Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1).
Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lí do. Ở đây, tôi thử đóng vai một "devil advocate" về đề tài này.
Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì
thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự
hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời
là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên
nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc
tính dân tộc làm cho họ tự hào.
Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố
sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định,
phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng
xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt.
Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực
Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt
Nam. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ
một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá
Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà
chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ,
tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất
sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong "Việt Nam văn
hoá sử cương") như sau:
"Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh,
nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt
lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là
thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc
Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm
việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm
chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi,
không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư
danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng
và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não
tinh vặt, hay bài bác chế nhạo".
Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm
cho chúng ta tự hào. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu
chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng
ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhưng vấn đề trầm trọng ở chỗ: có cả những người Việt ăn cắp ở nước
ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền,
thậm chí đang hành nghề giảng dạy! Chúng ta cũng biết rằng sự
hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những
tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ
không nên trốn tránh.
Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài vài chục năm vẫn
giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có
nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành
công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co
cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân
hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của
người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt
ở Sydney, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ
thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn,
chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt
mang tính văn hoá nào cả.
Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng
chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và
Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa
mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây.
Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó
người dân có tự do thực hiện hoài bão của mình, và chính phủ không lên lớp dạy
bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân
chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng
ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị.
Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế
quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Vả lại, chiến
tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng
có gì để tự hào. Đằng sau những cái vinh
quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội ác đã bị che dấu. Người Thái Lan
tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận
đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ
tự hào điều đó.
Thất bại về kinh tế
Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn
là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập
đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những "VINA" hoặc là đã thất
bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim,
vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng.
Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều
"di sản" tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói
kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy
chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực
Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã
nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm
thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một
loạt tập đoàn kinh tế bị sụp đổ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà.
Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói
không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại
khác.
Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại
yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển
của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc
gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến
đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55.182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu
người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD.
VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ
nghèo ở VN tuy có sự cải thiện, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì
tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo
chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ
trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo
đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền
đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương
tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho
chó mèo ở, có những người "đày tớ của nhân dân" sẵn tay vung tiền xây
lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá
nhiều người nghèo như thế?
Giáo dục và khoa học làng nhàng
Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính
sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu
do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng
kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ
khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái
Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước
ngoài chủ trì hay giúp đỡ.
Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo
tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng
ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger (3) từng nhận xét về người Việt
vào đầu thế kỉ 20 như sau:
"Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ
sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những
phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ."
Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất
cả những nhận xét đó đều đúng. Gần đây khi công ti thời trang Hermes
muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt,
và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu
Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ
làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ
khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm
hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất ... hỡi ôi.
Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung
chung hay làm cho có mà thôi. Điều này rất tương phản với
người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem
xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên
khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền.
Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti
Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, thường bán với giá rất
cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn
hiệu “chất lượng cao” thì sao? Họ
cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, Tommy Hilfiger
v.v. nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ
làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước.
Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của
Tàu lợi hại đến nổi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt
Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà
nói đến chuyện lớn được.
Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có
người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông
minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con "gà chọi"
chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành
công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt,
nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì
đến VN.
Xã hội bất an
Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất
an. Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng
bạo lực, và sự "ưa chuộng" đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi
không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không
công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng
ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ
án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761
vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần!
Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ
tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian
gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn
cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết
người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản
(10%).
Một trong những tội phạm đáng kinh tởm nhất là buôn bán phụ
nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ
năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ
và trẻ em bị buôn bán!
Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng
trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và
nạn nhân bị cưỡng hiếp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ.
Việt Nam là nước tìm kiếm "sex" trên Google nhiều nhất thế giới (6).
Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế?
Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở
các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam
chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để
người ta qua lại ngắm nghía và trả giá!
Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra
rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu
cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội.
Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết
vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và
đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn cả du
khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31,266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người
và bị thương 32,266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn
giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến!
Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng
Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc
cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên
nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quan thiên
nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như
Nhật.
Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất
thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm
trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sông, và
đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần
lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều
bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những
thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt
của người dân. Tình trạng ô nhiễm này đã tồn tại hơn 20 năm, thậm chí lâu hơn nữa,
nhưng cho đến nay chính quyền vẫn chưa thấy có biện pháp gì để giải quyết.
Còn ở thành phố lớn (như Sài Gòn và Hà Nội) thì cũng chẳng
có gì đáng tự hào. Môi trường sống và sinh hoạt ở thành phố có thể nói là rất xấu.
Vi khuẩn, vi trùng, mầm mống bệnh tật gần như ở mọi ngóc ngách. Chỉ cần một trận
mưa là thành phố bị ngập nước kinh hoàng. Kiến trúc nhà cửa thì lố nhố, trồi
ra, thụt vào, chẳng ra cái thể thống gì. Những con hẻm ngóc ngách và ngoằn
ngoèo, nhỏ xíu và dơ bẩn phát ghê. Những con hẻm ở phố cổ Hà Nội phải nói
là một nỗi ám ảnh kinh hoàng, giống như địa ngục trần gian. Hẻm ở Sài Gòn thì
khá hơn Hà Nội một chút, nhờ thông thoáng hơn, nhưng vẫn thể hiện cái nét hỗn độn,
vô trật tự của cái gọi là "thành phố". Đường xá thì xe gắn máy và xe
bốn bánh chạy loạn xạ như chẳng có luật lệ gì, cực kì nguy hiểm cho người đi bộ.
Còn lề đường dành cho người đi bộ thì bị chiếm dụng hết. Chẳng có thành phố nào, mới
hay cũ, ở VN có thể nói là đáng tự hào cả.
Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoành tráng hay
tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiền, bia
miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời "Cải cách ruộng đất", và
sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn "sống sót" cũng
không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người
Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó
làm niềm tự hào.
Bủn xỉn với cộng đồng quốc tế
Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng
gọi là "Good Country Index" (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các
nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số
124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các
quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức
áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm
soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam
trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là
nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa”
như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi
đứng chung với những nước đó?
Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành
cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp
200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo
nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái
Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với
tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào
với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ "bủn xỉn" đó?
Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn
hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế
với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống
không có gì nổi bậc, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất
bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể
trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng,
và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế.
Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau
1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp
nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là
nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện
trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài
phàn nàn nói "Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ
đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vả mới có tiền cho chúng
mày".
Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc
tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các
nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập
thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con
số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi
một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người
biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin
thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người
nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ.
Đã ăn xin và đi vay mà lại còn tham nhũng và hối lộ. Tham nhũng hiện diện ở mọi cấp
trong chính quyền. Hầu như đụng đến các cơ quan công quyền, không hối lộ là
không làm được việc. Ngay cả quan chức cao cấp (bộ trưởng, thứ trưởng) khi cần
làm việc nhà vẫn phải hối lộ. Bổ nhiệm vào các vị trí trong trường học, bệnh viện,
cơ quan Nhà nước, v.v. tất cả đều phải hối lộ, phải "chạy". Nói trắng
ra là mua chức quyền. Hối lộ trở thành một văn hoá sống và làm việc ở VN. Tham
nhũng đã trở thành một nguồn sống của quan chức và những kẻ có quyền. Không ngạc
nhiên khi VN bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng tham nhũng hàng 116 trên 177
nước trên thế giới (12).
Còn trong quan hệ quốc
tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường
làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên
Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật.
Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước
ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã
Lai, v.v. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận
trên thế giới, tức miễn visa (13), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và
Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường
quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng.
Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó
nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sỉ diện, thiếu
tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen
nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của
tương lai.
(Lược trích từ FB/VNSA, Tuan's blog: http://tuanvannguyen.blogspot.com/…/tai-sao-kho-co-tu-hao-l…)
Các bạn có thể xem bản chính với đầy đủ thư mục tham khảo của tác giả bằng cách nhấn vào link ở cuối bài.
ReplyDeleteThói trộm cắp của người Việt có lẽ cũng là 1 đặc tính dân tộc như người Digan vì nó rất phổ biến ở khắp nơi.
ReplyDeleteNguyên nhân cũng có thể vì túng quá hóa liều, nhưng cái đáng chê trách nhất là nó trở thành 1 cái thói xấu xuất phát từ sự ích kỷ và nghèo lòng tự trọng.
Nhiều người Việt xem việc ăn cắp của người khác và ăn cắp của công là chuyện bình thường. Họ tự tiện ăn cắp cả những gì thuộc về tài sản quốc gia, tháo gỡ các bộ phận máy móc hoặc rào chắn đường cao tốc, phụ kiện đường sắt, thùng rác công cộng... bất kể thứ gì nếu họ cần hoặc bán được.
Làm sao có thể xây dựng đất nước giàu mạnh với những công dân quen thói ăn cắp, từ ăn cắp nhỏ đến ăn cắp lớn, từ quan chức trên cao xuống dân quèn thấp kém đều một lòng dạ như nhau…
Nạn tham nhũng, mà thực chất là ăn cắp của công, lan tràn từ viên cảnh sát giao thông “làm luật” ngoài đường cho tới những quan chức ăn tiền qua việc cấp phép những dự án thì khó mà ngăn chặn tác hại của những tấm gương xấu ấy lên suy nghĩ của những con người bình thường. “Ai cũng ăn, việc gì mình không ăn?” là tâm lý chung khó tránh.
Có khi người ăn trộm không cho rằng họ đang ăn trộm. Báo chí nêu tình trạng công chức lấy giờ làm việc đi làm chuyện riêng. Đó chính là ăn trộm, nhưng có bao nhiêu người nhận ra thực chất của vấn đề. Bòn rút của công là ăn trộm. Lạm dụng của công là ăn trộm. Lãng phí cũng là ăn trộm. Nhìn như thế để thấy ăn trộm rất phổ biến, chứ không phải chỉ giới hạn trong vài người hay vài thành phần xã hội.
Từ những sự coi thường giá trị nhân cách tới việc ăn cắp khi có điều kiện, ở trong nước cũng như ở nước ngoài, là không xa. Nếu người lớn đã vậy làm sao để con em họ noi gương trở thành người tốt được. Cứ thế, điều tốt sẽ ngày càng tàn lụi và cái xấu như cỏ dại lan tràn ngày càng nhiều.