Văn minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như Kim tự tháp, điện Pantheon hoặc Vạn lý Trường thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với nền văn minh của toàn nhân loại.
Tại khu vực gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel,
Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq
vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc
khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau như Roma,
Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven biển Israel và
khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời. Sau sự kiện Ngôi đền
thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược
là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi
giáo) đều coi là đất thiêng của mình.
Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng
hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng
người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập
thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?
Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ
biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại
đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, luật, khoa học
chính trị, công nghiệp giải trí…?
Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết
đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết đọc,
biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu
chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số. Đến những năm 1930 của
thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng
nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành
khoa học Do Thái”.
Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học
hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra
không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán
nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt đến đỉnh cao
trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và rất nhiều nhà khoa học
đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người
Do Thái làm được chuyện đó?
Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu
vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục
của mình như người Do Thái không?
Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái
chính thống là những người có địa vị và tiếng nói quan trọng trong xã hội. Vậy
họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản sắc và “nòi giống” Do
Thái?
Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công và
có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại không thành công hoặc
không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các
Kibbudz là gì?
Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm
1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế
giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ
đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu trong những năm
1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số) trở về “cố quốc”. Mỹ,
Australia, Canada cũng là quốc gia của những người nhập cư, nhưng chưa từng chứng
kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian
ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do
Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới.
Chuyện này thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?
Dường như mỗi khi bàn luận về sự thông minh có tính di truyền hay không, người ta đều nêu dẫn chứng về giải Nobel và người Do Thái. Và cũng như một thông lệ, hàng năm sau khi công bố giải, người ta đều hỏi người Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này không hề nhỏ.
Ví dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011, lập tức có một bài báo nhan đề “Bà mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm trong bảy chủ nhân của giải Nobel là người Do Thái”. Đó là: Ralph Steinman và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và Adam G. Ross – giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman – giải Nobel về Hoá học.
Dân tộc Do Thái là một trong những dân tộc có nền văn hoá và lịch sử lâu đời nhất của nhân loại, ra đời cùng với thời kỳ văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà và văn minh Hy Lạp-La Mã thời cổ đại. Nhưng lịch sử bắt họ phải chịu một số phận không may mắn, bị các bộ tộc và các lãnh chúa khác xâm chiếm đất đai và xua đuổi dưới những lý do tôn giáo. Từ đó họ phải sống tha hương, từng nhóm kéo nhau đi khắp mọi nơi trên thế giới để duy trì sự sinh tồn, vượt qua những định mệnh nghiệt ngã của lịch sử.
Trên 2000 năm qua, đi đến đâu họ cũng tỏ ra là một dân tộc có sức sống dẻo dai, không bị đồng hoá và ý thức vươn lên mãnh liệt.Trong công việc họ cần cù, kiên trì và quyết tâm đạt những mục đích mình theo đuổi. Bởi vậy, gần như sống ở đâu họ cũng thành công.
Sự thành đạt và khôn ngoan của họ nhiều khi bị thành kiến và kỳ thị. Trong Thế chiến II, dưới chế độ phát xít, khi Hitler đề cao thuyết “người Đức là một dân tộc thượng đẳng”. Hitler rất sợ sự vượt trội của người Do Thái, nên dã bắt họ sống trong các trại tập trung, đày đoạ họ với ý đồ để họ chết dần chết mòn trong đó.
Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ (bình quân cứ 1 triệu người có được tới 74 phát minh). Họ thường là những nhà khoa học lớn, những doanh nhân lỗi lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư tưởng uyên bác, những chính trị gia tài giỏi…
Sự thông minh cùng với trí tuệ uyên bác đã tạo ra nền văn minh Do Thái. Tuy dân số chỉ chiếm có 0,19% nhân loại nhưng trên 17% những nhà khoa học hàng đầu trên thế giới có nguồn gốc Do Thái.
Sự thông minh cùng với trí tuệ uyên bác đã tạo ra nền văn minh Do Thái. Tuy dân số chỉ chiếm có 0,19% nhân loại nhưng trên 17% những nhà khoa học hàng đầu trên thế giới có nguồn gốc Do Thái.
Từ năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một giải thưởng uy tín nhất và danh giá nhất hành tinh, tôn vinh những người có đóng góp lớn nhất cho nhân loại, có những phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính nhân văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an bình hơn, tốt đẹp hơn. Người Do Thái lập tức trở thành một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở các nước khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước mới thành lập cách nay không lâu của họ là Israel.
Tính đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong Thế chiến I và II không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả các giải, ít nhất có 181 người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng máu Do Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại.
Trong các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do Thái chiếm lĩnh các giải Nobel trong các lĩnh vực như sau:
– Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21%
– Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42%
– Văn chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12%
– Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27%
– Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%.
– Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21%
– Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42%
– Văn chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12%
– Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27%
– Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%.
Cần lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu (cả trong và ngoài nước) nghĩa là chưa đến 0,19% dân số thế giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là gần 8 tỷ với trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người của người Do Thái so với bình quân của thế giới cao hơn đến 11.950%. Song đó chỉ là so sánh cho vui thôi, chứ con số này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao nhiêu điều kiện khác nữa.
Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục năm gần đây đổ dồn về Mỹ. Song ít ai để ý, trong những “giải Nobel mang thương hiệu Mỹ” thì người Mỹ gốc Do Thái chiếm một phần quan trọng.
Xin nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là người gốc Do Thái, Nobel Vật lý – 37%, Nobel Y học & Sinh lý học – 42%, Nobel Kinh tế – 55%, Nobel Văn chương – 27%, Nobel Hoà bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của cộng đồng Do Thái chỉ bằng 2% của Mỹ.
Trí tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ở nam giới mà cả nữ giới. Trong 4 ngành khoa học có 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các ông. Nếu không kể giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các nhà khoa học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải chúng ta đã nói nhiều là giải Fields thì các nhà toán học trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành tựu suốt đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%.
Những người Do Thái đoạt giải Nobel cũng nằm trong một số “điều đặc biệt” của giải. Chẳng hạn Elia Wiesel, người sống sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải Nobel Hoà bình năm 1986. Leonid Hurwicz, người Balan gốc Do Thái, là người đoạt giải Nobel cao tuổi nhất (Nobel kinh tế 2007) năm ông đã 90. Bà Rita Levi-Montalcini, giành giải Nobel Sinh lý học 1936, là người đoạt giải này và sống thọ nhất (hiện đã vượt qua tuổi 102) hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được nhận giải là Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà khoa học được bình chọn là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX – Albert Einstein – cũng là người Mỹ gốc Do Thái.
Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc về mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đậu” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên…
Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc về mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đậu” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên…
Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:
Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:
– Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
– Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
– Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;
– 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:
– Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số một của Nhật là phát xít Đức (Hitler) có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.
– Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ, với tài sản cá nhân lên tới 36 tỷ USD. Nếu được chính phủ VN cho phép thì khả năng Sheldon Adelson sắp mở sòng bạc tại thành phố Hồ Chí Minh.
– George Soros giàu thứ 22 ở Mỹ (19 tỷ USD) không chỉ nổi tiếng về giàu có mà ông còn là bậc thầy về những phi vụ đầu cơ đi vào lịch sử…
– Michael Bloomberg có tài sản riêng 22 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế.
Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là cộng đồng thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế, đối với vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ cho Israel.
Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công
nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của
Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không
chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa
4 “Nhà”, gồm: Nhà nước; Nhà khoa học; Nhà buôn; và Nhà
nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của
dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng
bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc,
nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không
được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất
hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản
hóa): San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất
là 1/2 m; Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ
3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; Sau quá trình cải tạo này, đất
hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư)
để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất
trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có trên 7 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống
đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn
trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường
ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới
từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về
thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng
của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống
dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng
cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt..
) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều
kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng
suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai
quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng
cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt
chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu
Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và
kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để
làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất
đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt
hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái
Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất
là lao động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam
chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều
“lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ
nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời
gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy
trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình
và cho nước Thái sau này.
Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Nước Israel nhỏ bé (diện tích chỉ 20.770 km2) với hơn 7 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn, diện tích đất canh tác chỉ chiếm có 13,68%, lượng nước ngọt dành cho
nông nghiệp chỉ khoảng 5%, nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người khoảng 33.900 USD (GS Nguyễn Lân Dũng). Họ không những đủ trình độ xuất khẩu các sản phẩm
công nghệ cao như thiết bị tin học, hàng không, điện tử, y tế, sợi thủy
tinh, hóa chất, chất dẻo, kim cương cắt gọt..., mà về nông nghiệp không
chỉ thừa ăn vẫn còn có vô số thứ xuất khẩu (thịt, sữa, bông, chanh, phân lân
và kali...). Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được giữa làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người Ả Rập xung quanh…
Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine,
Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn
trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các
bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau
như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng
ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa
trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586
trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh
Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là
đất thiêng của mình.
Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/#sthash.Y8V6OBOi.dpuf
Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của họ. Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/#sthash.Y8V6OBOi.dpuf
Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua.
Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – tác phẩm kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một bộ sách kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, Phật giáo, Nho giáo, ta cần phân tích thêm. Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia.
Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”. Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và Phật giáo lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược
lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis
2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn
tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện
ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ
của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng
bạc” (Genesis 13:2).
Thượng
Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng
Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses
dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những
người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David … đều
được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được
công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua
chúa.
Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.
Trọng
tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện
tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì
họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương mà họ sinh sống,
nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy
khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan.
Thí
dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái
cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện
pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào. Người ta nói
dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là
bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông
tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền
dễ hơn ngành ngân hàng?).
Tuy
vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê
bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott
chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố
của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi
tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của
Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do
Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá.
Tập
quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa
hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá
đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào
không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx
từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái.
Marx
nói như vậy nghĩa là đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ
nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm
nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do
Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Kinh
Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc
đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không
ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được
trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ
là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác…
Có
thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử
dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt
cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình
đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở
đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.
Đạo
Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề”
vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc
lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện.
Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm
từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công
tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của
mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có
như thế.
Người
Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm
giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao
giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các
quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân
tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như
buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …
Muốn
làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản.
Kinh Talmud viết: ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine
is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của
tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là
của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của
anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa
nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản
của người khác.
Tuy
thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo
Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho
rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế,
mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó.
Tài
nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người,
không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ
tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên
nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không
được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.
Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn:
– Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;
– Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái;
– Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;
– Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;
– Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;
– Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;
– Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…
– Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;
– Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái;
– Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;
– Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;
– Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;
– Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;
– Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…
So
sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo
của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo.
Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày
xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ
trình bày về vấn đề này).
Từ
sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên,
có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật
tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn
hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này
dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn
là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người.
Đồng
thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo
lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo
Do Thái. Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Hebrew
của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp
của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo,
sau rốt trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay.
Có
lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho
nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử cực kỳ phức
tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh Hebrew, và bây giờ đã đến
lúc loài người nên sửa chữa sai lầm đó.
Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập,
ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời
chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc
khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều
này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực lớn nhất khiến
người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí
tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật
nhất ở người Do Thái là họ thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ
không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ
quả của các lao động sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi.
Thứ hai, trong bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn
tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều được ghi trong
kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên đúng, không
bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất gợi mở để mọi người
suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1
cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề
trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có
một câu trả lời, mà có nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm
chí còn để khoảng trống để mọi người cho trí tưởng tượng bay bổng với các hỏi
và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các
thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các điều ghi trong
kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng lực trí tuệ, làm cho họ
rất giỏi về luật.
Thứ ba, các bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống như một
cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các “Giáo điều”. Chẳng hạn, trong
Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất cả mọi người
Israel, kể cả các nô lệ và súc vật không được làm việc trong những ngày này.
Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái (Sabbath) được xem là ngày “nghỉ
tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các thành viên trong gia đình dành thời gian
này bên nhau, cùng trò chuyện, đi chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia đình cùng nhau
đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong ngày này, mọi người không được bật lửa (vì thời
xa xưa, bật lửa có nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn “đi làm”) và ăn đồ
ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang máy trong các cao ốc cũng để “chế
độ Sabath”, tức người Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu hiện của “làm việc”),
mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng tầng một từ tầng thấp nhất đến
tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày Chủ nhật là ngày làm việc đầu tiên của họ, và
điều ngạc nhiên là theo cách gọi trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm việc
trong tuần theo tuần tự là các ngày “sáng tạo”, chứ không phải ngày “đi làm”.
Người Do Thái coi trọng chuyện học hành
Người Do Thái coi trọng
chuyện học hành
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi.
Từ quan niệm đó, cách giáo dục trẻ em của người Do Thái rất đặc biệt. Trẻ em Do Thái được giáo dục ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ; được mẹ dạy chữ và dạy toán dưới nhiều cách thức ngay từ 3 tuổi...
Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa
của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố,
bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này,
cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực hiện hết
sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng
xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn mù
chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.
Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này
là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những
người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống
này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân khác ở Bắc Phi,
Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là điều phi thường. Không chỉ
thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời cực
thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi
giáo tin dùng và đóng vai trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn
nên, làm ra” với hệ thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam
Á, thậm chí tới Thượng Hải.
Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được
chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai một?
Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.
Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống
hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và cũng
là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH
THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do Thái (Hebrew
Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, vừa
giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có tương lai:
Một là, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải đọc kinh liên
tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà thờ… giúp người
Do Thái giữ được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của mình và được
truyền từ đời này qua đời khác.
Hai là, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của họ có
bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ vẫn hiểu được
nhau dù lang bạt hàng ngàn năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ khác nhau.
Điều đó giải thích tại sao người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về, nhưng đã nhanh chóng
gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được tái lập năm 1948.
Ba là, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái còn thạo
tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do Thái sử dụng
thông thạo hai ngoại ngữ từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những người hoặc
nhóm cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ số IQ lớn hơn nhóm,
hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn. Không chỉ vậy, kinh thánh không chỉ là
phương tiện duy trì ngôn ngữ, mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật, kinh tế
và khoa học thông thường ở trong đó.
Bốn là, niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng được ghi
trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu, làm ăn gì, thì người Do Thái
cũng quy ước về quần tụ tại Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1 năm. Đến
nay, truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở Israel thường về
Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới thì về ít
nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời trong bối cảnh người dân Do
Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem trong một thời kỳ dài từ hàng trăm năm
trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở người Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền
thống có từ cả ngàn năm nay và đến nay vẫn được duy trì trong cộng đồng Do
Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ thường nói đến việc “sớm hẹn gặp
nhau tại Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem vào năm tới”. Do đó, ước nguyện trở
về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do Thái và họ
không bao giờ quên điều này khi tha hương.
Người Do Thái chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
Đạo Do Thái và việc
duy trì nòi giống
Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do
Thái giáo giúp người Do Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và nhân giống gien “tốt”.
Thực ra, không chỉ người Do Thái làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài Hoa và
Việt Nam cũng có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa như “Trai anh
hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ tuệ tam tài nguyên thị đối” (Gái giỏi trai tài nom
thật đối), v.v…. Chắc chắn đây không chỉ là chuyện “tâm đầu, ý hợp” của trai
gái, mà còn liên quan đến việc duy trì nòi giống sau này.
Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người
Do Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay cho
việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển” gien của mình:
Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là những người
được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là người diễn giải Kinh
thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị “chính thống” và được
xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các Rabbis vẫn có con như những
người bình thường, và thậm chí có rất nhiều con. Do có uy tín cao trong xã hội,
nên họ dễ dàng chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là con cái của
các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con các nhà buôn.
Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh Do
Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách cho con
cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến khích người Do Thái
sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng trên thực tế
lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là sinh ra con cái
nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính điều này làm cho
người nghèo, người ở tầng lớp thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh có trách nhiệm
và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những người
có “gien” tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm chọn
lọc có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do Thái là
điều dễ hiểu.
Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay tại các
khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại Israel, phụ nữ, con
gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù bận công việc
đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng ngày để làm lễ trước
khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem là có “quyền năng” tuyệt đối
trong việc duy trì nòi giống. Con của một phụ nữ Do Thái đương nhiên được coi
là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với một phụ nữ không phải
Do Thái thì chỉ được coi là người Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được
coi là người Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô con
gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục” của cả gia đình và
dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa con mình
dứt ruột đẻ ra đã chết.
Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo
Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy
nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên
cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn giáo lớn hoặc
quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó
là:
- Duy trì được sự thống
nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau trong cùng một tôn giáo, duy trì
một đức tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ, sự phân liệt rõ nhất thể hiện ở
Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni, rồi nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh
Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là “chính
thống”, còn những dòng, nhánh khác là “ngoại đạo”, cần bị loại bỏ để làm “trong
sạch” Đạo Hồi;
- “Đồng hành” cùng
xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các nguyên tắc “cốt lõi” (tức
tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn giải và tự nhận các tính chất này còn
nhiều điều phải bàn);
- Tránh việc tạo ra
một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại chính tôn giáo
của mình.
Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các
“vấn nạn” ở trên hơn, do:
- Ngay khi ra đời, Do
Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình chống nhau sâu sắc giữa các
dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohamed qua đời, sự giằng
xé giữa những người cho rằng cần phải chọn người thừa kế hoặc có dòng màu trực
hệ để “hướng đạo” hạy chọn những người có khả năng nhất trong việc kế thừa và
phát triển di sản của Mohamed đã đưa đến việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh
lớn là Shia và Suni. Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí
không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không đi đến chỗ đối
đầu nhau bằng bạo lực. Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và thống nhất Đạo
Do Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
- Trong hệ thống luật
dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha tương tự như luật Sharia của Hồi
giáo mà một số nước như Arab Saudi, Brunei… áp dụng. Halakha bao gồm 613 điều
răn (commandments) với hệ thống tòa án riêng, và các “bản án” tôn giáo đối với
người có đạo thậm chí còn đáng sợ và nghiêm khắc hơn các bản án dân sự. Luật
Halakha tồn tại trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp sâu và điều
chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã hội. Nếu không tuân theo
Halakha, các Rabbis có quyền rút “Phép thông công” (excommunicate) – tương
đương với một bản án tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi qua đời,
linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên Thiên đàng.
- Người theo Đạo
chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống theo các giá trị truyền
thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm cách áp đặt lối sống của
mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản thân các Giáo sĩ (Rabbis) và những người
Orthodox không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc sống thanh bạch
của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những người Wahabbis cũng có cuộc sống thanh
bạch, khắc khổ, nhưng điều nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của mình
lên những dòng, nhánh khác.
- Khác với các Đạo
giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên, càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái rất khó, phải có căn cứ, bằng chứng
xác nhận tới ít nhất 4 đời trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng, đã là
“thiên sứ nhà trời”, “được chúa chọn” thì chỉ có ít người được hưởng vinh dự,
chứ đâu có thể kết nạp tràn lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở
thành Do Thái ngay được.
Trong những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là
bá chủ khu vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc
phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành người
Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm thù dân Do
Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con mắt
Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một người Do Thái,
cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng
trước đó 4 đời họ là người Do Thái.
Tản mạn thay lời kết:
Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái
Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo
kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần
như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ
tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng nghiễm
nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện ngày càng trở nên phổ
biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới
dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau được bán trên phạm
vi toàn thế giới.
Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất
rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:
Về các thức ăn Kosher:
- Một số con vật ăn
được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức ăn lại như bò, dê, cừu.
Các con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà. Lợn tuy có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn
ngựa, lạc đà tuy ăn cỏ nhưng không có móng chẻ.
- Ăn các loài có
cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như diều hâu,
chim ưng, đại bàng.
- Ăn các loài cá có
vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con cá không vảy như
lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc hến, các loài bò sát, côn trùng.
- Các thức ăn trung
tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật ong, rượu vang,
chè, café.
Về cách ăn đồ Kosher:
- Chỉ uống sữa và
các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher như bò, dê, cừu. Chỉ được
dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng thịt, hoặc 30 phút trước
khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng thời. Đồ chế biến sữa và thịt, kể cả
chậu rửa bát nhất thiết phải dùng riêng.
- Lúa mì, gạo, và một
số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước trái cây hoặc đồ chế
biến từ các loại loại quả như cam, quýt, bưởi… dưới 3 tuổi.
- Không ăn nội tạng
động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không ăn thịt, cá đồng
thời.
- Khi ăn thịt phải lấy
hết sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật sao cho con vật chết
nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra được hết tiết. Thậm chỉ còn phải rửa sạch
và ngâm miếng thịt trong nước 30 phút trước khi chế biến để ra hết máu,
- Các nhà hàng
Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu nướng và bị
phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu vi phạm.
Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng,
khem” phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ
ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy mà lúc nào
cũng đông khách ăn.
Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà
THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG
không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ
thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một lớp màu tôn giáo
thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và quyến rũ.
Tạm cắt nghĩa một số thứ:
- Theo người Do
Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu làm cho con vật chết đau
đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều bị “quở phạt”. Do
đó, giết nhanh để con vật mau chóng được hóa kiếp lên thiên đàng.
- Khi con vật cắt được
tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi. Thú tính và sự ngu muội
của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn thú vật hay gia cầm có tiết sẽ làm con người
lâu dần nhiễm “thú tính” và đầu óc trở nên trì độn, còn nòi giống đi đến chỗ
thoái hóa.
- Thịt ăn cùng với
cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau. Còn trái cây trong
3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có hại cho cơ thể.
- Uống sữa sau khi
ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm, lâu tiêu lại có
thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không thể hấp thụ nổi và dễ sinh bệnh.
- Trong điều kiện
thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung Đông, việc ăn uống tốt
giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với khí hậu khắc nghiệt, làm cho không chỉ
thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn người. Các cụ nhà ta chả nói bệnh
vào từ mồm đó sao?
Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew,
người Do Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc,
văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc sống tinh
thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt
hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tôn
giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật,
mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những
người được Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!
Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên
tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã
hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ
trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác và vì vậy đã
chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm thiên di trước khi “trở về
Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận
mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!
Kim Dung/Kỳ Duyên: Người Do Thái - sự thần kỳ của một dân tộc nhỏ bé (theo VFPRESS)
GS. Nguyễn Lân Dũng: Vì sao người Do Thái thông minh nhất thế giới (Tầm nhìn)
TS. Hoàng Anh Tuấn: Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái (Nghiên cứu
Quốc tế)
GS. Nguyễn Lân Dũng: Vì sao người Do Thái thông minh nhất thế giới (Tầm nhìn)
TS. Hoàng Anh Tuấn: Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái (Nghiên cứu
Quốc tế)
Notes về Israel:
ReplyDelete- Ngày thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác trong tuần và đây có thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động sau này;
- Lễ Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả nhà cùng ngồi ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng đồng (khi hàng xóm cùng kéo nhau đến nhà thờ);
- Là cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động trong ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
- Vợ chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.
TS. Hoàng Anh Tuấn:
ReplyDeleteCó ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay.
CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.
CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.
CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi thế nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK. Sau này mới thấy rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt buộc, việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái và bình đẳng giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là cách người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!