VỤ KIỆN TRẦN ĐỨC THẢO - JEAN PAUL SARTRE Ở PARIS
(Nhân sự kiện khủng khiếp vừa xảy ra ở Paris, xin chia sẻ một cách
tranh luận khác của người Paris hơn 70 năm trước, rất văn minh và lịch
lãm!)
Đầu năm 1941 Paris-khi đó hoàn toàn bị Đức phát xít chiếm
(khác với miền Nam nước Pháp vẫn còn dưới quyền quản lý của chính quyền
Pétain) đã ầm ĩ lên một vụ kiện “vô tiền khoáng hậu” và được báo giới
chăm sóc, tường thuật kỹ lưỡng và giới trí thức của “kinh đô ánh sáng”
theo dõi sát sao. Tên của nó được báo giới gọi hơi “lá cải” một chút là
“Vụ kiện mang tính chất Parisien nhất trong lịch sử Paris”, được khoe
ngầm là chỉ ở một nơi trí thức được trọng vọng như Paris thì mới có thể
có một vụ kiện tương tự, trong hoàn cảnh thế chiến lần thứ 2 đang gay
cấn như vậy!
Người bị kiện là Jean-Paul Sartre - một thần tượng
của giới trí thức trẻ thủ đô. Anh ta suốt ngày “ngồi đồng“ ở một quán
cafe tại quận 6, gần tháp Eiffel, nơi trước đây là tụ điểm của hai nhà
thơ nổi tiếng nhất Pháp đương đại - Verlaine và Baudelaire, và bây giờ đến
thời Satre “độc diễn”, bọn thanh niên vây quanh “ngôi sao” để hỏi ý
kiến về mọi chuyện trên trời dưới biển, chẳng khác gì thỉnh giảng của
“sư phụ” hay đúng hơn là guru. Sartre đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm cao
cấp Paris về ngành triết và trở thành người đại biểu nổi bật của chủ
nghĩa nhân đạo hiện sinh. Lúc này Sartre đang cặp kè với Simone de
Beauvoir - nữ văn sỹ và người đấu tranh cho bình đẳng giới nổi tiếng nhất
nước Pháp thời bấy giờ, nàng còn nổi tiếng hơn cả Sartre! Nàng học toán
cao cấp, rồi văn học, nghệ thuật, rồi học triết - nàng ghi danh tại trường
của Sartre, và sau đó ở cuộc thi triết học để đánh giá sinh viên triết
toàn nước Pháp năm 1928 thì Sartre chiếm ngôi vị quán quân, còn nàng
đứng thứ hai (nhưng là sinh viên 21 tuổi - trẻ nhất trong lịch sử - đã vượt
qua kỳ thi đó!) , và thế là bắt đầu một tình bạn, tình yêu của hai
người đồng chí hướng - họ đều trở thành những nhà văn và nhà triết học
hàng đầu nước Pháp...Chưa bao giờ trở thành vợ chồng (cả hai đều không
chấp nhận hôn nhân), nhưng ngày nay hai ngôi mộ của họ nằm cạnh nhau tại
nghĩa trang Montparnasse tại Paris. Đã quá nhiều người viết về họ,
nhưng ở status này họ chỉ là “bên bị”.
“Bên nguyên” lúc này mới
chỉ nổi tiếng tại trường Đại học Sư phạm cao cấp Paris thôi, nhưng thế
cũng là giỏi rồi, vì anh mới học năm thứ ba khoa triết. “Annamite”, tên
là Trần Đức Thảo (lúc này Pháp coi thường thuộc địa và ít dùng từ
Vienamien) học mấy năm dự bị ở Paris và cũng mới vào trường này thôi,
nhưng đã nối tiếng là sinh viên xuất sắc rồi! Đúng truyền thống “triết
gia”, Thảo luôn ăn mặc luộm thuộm, bẩn, đầu tóc bù xù, ăn uống thất
thường và nói nhiều, nói hay về bất cứ đề tài gì. Câu cửa miệng của ông
bằng tiếng Việt và tiếng Pháp là “dốt quá!”- đấy thường là đánh giá của
Thảo đối với rất nhiều bạn học, thậm chí cả thầy giáo...trong câu này ý
nghĩa khinh miệt ít thôi, mà người nghe cũng ít thấy sự phản cảm, vì
Thảo bao giờ cũng nhanh chóng chỉ ra cái sự “dốt quá” nó nằm ở đâu, phải
tâm phục khẩu phục thôi! Luận án tốt nghiệp (Agrege) Thảo viết mỗi ngày
chỉ một trang, thời gian còn lại ông ngồi hoặc nằm ngoài ghế đá trong
trường, xung quanh bạn đồng môn xúm xít nhờ “chỉ giáo”- tức là họ viết
được đến đâu đưa cho Thảo nhìn liếc qua hộ, Thảo mà gật thì tức là các
thầy sẽ duyệt! Phải hiểu uy tín như vậy ở một nơi đã từng đào tạo ra
ngoài Sartre còn là hàng loạt nhà triết học và chính trị gia lừng danh
khác mà dành được bởi một cậu chàng quê ở Bắc Ninh thì phải biết thực
tài của Thảo đến như thế nào!
Hồi đó sinh viên An Nam như Thảo
được Bộ Thuộc địa Pháp trả 1000 quan/tháng, cũng đủ ăn mặc và trả tiền
phòng. Cũng tạm đủ ăn đủ mặc, Đức chiếm đóng nên đời sống khan hiếm,
nhất là thịt, bơ, pho mát, trứng...phải mua chợ đen, và nhất là tem
phiếu mua thuốc lá, những sinh viên Việt Nam thường không hút mà mang
bán lại để thêm tiền sinh hoạt. Thảo cũng vậy, nhưng đúng như phong thái
triết gia, Thảo phải thi thoảng uống rượu, cho nên cũng túng bấn, vì
thế tuy đã yêu nhau nhưng ông và bà Nguyễn Thị Nhứt chưa sống chung được
với nhau. Cuộc sống thời chiến thì đủ cả: bom đạn, báo động, hầm hào
(vui nhất là hôm nào phải ngồi dưới hầm hơn 30 phút thì có Chữ thập đỏ
đi phát kẹo vitamin tận hầm!), chết chóc ...(Nhưng đồng minh thường ném
bom khu thợ thuyền, nhà máy chứ không ném vào khu sinh viên - cũng như
phía Đức cũng phải để cho khu đại học vẫn hoạt động như thường!).
Lý do vụ kiện lịch sử như sau: Thảo coi mình là người hiểu về thuyết
hiện sinh còn hơn cả Sartre - lá cờ đầu của chủ nghĩa hiện sinh tại Pháp!
Thời đó mặc dù chiến tranh xảy ra nhưng các hoạt động khoa học vẫn rất
được coi trọng, vẫn có những buổi diễn thuyết với đề tài hay và hội
trường chật cứng người nghe, nhiều khi phải tổ chức cho diễn giả nói
ngoài trời! Triết học là môn khoa học xã hội được coi trọng bậc nhất
thời đó, "sang trọng" nhất, trong giới triết học cũng như tri thức trẻ
Paris “ông vua không ngai” Sartre không thể chịu được “ngôi sao đang
lên” - một kẻ kém mình đến hơn chục tuổi, lại là dân Annamite mà lại lộng
ngôn như vậy - nên chấp nhận lời thách đấu, tất nhiên không phải đấu
kiếm, mà theo một cách rất nhân văn. Hai người thỏa thuận với nhau là sẽ
tranh luận công khai nhiều buổi, tất cả nội dung tranh luận sẽ được
đăng chính xác trên tờ báo “Esprit” - một tờ báo “ruột” của Sartre (phải
vậy thôi chứ sinh viên Annamite lấy đâu ra truyền thông của mình?). Sau
nhiều bài báo về đề tài đó, Thảo phát hiện ra tờ báo không đăng đúng
nguyên văn lời của anh, mà sửa đi theo cách có lợi cho Sartre, thế nên
quyết định kiện Sartre ra tòa vì tội “không tuân thủ hợp đồng danh dự”!
Sở dĩ Thảo tự tin mình giỏi hơn Sartre trong chủ đề này, bởi vì trước
đó ông đã cất công học tiếng Đức và nhân tiện nghỉ hè, mò sang Đức để
đọc nguyên tác của hai ông tổ ngành triết này - Husserl và Kierkegard.
Nhưng mới sang đến Bỉ thì quân Đức tràn qua, không đi được nữa nên Thảo
vào luôn thư viện Liege, cũng may có bản tiếng Đức và ông say mê đọc
luôn trong thư viện đó, và ông biết là nguyên tác thì Sartre chưa đọc
được!
Ra tòa Thảo mang cả microsillon - là một loại đĩa than làm từ
băng cối ra, để thu phát âm - trình ra để làm bằng chứng cuộc đấu khẩu,
trong đó Thảo có nói đến nhiều thuật ngữ cơ bản bằng tiếng Đức, mà
Sartre không nắm bắt được. Đến sau này các bạn của Thảo không nhớ được
từ đâu Thảo đã mượn được cái “máy ghi âm” - thời đó là cả một gia tài!
Tòa tất nhiên không thể xử Sartre - một thần tượng của “mẫu quốc” lại thua
một người con thuộc địa, nên cuối cùng đã xử hòa! Ông phải chật vật để
trả nửa tiền án phí nhưng cả Paris hiểu rằng Thảo mới là người chiến
thắng, còn ông sau đó công khai gọi Sartre là “mauvais philosophe”-“nhà
triết học tồi”! Khỏi nói là người Việt ở Paris hãnh diện thế nào về
thành công của người đồng hương Thảo của họ...
Trần Đức Thảo sau
đó làm luận án tiến sỹ triết học tại Pháp với đề tài về triết học của
Husserl. Ngoài ra ông có một đề tài rất lạ - “Tìm hiểu về nguồn gốc các
ngôn ngữ và ý thức”. Hình như ở Việt Nam hiện nay không có bản thảo nào
của tác phẩm này, chính vì phải hoàn tất công trình này mà ông về nước
kháng chiến sau các bạn tri thức cùng thời đó mất mấy năm, nhưng chắc
bản gốc vẫn được lưu giữ tại Paris. Gia tài triết học của Thảo rất đồ sộ
và chắc nhiều năm nữa mới có thể có người đánh giá được hết. Đối với
giới triết học Pháp thì Trần Đức Thảo vẫn là một tượng đài để kính
trọng - “Nếu không có Thảo thì giới triết học Pháp đã không có đề tài gì
để tranh luận trong suốt mấy chục năm cuối thế kỷ 20!” - là đánh giá rất
cao của họ về các tác phẩm của ông về chủ nghĩa Marx.
Còn tôi thì
hoàn toàn công nhận đánh giá của nhà sử học Trần Văn Giàu về ông Thảo,
ông là nhà triết học đúng nghĩa duy nhất của Việt Nam ta cho đến ngày
nay! Và nếu được phép, tôi xin chọn Trần Đức Thảo là tài năng trí thức
lớn nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20...
P.S.
Trường Sư phạm
cao cấp Paris - École normale supérieure với những cách gọi khác nhau:
«ENS Ulm», «ENS de Paris», «Normale Sup» hoặc chỉ đơn giản là«Ulm» năm
2014 được bình chọn là trường đại học tốt nhất ở Pháp (và thứ 35 thế
giới).
Trong Wikipedia một số thông tin về Trần Đức Thảo sơ sài và không được chính xác lắm.
Nhà triết học - nhà văn bị Trần Đức Thảo gọi là "mô-ve" đã sống một cuộc
đời đầy ắp sự kiện và ý nghĩa. Năm 1964 ông từ chối giải Nobel văn
chương "chỉ để giảm áp lực không đáng có và viết cho thật hơn"!
Nam Nguyen /FB
Trường hợp GS Trần Đức Thảo khác hẳn đa số những người Mác-xít Việt Nam. Ông không phải con người giác ngộ chủ nghĩa Mác ngay từ đầu với ý nghĩa là biện pháp duy nhất để cứu nước và giải phóng dân tộc. Ông theo chủ nghĩa Mác vì chính giá trị triết học của nó, rồi mới thấy ở đấy biện pháp duy nhất để cứu nước. Là người được đào tạo chu đáo nhất Việt Nam về triết học phương Tây, năm 1943 ông đã đỗ đầu thạc sĩ triết học ở Pháp với luận văn: Hiện tượng luận và nội dung thực sự thực tế của nó. Trong công trình này, ông đứng về phía duy lý luận của tư tưởng duy tâm khách quan, một chi nhánh của học thuyết Hegel đối lập với tư tưởng duy tâm phản trí tuệ thịnh hành lúc bấy giờ qua các trào lưu triết học hiện sinh. Nhưng ngay trong công trình ấy, cho đến nay vẫn là tác phẩm nổi tiếng nhất thế giới về Hiện tượng luận, ông đã đưa ra một lời phê phán hiện tượng luận của Husserl mà không ai bác lại được. Trong khi thừa nhận đóng góp hết sức có hiệu lực của Husserl về cách lý giải bản chất: “Bản chất của một vật là cái yếu tố mà thiếu nó, người ta không thể nào hình dung sự tồn tại của vật ấy”, chẳng hạn “bản chất của màu đỏ là diện tích, vì không thể có một màu nào mà không có diện tích”. Trong khi tán thành lập luận này về bản chất, ông vạch trần nhược điểm không thể che đậy của Husserl là nếu như Husserl theo hiện tượng luận triệt để thì cái bản chất cuối cùng chỉ có thể là “vật chất” với tính cách một phạm trù triết học và khẳng định tự thân hiện tượng luận phải dẫn tới chủ nghĩa duy vật. Đóng góp này của ông đã được thế giới triết học chấp nhận. Như vậy là Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa duy vật sau khi trèo lên cái đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy tâm thời đại này là hiện tượng luận của Husserl, rồi lật ngược nó lại. Từ duy tâm sang duy vật chính là sự phát triển biện chứng của chủ nghĩa duy tâm, ông chuyển sang chủ nghĩa Mác do tình cảm yêu nước. (Phan Ngọc)
ReplyDeleteSai lầm lớn nhất của ông là nghe lời xui dại trở về Việt Nam.
ReplyDelete