “nghiên cứu và học tập”.

(***): Người DT triều đình là những người thuộc tầng lớp tinh hoa nhưng ko bao giờ giữ vai trò chính trị ở cấp lãnh đạo/chóp bu. Họ chỉ được phép giúp sức, nhưng ko được phép cai trị.

Wednesday, September 18, 2024

Tính cách & nguyên tắc sống

Tại sao người khác không coi bạn ra gì?

Bởi vì bạn là người không có nguyên tắc, người khác nói tốt, bạn cũng nói tốt, người khác nói xấu, bạn cũng nói xấu. Ban đầu, người khác có thể nghĩ bạn là người dễ nói chuyện, nhưng theo thời gian, họ chỉ coi bạn là kẻ ngốc.

Nhiều người hiểu sai về EQ, lúc nào cũng lịch sự với mọi người, không dám làm mất lòng ai, thể hiện một tính cách như Phật, điều này không phải là khoan dung, mà là không có giới hạn. Ban đầu, người khác có thể nói lời cảm ơn, nhưng theo thời gian, ngay cả việc nói lời cảm ơn cũng trở thành lãng phí.

Những người thực sự giỏi chắc chắn là người rõ ràng về tình yêu và thù hận.

Tại sao người khác không coi bạn ra gì?

Bởi vì bạn không biết từ chối, bất cứ việc gì tìm đến bạn, bạn đều đồng ý, bất cứ thứ gì người khác đưa cho bạn, bạn đều coi như A báu vật, theo thời gian, người khác sẽ coi bạn như thùng rác. Chỉ cần có rác là họ sẽ ném vào chỗ bạn, bởi vì họ không dám ném ở chỗ khác, trong xương cốt con người luôn có sự tồn tại của sự hèn mọn.

Tại sao người khác không coi bạn ra gì?

Bởi vì bạn không biết tận dụng cơ hội để thể hiện sự tức giận. Khi nên tức giận, bạn không tức giận; khi không nên tức giận, bạn lại tức giận. Một người không bao giờ tức giận, không ai tôn trọng; một người tức giận hàng ngày, cũng không ai sợ hãi. Tìm thời cơ, điều kiện và hoàn cảnh thích hợp để tức giận, để mọi người đều biết

đến ranh giới của bạn, mới là dấu hiệu của một người giỏi.

St từ Đắc Nhân Tâm (FB)

Tuesday, September 17, 2024

Ko gia đình

Không gia đình, con người học yêu thương, đoàn kết và hy sinh ở đâu? 

(E. Souvestre)

Monday, September 16, 2024

Tác giả của Dưới Bóng Khải Hoàn Môn

 ERICH MARIA REMARQUE LÀ NGƯỜI NƯỚC NÀO?

Đến nay vẫn có ý kiến cho rằng họ thật của nhà văn Đức nổi tiếng là Kramer, và ông là người Do Thái. Tuồng như để giấu điều này, Erich đã đảo ngược họ của mình thành  Remarque.

Nhưng không phải như vậy. Remarque là họ của bố nhà văn và những người thân của ông bên nội. Cụ của nhà văn chạy từ Pháp sang Đức để tránh khủng bố trong thời gian xảy ra cách mạng. Về xuất thân, Erich Maria Remarque là người Đức gốc Pháp.

Lúc đầu, tác giả tiểu thuyết “Ba người bạn” tên là Erich Paul, nhưng sau đó ông đổi tên đệm thành Maria - để tưởng nhớ mẹ ông, Anna Maria,  mất năm 1917, khi ông đang chiến đấu ở mặt trận.

Năm 1966, khi được hỏi liệu tên thật của ông có phải là Kramer hay không, Remarque  trả lời: “Không. Tuy nhiên, điều ngu ngốc đó đã lan truyền khắp thế giới”.

Còn khi được hỏi tại sao không bác bỏ điều đó, Remarque nói: “Để làm gì nhỉ? Gần bốn mươi năm nay, tôi chưa bao giờ bác bỏ bất kỳ bài viết sai sự thật nào về tôi cả. Không ai tin đâu. Báo chí luôn luôn đúng mà”.

Copy từ Trần Hậu (FB)

Hôm nay là Sinh nhật ABS

MỪNG SINH NHẬT NGƯỜI LÀM BÁO VÌ DÂN

Hôm nay là sinh nhật lần thứ 60 Anh Ba Sàm (ABS), nhà “dân báo”, blogger nổi tiếng Nguyễn Hữu Vinh. Ngó qua một lượt trên mạng, đã thấy rất nhiều người nhắc đến anh - một người đang trong cảnh tù đày bất hợp pháp từ nhiều năm nay.

Cứ mỗi lần nghĩ tới những con người dũng cảm chỉ vì bày tỏ chính kiến, thực hiện quyền tự do biểu đạt theo những cách khác nhau mà chịu cảnh “nhất nhật tại tù”, mình lại nghĩ tới cuốn hồi ký của Đức Đạt Lai Lạt Ma với nhan đề “Tự do trong lưu đày”.

Với đa số, rất khó đạt được cảnh giới như thế. Ai cũng có gia đình, cũng có những ràng buộc, và cả khi thoát khỏi được những điều ấy, thì vẫn còn đó, trong sâu thẳm, nỗi sợ trước cái sự bất thường, là khi chúng ta bị tước quyền tự do, và bị hành hạ về tinh thần và thể xác.

Những kẻ nắm trong tay quyền lực và hệ thống bạo lực hiểu rõ điều đó, và lợi dụng điều đó cho những mục tiêu đê hèn và khốn nạn của họ. Vượt qua nỗi sợ và đấu tranh cho chính kiến của mình là điều ít trí thức làm được, và ABS là một trong số những con người ưu tú ấy.

Hơn hai năm trước, hồi ABS mới bị tù bị “tạm giam” được ba tháng, mình đã có ít dòng về anh, người mà khi đó mình coi là “đã làm một công việc rất trí tuệ, rất có lý tưởng và hết sức hữu ích cho cộng đồng”. Đến giờ, thời gian chỉ khiến mình thêm tin tưởng vào điều đó.

Nhắc lại những chia sẻ này như một lời chúc sinh nhật từ nơi xa xăm gửi tới anh, một đồng nghiệp báo chí của mình, của người dân, vì người dân mà mình hết sức kính trọng. Mong anh bảo trọng trong cõi lao tù...

“Thời ấy, NCTG còn ra báo giấy, tuần một lần, 36 trang. Thế nên nhu cầu đọc thượng vàng hạ cám và đa chiều (báo Việt ngữ, trong và ngoài nước) của mình là rất... bức bách và cấp thiết. Và việc phải thường xuyên xem các trang tổng hợp thông tin, tham khảo để tìm kiếm ý tưởng, chủ kiến... là chuyện thường ngày và cơm bữa.

Khoảng 2006-2007, đã có một vài kênh như thế, điển hình nhất là Viet-Studies và có lẽ muộn hơn chút nữa là Nhật báo Ba Sàm. Điểm hấp dẫn nhất của hai trang này là không chỉ đưa tin (kèm nguồn rất rõ ràng), mà các tác giả còn kèm thêm những bình luận ngắn gọn và dí dỏm, nhiều khi cực sắc bén và thường là “trúng”.

Được một thời gian thì mình bằng lòng với việc hàng ngày chỉ cần liếc TTX Ba Sàm thôi là thấy đủ (thậm chí hết sức đủ) những gì mình cần tìm kiếm. Đảm bảo được sự đa chiều, dân chủ cần thiết, nhưng vẫn tỏ rõ chính kiến, quan điểm ngay thẳng trong không ít trường hợp, là điều mình nghĩ ABS đã làm được, và làm rất tốt!

Đối với ABS, nói một cách thậm xưng, mình cũng có chút “giao tình” hiểu theo nghĩa rộng. Kỳ thực mình chả biết anh là ai, ở đâu, làm việc này do ai “chỉ đạo”, phe phái thế nào, v.v... (chưa bao giờ mình để tâm tới những điều đó). Cái mình thích là với những gì theo đuổi, ABS đã giúp rất nhiều độc giả thực thi “quyền tiếp cận thông tin” đã được hiến định.

Thế nên, mình đã rất vui là trong thời gian trực tiếp chủ trương và thực hiện tờ Nhật báo trực tuyến, một số bận ABS đã để mắt tới NCTG, đánh giá một số bài vở, tin tức của nó đáng được giới thiệu cho độc giả gần xa. Trong số ấy, mảng bài mình tâm đắc nhất - về lịch sử, chính trị và xã hội các xứ cộng sản (cũ) ở Nga và Đông Âu - đã nhiều lần xuất hiện trên trang của ABS.

Tờ báo, nhờ đó, đã có thêm nhiều độc giả mới ở trong nước, những người có dịp vô tình đọc một tin, bài nào đấy của NCTG qua hệ thống Nhật báo Ba Sàm. Đây là điều mà tới giờ, dù rất muộn màng, mình vẫn cảm thấy cần nói lời tri ân tới anh, người đang bị giam cầm và gặp hiểm nguy trong cuộc chiến không cân sức với chính quyền.

“Thông tin khiến bạn trở thành người tự tin” từng là slogan một thời của nhật báo lớn nhất Hungary “Tự do Nhân dân” (Népszabadság), và điều đó cũng đúng với ước mong của ABS, nghĩ rằng cần phổ biến info nhằm giảm thiểu và dần dần xóa bỏ khái niệm “nhạy cảm”, “cấm kỵ”... trên bình diện thông tin để khiến người dân “thoát vòng nô lệ”.

Mình nghĩ rằng, cùng thời ấy với mình, đã có rất nhiều người - trong đó có không ít các đồng nghiệp làm báo chí - đã hàng ngày chờ đón những “màn” điểm tin kèm lời bình thường là rất đạt, rất ngoạn mục của ABS, để đáp ứng nhu cầu “được biết”, được quan tâm đến thế sự hoặc sử dụng trong công việc của mình.

Hàng triệu người, nếu không muốn nói là nhiều hơn thế, cần phải nói lời cám ơn chân thành tới ABS, người đã âm thầm, bền bỉ và kiên trì mang thông tin đến cho họ hàng ngày. Nên chăng, tất cả những ai từng yêu mến và sử dụng “dịch vụ” (miễn phí) của anh, giờ góp một lời để khích lệ, cổ vũ và bênh vực anh?

Cá nhân mình tin rằng, với hoạt động thiện nguyện và quên mình vì lợi ích cộng đồng như thế (tuy có thể đụng chạm tới lợi ích của những kẻ nào đó tuy không nói ra mà ai cũng biết), ABS đáng được tặng thưởng bội tinh, chứ không phải bị giam cầm và có thể phải đối mặt với bản án tù nặng như nhiều người nhận định”.

Nguyễn Hoàng Linh (16 Sep. 2016)