Trở lại 1 năm trước đây, có 1 người đánh giá Việt Nam ở một góc nhìn khác...
Thomas J. Vallely: Việt Nam về cơ bản thất bại trong quá trình công nghiệp hóa
Năm 1985, hạ nghị sĩ bang Massachusetts (USA) Thomas Vallely
lần đầu trở lại Việt Nam kể từ sau cuộc chiến với một mục đích riêng. Là cựu
lính thuỷ đánh bộ trong chiến tranh, ông muốn làm bộ phim quảng cáo ngắn cho cuộc
chạy đua vào Quốc hội Mỹ vào năm sau.
Bộ phim thực hiện thành công còn cuộc chạy đua của Vallely thì
thất bại. Nhưng lần trở về của ông không phải là vô vọng. Chuyến đi đó gieo lại
ông mong muốn được làm gì đó với Việt Nam. Một cử chỉ trả ơn mà ông định là tặng học
bổng đưa một sinh viên Việt Nam tới trường chính sách Kennedy của ĐH Harvard trở
thành khởi đầu của chương trình Việt Nam tại ĐH Harvard. Có mối quan hệ thân
thiết với các thượng nghị sĩ từng là cựu binh như John Kerry, John
McCain,...ông là người đưa chương trình học bổng Fulbright tới Việt Nam từ năm 1992 –
một loạt các nhà lãnh đạo hiện tại như Nguyễn Thiện Nhân, Phạm Bình Minh, Cao Đức
Phát,...đều là cựu sinh viên của chương trình này. Sau học bổng Fulbright là
chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (FETP) mà sau này được nâng cấp thành
trường Fulbright và ông cũng là người sáng lập của quỹ học bổng VEF mà mỗi năm
quốc hội Mỹ giành cho 5 triệu USD. Song song với các chương trình giáo dục này
là các báo cáo về phát triển và tình hình kinh tế Việt Nam cho chính phủ mà ông tham
gia cùng với các chuyên gia của ĐH Harvard. Chuyến đi ngắn của năm 1985 trở
thành khởi đầu của cuộc gắn bó dài tới hơn 27 năm mà khi nhìn lại ông thừa nhận
là “không bao giờ nghĩ mình lại gắn bó lâu tới vậy.”
27 năm qua đi, tối 24-3-2014, giải thưởng Phan Châu Trinh lần thứ 8 về văn hoá và giáo dục đã chính thức ghi nhận những đóng góp của Thomas Vallely cho nền giáo dục Việt Nam. Giải thưởng ghi nhận ông vì những đóng góp quan trọng cho giáo dục đại học ở Việt Nam. Ở tuổi 87, nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, chủ tịch quỹ Phan Châu Trinh, bước lên sân khấu để trao giải cho ông. Nhà văn Nguyên Ngọc trong diễn văn kết luận ca ngợi ông “sao hiểu Việt Nam đến thế, cặn kẽ và sâu sắc đến thế, thấu đáo và cơ bản đến thế, để kiên định suốt gần ba mươi năm” đem đến cho Việt Nam hai điều cơ bản nhất: một cuộc cải cách kinh tế theo hướng thị trường đích thực, và một công cuộc cải cách giáo dục thực sự triệt để và căn bản.
27 năm qua đi, tối 24-3-2014, giải thưởng Phan Châu Trinh lần thứ 8 về văn hoá và giáo dục đã chính thức ghi nhận những đóng góp của Thomas Vallely cho nền giáo dục Việt Nam. Giải thưởng ghi nhận ông vì những đóng góp quan trọng cho giáo dục đại học ở Việt Nam. Ở tuổi 87, nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, chủ tịch quỹ Phan Châu Trinh, bước lên sân khấu để trao giải cho ông. Nhà văn Nguyên Ngọc trong diễn văn kết luận ca ngợi ông “sao hiểu Việt Nam đến thế, cặn kẽ và sâu sắc đến thế, thấu đáo và cơ bản đến thế, để kiên định suốt gần ba mươi năm” đem đến cho Việt Nam hai điều cơ bản nhất: một cuộc cải cách kinh tế theo hướng thị trường đích thực, và một công cuộc cải cách giáo dục thực sự triệt để và căn bản.
Trong lời đáp từ, Vallely nhắc lại về tư tưởng của Phan Châu
Trinh về giáo dục là nền tảng của phát triển và nhắc lại “cải cách giáo dục là
thách thức lớn nhất ở Việt Nam hiện nay” và nếu không cải cách nhanh chóng giáo dục
thì Việt Nam có nguy cơ không đạt được “tiềm năng to lớn của mình.” Trong bài đáp từ,
ông cũng nhắc về “chủ nghĩa ngoại lệ” (tự coi mình đặc biệt) như một thách thức
đối với Việt Nam. Cuộc trò chuyện của Tuổi Trẻ Cuối Tuần với ông bắt đầu từ “chủ nghĩa ngoại lệ.”
Thomas Vallely, ông đề cập tới chủ nghĩa ngoại lệ trong bài đáp từ của mình tại lễ trao giải Phan Châu Trinh như là một thách thức lớn đối với giáo dục Việt Nam. Xin ông nói rõ hơn về điểm này.
Thomas Vallely, ông đề cập tới chủ nghĩa ngoại lệ trong bài đáp từ của mình tại lễ trao giải Phan Châu Trinh như là một thách thức lớn đối với giáo dục Việt Nam. Xin ông nói rõ hơn về điểm này.
Trong diễn văn tôi đề cập cả chủ nghĩa ngoại lệ của Mỹ (tự coi mình là đặc biệt) và chủ nghĩa ngoại lệ Việt Nam và tôi nghĩ từng nước đều có cái chủ nghĩa ngoại lệ của riêng mình. Khi một nước cân nhắc cách thức đổi mới các trường đại học, họ nên nhớ đến những nguyên tắc nền tảng – ví dụ như tự do học thuật, cơ chế tự chủ, cơ chế trách nhiệm đối với xã hội,... – mà được tất cả các trường đại học hàng đầu thế giới cùng chia sẻ. Các nguyên tắc, giá trị này, không giới hạn ở phạm vi khu vực. Điều đó không có nghĩa là các trường đại học không cần để ý tới các điều kiện văn hoá xã hội – đương nhiên là họ cần. Tuy nhiên, các trường đại học tốt nhất thế giới, dù đó là ở Boston, Berlin hay Bắc Kinh đều có những giá trị nền tảng nhất định. Một cách để tránh cái bẫy tư duy ngoại lệ này là phải so sánh mình với các nước khác bằng cách tham gia các chương trình thi cử quốc tế hay phấn đấu để được các tổ chức quốc tế thừa nhận.
Nghị quyết mới của ban chấp hành trung ương về cải cách giáo dục được giáo sư Hoàng Tuỵ, một người phê phán mạnh mẽ những thất bại của nền giáo dục Việt Nam, là nghiêm túc và toàn diện nhất trong vài thập kỉ qua. Ông có đồng ý với giáo sư Hoàng Tuỵ về điểm này?
Từ những gì tôi biết thì nghị quyết đó đưa ra chiến lược rất tốt cho giáo dục VN ở mọi cấp độ.
Ông có quan ngại gì về chiến lược mới này?
Trong hơn một thập kỉ qua, VN đã đưa ra một số chính sách, luật và nghị định liên quan tới giáo dục như nghị định 14, luật giáo dục đại học hay gần đây là nghị quyết của Trung ương. Thách thức đối với VN không phải là chuyện diễn giải chính sách nhưng thường là ở chuyện thực hiện các chính sách đã được thông qua.
Ông đã gắn bó với giáo dục VN hơn hai thập kỉ qua và từng chứng kiến một loạt quyết sách về cải cách giáo dục. Có cái bẫy hay trở ngại nào có thể làm trật một chiến lược tốt? Có điều gì cần cẩn trọng.
Ở Việt Nam và các nước đều có xu hướng là thường coi giải pháp với giáo dục đại học là câu chuyện nguồn lực – rằng đầu tư nhiều nguồn lực sẽ dẫn tới kết quả tốt hơn. Trong khi nguồn lực là cần thiết, đó không phải là yếu tố quan trọng duy nhất. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều lần rằng quản trị giáo dục có lẽ là thành tố quan trọng nhất. Và đó cũng là yếu tố mà rất khó đưa ra đúng được trong chính sách giáo đục đại học.
Với đại học Fulbright mà mà ông đang triển khai, có điều gì khiến ông không hài lòng. Tôi biết dự án đã được lãnh đạo hai nước công khai ủng hộ nhưng có vẻ quá trình triển khai vẫn mất thời gian và có những cản trở hành chính?
Kể từ khi đại học Fulbright được công bố trong tuyên bố chung giữa chủ tịch nước Trương Tấn Sang và tổng thống Barack Obama, dự án đã có những tiến bộ đáng khích lệ. Tôi rất vui mừng với sự hỗ trợ mà chúng tôi có được từ phía chính phủ Mỹ và Việt Nam. Tuy nhiên, đại học Fulbright là dự án tư nhân và phi lợi nhuận. Điều đó có nghĩa là mặc dù hỗ trợ của chính phủ là quan trọng, thành công cuối cùng của chúng tôi dựa vào chuyện vận động sự hỗ trợ của các cá nhân, các tập đoàn và các tổ chức thiện nguyện ở Việt Nam, Mỹ và các nước. Tôi tin là chúng tôi sẽ là được điều này.
Mọi người đã nói nhiều về các vấn đề của hệ thống giáo dục Việt Nam: nhuốm màu tiền bạc, thiếu tự do học thuật, quản trị giáo dục kém...và có vẻ càng nghĩ thì càng thấy bế tắc. Có điểm sáng nào mà ông thấy có thể bám víu vào cho thay đổi?
Rõ ràng tài nguyên lớn nhất của Việt Nam, trong giáo dục hay trong mọi lĩnh vực khác, là con người. Nơi nào trên thế giới tôi đi tôi cũng gặp những sinh viên và chuyên gia Việt Nam rất tài năng. Chuyện thành bại của Việt Nam trong xây dựng hệ thống giáo dục đại học có thể hỗ trợ cho phát triển kinh tế và chuyển dịch xã hội phụ thuộc vào khả năng chính quyền có thể thu hút một tỉ lệ những người trẻ tài năng theo đuổi sự nghiệp trong giáo dục đại học. Đặc biệt quan trọng là những người trẻ đang theo đuổi các bằng trên đại học ở nước ngoài. Họ là thế hệ những học giả và nhà khoa học tiếp theo của Việt Nam.
Sau chiến tranh, ông bắt đầu ở Việt Nam bằng việc thiết lập chương trình Fulbright, rồi sau đó là chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, quỹ học bổng VEF rồi giờ là ĐH Fulbright. Tầm nhìn của ông với giáo dục Việt Nam khi đó và giờ sau hơn 20 năm có gì thay đổi không?
Tôi đã và sẽ luôn tin tưởng vào sức mạnh của việc trao đổi học
thuật. Đầu tư vào giáo dục cho con người là đầu tư cho tương lai của đất nước.
Cùng lúc, càng làm việc lâu ở khu vực này, tôi càng nhận thấy giới hạn của trao
đổi học thuật. Việc chỉ gửi số lượng lớn người đi du học nước ngoài không đảm bảo
chất lượng các cơ sở giáo dục trong nước sẽ tăng lên. Một phần thách thức lớn của
cải thiện giáo dục đại học là tạo môi trường để dẫn đến chất lượng học thuật xuất
sắc. Đó là điều chúng tôi đang cố làm tại trường Fulbright và là điều chúng tôi
sẽ cố làm ở quy mô lớn hơn tại ĐH Fulbright.
Ông có mất niềm tin
vào VN? Phải chăng đó là lý do giờ ông tập trung nhiều vào Myanmar hơn là VN?
Tôi học ra một điều từ lâu rằng không bao giờ được đánh giá
thấp người VN. Vì lý do đó tôi sẽ không bao giờ mất hi vọng vào VN.
Dường như những gì ông
nói có vẻ ngoại giao lịch thiệp quá?
Không tôi tạo nên được sự nghiệp là nhờ chuyện phê phán VN. Không chỉ trong lĩnh vực giáo dục mà cả về kinh tế,...Nếu không có những lời phê phán đó thì tôi không nghĩ chúng tôi có bất cứ ảnh hưởng gì.
Xin ông nói thêm một
vài ví dụ về chủ nghĩa ngoại lệ ông thấy ở VN?
Như tôi nói hôm trước. Tôi lấy ý tưởng về chuyện ngoại lệ từ một bài báo của giáo sư Hoàng Tuỵ miêu tả tại sao ông thấy ngao ngán vô cùng khi nghe chức danh “giáo sư tiến sĩ” ở VN. Theo nghĩa đó, ở VN tạo ra hệ thống riêng về cách quy định giáo sư (ở các nước hàm giáo sư là do các trường phong) mà không làm như thế giới vẫn làm – nói cách khác VN theo cái ngoại lệ tự họ nghĩ ra. Và khi tự bó hẹp trong cái thế giới của mình mà vẫn nghĩ là mình giỏi thì đó chính là biểu hiện của chủ nghĩa ngoại lệ.
Khi tự nghĩ ta có thể
tạo ra một nhóm các học giả mà có cái luật lệ riêng của mình mà không nơi nào
trên thế giới làm thì đó có nghĩa là chủ nghĩa ngoại lệ. Và VN có hệ thống giáo
dục đại học nghĩ mình là ngoại lệ vậy.
Hãy nhìn giáo sư Ngô Bảo Châu và Đàm Thanh Sơn, họ không hề
theo chủ nghĩa ngoại lệ. Họ hoà vào với thế giới. Họ đang dạy ở ĐH Chicago – đó
là địa hạt của kiến thức thế giới. Hai giáo sư đó không cần chủ nghĩa ngoại lệ
và họ nổi tiếng trên toàn thế giới. Chủ nghĩa ngoại lệ là cái cách mình chối bỏ
và nói “tôi không muốn làm điều đó.” Tự chối bó và nói tôi không muốn thành Ngô
Bảo Châu hay Đàm Thanh Sơn.
Tôi nghĩ là khá phổ biến ở VN mọi người hay tự nghĩ là mình
“ngoại lệ.”
Ông đã làm việc ở VN
30 năm rồi ông có nghĩ chuyện đó là mới không?
Anh biết đấy, tôi đang làm ở Myanmar. Và mọi người hỏi tôi sự
khác biệt lớn nhất giữa làm việc ở Myanmar với làm việc ở VN là gì.
27 năm trước khi chúng tôi bắt đầu làm việc với giới lãnh đạo
VN, họ rất tự hào – điều có thể hiểu được – về chiến tích quân sự và ngoại giao
của mình. Họ chiến thắng đế quốc Mỹ, họ thống nhất đất nước,...cái giá rất lớn
nhưng họ làm được. Sự hãnh diện đó dẫn tới việc họ thay đổi sang hệ thống hiện
đại hơn và tiến hành Đổi mới.
Ở Myanmar câu chuyện trái ngược hoàn toàn. Họ là những thất
bại. Hơn 60 năm mà họ không có tăng trưởng kinh tế. Ở đây vẫn là cái chế độ
phong kiến và giờ họ đang hi vọng vào cơ hội thứ hai để vươn lên. Một vài người
có tư tưởng cải cách ở Myanmar họ không hề tự hào về quá khứ, họ thấy xấu hổ về
nó thì đúng hơn.
Khi bạn chiến thắng trong cuộc chiến thứ 2 và thứ 3 ở ĐÔng
Dương, bạn có quyền cảm thấy mình “ngoại lệ.” Nhưng không thể để cái suy nghĩ
“ngoại lệ” đó chi phối cả hệ thống của bạn rồi giờ dùng nó như là cái lý lẽ để
biện minh (cho trì trệ).
Ông có nghĩ là VN đã tới
mức mà rơi vào con đường của thất bại – như kiểu Myanmar?
Không. VN phát triển chậm nhưng Myanmar còn phát triển chậm
hơn nữa. Trong các báo cáo mà chúng tôi viết cho lãnh đạo VN, chúng tôi nói rõ
là VN đang phát triển rất dưới tiềm năng của họ. VN đáng ra phải phát triển từ
8-10%/năm nhưng thực tế thì có lẽ chỉ phát triển ở mức 3%/năm. VN đã tự để mình
phát triển chậm vậy, tiếp tục duy trì hỗ trợ cho những công ty và cá nhân hoạt
động không hiệu quả.
VN đã không đưa vào
khuôn khổ các doanh nghiệp nhà nước, VN đã không kiểm soát giới đại gia. VN để
họ tự tung tự tác và điều đó dẫn tới tốc độ tăng trưởng chậm của VN.
Tôi nghĩ thông điệp đầu năm của thủ tướng VN, nếu đọc kỹ anh
sẽ thấy đây là lần đầu tiên một chính trị gia VN nhấn mạnh sự thay đổi của
chính trị gắn liền với thành công. Tôi nghĩ là ông ta đúng. Nếu VN không thay đổi
sự tham gia của các nhóm trong xã hội thì sẽ khó mà có tăng trưởng nhanh được.
Khi tôi bắt đầu làm việc ở VN hồi năm 1989, mức thu nhập GDP
đầu người giữa VN và Trung Quốc tính theo sức mua (PPP) là ngang nhau khoảng
750 USD . Và giờ thì thu nhập đầu người của Trung Quốc hơn gấp đôi VN rồi. GDP
đầu người tính theo sức mua (PPP) của họ sắp đạt 9.000 USD/năm còn VN thì giờ
là khoảng 3.500 USD (IMF October 2013 World Economic Outlook). VN đã không tổ
chức mọi thứ theo cách hiệu quả hơn như cách Trung Quốc, Hàn Quốc hay Đài Loan
làm trong giai đoạn công nghiệp hoá.
VN về cơ bản thất bại trong quá trình công nghiệp hoá và giờ
đang phải bắt đầu lại. Tôi nghĩ thông điệp của thủ tướng về cơ bản nói rất rõ
“tôi muốn một cơ hội thứ hai.” Và đó là điều tốt (khi ông nói vậy). Tôi khá ngạc
nhiên.
Chủ nghĩa ngoại lệ ở đây là: VN không làm như Trung Quốc,
Hàn Quốc, Đài Loan đã làm, mà tự làm theo ý VN muốn. Tôi tiếp tục đưa tiền cho
những công ty không hiệu quả, tôi không thể kiểm soát giới đại gia, tôi cứ để
chuyện quan liêu tiếp tục, tôi không sửa hệ thống giáo dục,...tôi có thể làm bất
cứ thứ gì tôi muốn và tôi sẽ vẫn phát triển được như các nước – đáng tiếc là thực
tế đã không diễn ra như vậy. Chủ nghĩa
ngoại lệ chỉ cho tôi tăng trưởng 3% trong khi đáng ra tôi phải tăng trưởng 9%.
Trong 30 năm ông gắn liền với nền giáo dục VN,
ông có thấy đó là xu hướng đi xuống của hệ thống giáo dục?
Tôi nghĩ tôi từng thấy đà tiến sau khi VN gia nhập WTO. Khi
đó ai cũng nghĩ đó là đà để VN bước tới một nền kinh tế tư nhân hơn – sẽ để tư
nhân được chi phối quá trình công nghiệp hoá hơn. Nhưng rồi VN lại lo lắng về
chuyện đó và chặn lại đà công nghiệp hoá của khối tư nhân.
VN chấp nhận để cho khối doanh nghiệp FDI được phát triển mạnh
nhưng với khối phi-FDI thì VN lại đi ngược lại về hệ thống phi kinh tế thị trường
trước kia. Đó là điều cần thay đổi vì cách vận hành đó không hiệu quả.
Như anh thấy, khối tư nhân thực tế bị kìm chân lại. Khối
ngân hàng lấy tiền rồi cho những người không hề có năng lực, không hiệu quả
vay. Đó là điều làm cho kinh tế phát triển chậm. Sự tăng trưởng chậm đã kéo dài
ở VN. Trung Quốc đã phát triển tốt hơn VN rất nhiều lần. Trong giai đoạn từ
1989-2014, GDP đầu người của Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi so với VN. Họ kỉ luật
hơn trong quá trình công nghiệp hoá và họ ít chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa ngoại
lệ.
Tôi nghĩ về nhân sự VN cần một cơ chế như tập đoàn Viettel.
Một hệ thống mà bạn có thể sa thải người nếu không hiệu quả. Ở Trung Quốc, nếu
giáo sư làm việc không tốt thì anh thôi không được làm giáo sư nữa.
Có điểm nào trong chiến
lược giáo dục mới khiến ông chú ý không?
Tôi nhớ nghị quyết 14/2005 của chính phủ về đổi mới giáo dục
cuối cùng thì dường như VN chẳng thực hiện nghị quyết đó. Nghị quyết đó cũng tốt
nhưng cuối cùng thì VN chẳng làm gì cả. Vấn đề luôn là triển khai chứ những gì
họ nói thì đều ổn.
Nếu về nghị quyết có lẽ tôi sẽ viết khác đi về vấn đề nhân lực.
Tôi cũng nghĩ là chuyện tự chủ (đại học) là không đủ mà còn cần nói về quản trị
giáo dục. về quản trị, ở VN hệ thống quản trị giáo dục vẫn đóng. Chưa có cơ chế
mở về lựa chọn hiệu trưởng hay hội đồng lãnh đạo đại học ở VN nhưng không nên lẫn
lộn giữa tự chủ và quản trị giáo dục. Giáo dục VN cần sự quản trị giáo dục mới
– một sự quản trị mà tạo ra được thành tựu về mặt học thuật. Quản trị giáo dục
nên tư duy như kiểu các hãng tư nhân vận hành: hệ thống cũ vận hành không tốt
thì nên thay đổi. Ở ĐH Fulbright, chúng tôi sẽ vận hành khác đi.
Từ cái báo cáo về giáo dục đại học năm 2008 mà
ông viết cùng với Ben Wilkinson thì các vấn đề đã thay đổi thế nào?
Thực tế thì có rất
nhiều người trong Đảng muốn đẩy những ý tưởng chúng tôi đưa ra (trong báo cáo).
Giáo dục thực tế rất
giống một hệ thống độc quyền. Nếu anh để các nhóm tư nhân tham gia vào, hệ thống
giáo dục sẽ thất bại. Giáo dục không thể là mô hình vì lợi nhuận được. Các đại
học ở Mỹ không phải là các trường vì lợi nhuận. Ngay kể cả các đại học tư nhân
thì họ cũng không phải vì lợi nhuận. Nếu để kiếm tiền thì anh sẽ chẳng bao giờ
có những khoa như vật lý học, anh chẳng thể kiếm tiền bằng việc dạy kịch
Shakespeare, không thể kiếm tiền khi anh dạy nhạc, dạy nhân chủng học hay triết
học. Thực tế là anh lỗ. Và anh cần nhà nước phải trợ cấp thông qua tiền học hay
thông qua các dự án nghiên cứu. Đó là lời khuyên của chúng tôi cho chính phủ VN
– đừng dùng hệ thống giáo dục chỉ toàn các tập đoàn tư nhân.
Vậy trường đại học Fulbright sẽ khác thế nào?
ĐH Fulbright là đại học phi lợi nhuận. Chúng tôi không cố kiếm
lời bằng trường ĐH Fulbright. Đây sẽ là đại học phi tư lợi nhuận đầu tiên ở VN
mà không phải là công ty. Cái mới ở ĐH Fulbright là chúng tôi không chỉ muốn dừng
là ĐH mới tốt nhất ở VN mà chúng tôi muốn một đại học mới tốt nhất trên thế giới.
Chúng tôi không định mang Harvard tới VN mà chúng tôi chỉ muốn
dùng hệ thống công nghệ mới cho giáo dục, một đại học hàng đầu ở thế giới đang
phát triển.
Trong gần 30 năm vừa rồi,
điều gì khiến ông thất vọng nhiều nhất trong quá trình làm việc tại VN?
Tôi vẫn nghĩ VN sẽ thành công hơn thế. VN đã phát triển dưới
sức của mình. VN đã có thể, và đến giờ vẫn còn tiềm năng để thành công – nhưng
tự các bạn quyết định là không muốn thành công như vậy. Và điều đó làm tôi thất
vọng.
Sao ông nói là tự quyết định không muốn thành
công?
Khi tôi đọc thông điệp đầu năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
tôi có cảm giác như ông có đọc cuốn sách “Why Nations Fail” (Tại sao quốc gia
thất bại). Thông điệp của cuốn sách là các nước phải có những thể chế kinh tế
và chính trị có sự tham gia đầy đủ của các đại diện (trong xã hội). Để là một đất
nước tăng trưởng nhanh và hùng mạnh, thì cần đủ cả thế chế kinh tế và chính trị
mang tính đại diện như vậy.
Đó là điều còn thiếu
(tại VN) và quyết định không làm điều đó đồng nghĩa với việc là tự quyết định
không muốn mình thành công. Quyết định đó tiếp tục được lặp lại để tạo ra một sự
cân bằng chính trị mà không tạo ra thay đổi. Điều đó không chỉ gây thất vọng
cho tôi mà còn gây thất vọng với tất cả những người sống ở đây.
Hệ thống giáo dục VN thì đang khủng hoảng và
ông nói về việc xây dựng một trường đại học hàng đầu thế giới. Có vẻ là xa vời
quá chăng?
Đó là thách thức rất lớn. Nguồn lực về con người là nguồn lực
lớn của VN.
Chúng tôi vẫn nói điều
này. Một điều mà ở hệ thống giáo dục VN vẫn còn sự liêm chính chính là cuộc thi
đầu vào ở Đại học. Các ĐH công không phải là tốt nhưng những học sinh giỏi vẫn
thi vào đó. Và bài thi đầu vào vẫn còn được đảm bảo (không bị tham nhũng).
Chúng tôi sẽ cố tận dụng và khai thác điểm đó – vẫn còn nhiều người trẻ, giỏi
đi thi đại học. Chúng tôi sẽ làm điều đó – đến giờ chưa có trường nào tận dụng
được điều đó hết. Chúng tôi không phải là xây trường ở một nơi không có gì hết.
Khi tôi ở Mỹ, mọi người cũng suốt ngày tranh cãi về chuyện
chất lượng giáo dục rồi đổi mới giáo dục ở đó.
Những trường chất lượng cao nhất ở Mỹ vẫn rất đảm bảo. Những
trường ở top 200 ở Mỹ thì chất lượng vẫn rất tốt.
Ông có thấy những tín hiệu tích cực gì ở VN.
Như ông nói tín hiệu tích cực trong bài thông điệp của thủ tướng
Tôi có thấy. Tôi nghĩ thông điệp của thủ tướng là rất ấn tượng.
Tôi nghĩ điều ông muốn nói là hãy tiếp tục cuộc đối thoại về hiến pháp đã làm từ
năm ngoái. Năm ngoái khi ở VN có làm góp ý về hiến pháp các bạn có hơn 25 triệu
ý kiến tham gia góp ý. Tôi nghĩ có xu hướng muốn ủng hộ việc cải cách về quản
trị, về điều hành và cuộc tranh luận đó là rất sôi nổi. Tôi nghĩ thủ tướng muốn
tiếp tục xu thế đó và muốn duy trì cuộc đối thoại từ năm ngoái – ông thấy những
giá trị trong cuộc tranh luận đó và muốn tạo ra sự thay đổi về chính trị và tôi
nghĩ đó là thông điệp rất tốt từ một chính trị gia đang tìm cái cơ hội thứ hai
cho bản thân.
Một trong những điều
đã thay đổi VN chính là nhờ internet. Chính trị VN giờ rất sống động cũng nhờ
điều này. Internet thực tế là thành tựu của chính quyền. Chính chính quyền tạo
ra sự phát triển sống động của hệ thống viễn thông này. Tôi có nói về Viettel bởi
chính nhờ Viettel mà đã có sự cạnh tranh (trong ngành viễn thông). Khi anh có cạnh
tranh, thực tế người Việt thường làm rất tốt – trong khi với hệ thống mệnh lệnh
thì anh chỉ phát triển chậm. VN thực tế sẽ giỏi khi đẩy vào môi trường cạnh
tranh. VN vẫn còn cơ hội để có thể vào nhóm các nước thành công nhưng VN phải
nhanh chân lên.
Mọi người vẫn nói về Myanmar như một điểm sẽ cạnh
tranh với VN.
Myanmar là cái nơi
hoàn toàn khác. Đó vẫn là chế độ phong kiến ở Myanmar. Chế độ xã hội chủ nghĩa
vẫn phát triển và tốt hơn nhiều. VN sử dụng chế độ toàn trị để đi từ đói nghèo
sang một nước có thu nhập trung bình. Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Trung Quốc
đều như vậy. Nhưng khi đã lên tới thu nhập trung bình thì phải nghĩ cách làm
khác. Và đó là cái chỗ VN đang vướng lúc này. Myanmar thì thậm chí còn chưa tới
cái điểm bằng VN khi VN bắt đầu xã hội chủ nghĩa sau 1945.
VN giờ vẫn là đối tượng
chi phối trong mô hình Trung Quốc+1. VN vẫn là điểm đổ đến của FDI trong mô
hình Trung Quốc+1. Nhưng giờ nó ở mức giống như là anh có quá nhiều nguồn vốn
FDI rồi. VN rơi vào trạng thái “lời nguyền tài nguyên.” Nhưng thay vì có dầu
như kiểu Putin, VN lại có vốn FDI và FDI quá nhiều đã che hết nhưng cái xấu và
vấn đề ở nội tại VN.
FDI giờ giống dầu. VN làm rất nhiều điều sai nhưng nhiều khi
không để ý tới những cái sai đó (vì có FDI che chắn cho). VN bị rơi vào trạng
thái nghiện FDI (giúp che chắn sai lầm) và không chịu thay đổi. Giờ thì thủ tướng
VN nói về chuyện kết nối giữa chính trị với thay đổi, nói về nền chính trị với
sự đại diện của các nhóm trong xã hội. Đó là điều rất quan trọng.
Thời điểm những năm 80 đó có bao giờ ông nghĩ
mình sẽ dính líu với VN lâu tới vậy?
Không, không bao giờ nghĩ là lâu tới vậy. Thực sự thì tôi mừng
là sự nghiệp chính trị của tôi thất bại. Tôi thích cái nghiệp này hơn nhiều so
với cái nghiệp trong chính trị nếu tôi còn theo đuổi. Nên tôi vẫn hay nói là
may là tôi tranh cử thất bại.
Đó là cái nghiệp thú
vị. Tôi được ở cái ghế đầu để chứng kiến những biến chuyển của VN trong thời
gian dài: cả những thành công cũng như nhưng yếu kém ở VN. Tôi có cái sự nghiệp
khá thú vị ở VN. Nhưng sự thật thì sự nghiệp của tôi ở VN không chỉ đơn thuần
là về VN mà về sự phát triển của VN, và quá trình xây dựng một đất nước.
Quan hệ tôi với VN giống như là cái mối quan hệ yêu-ghét. Có
khi tôi yêu VN, có khi thì VN khiến tôi muốn phát khùng.
Nguyễn Thanh Tuấn (Tuổi Trẻ)
Box:
“Bất kỳ một nền giáo dục đại học có chất lượng nào đều có một
số đặc điểm có tính phổ quát, vượt ra khỏi bối cảnh địa phương. Những trường đại
học xuất sắc nhất trên thế giới có chung một số thuộc tính cơ bản, trong đó bao
gồm tự do học thuật, trọng dụng nhân tài, và minh bạch. Nỗ lực cải thiện giáo dục
đại học mà bỏ qua những phẩm chất vô hình này thường không bao giờ đem lại kết
quả mong muốn. Các trường đại học nên bắt rễ sâu từ nền văn hóa bản địa, nhưng
sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu dùng văn hóa bản địa là cái cớ để hạn chế những
nguyên tắc cốt lõi của đại học, như tự do học thuật chẳng hạn.” (trích đáp từ của
Thomas J. Vallely)
Nếu VN kịp thời trở thành rồng và cọp của châu Á cùng với Hàn Quốc và Singapore thì nay vấn đề này đã không phải bàn. Như tác giả của "Chính đề Việt Nam" nhận thấy, nguy cơ và cơ hội ngàn năm có 1 hiện nay đang đẩy VN tới 1 con đường tất yếu để phát triển dân tộc. Chấm dứt mọi bê bối, tồi tệ kéo dài trong hơn 40 năm và 1 lịch sử bị nô dịch/Bắc thuộc hơn 1000 năm là điều phải làm bằng mọi giá ngay lúc này nếu không muốn VN bị cuốn vào cơn u mê tàn khốc hơn cả những gì từng xảy ra từ thời quan lại nhà Nguyễn xưa kia và vẫn không thoát khỏi số phận của 1 nước nhược tiểu bị lệ thuộc u mê cho đến nay...
ReplyDelete