Nhưng từ dăm năm trở lại đây, có một số ý kiến muốn áp 
dụng lối phiên âm Latin của Trung Quốc gọi là pinyin (âm Hán Việt là 
bính âm hoặc phanh âm) thay cho tên gọi Hán Việt quen thuộc. Lý lẽ biện 
hộ cho quan điểm này là pinyin phù hợp với “thông lệ quốc tế” trong xu 
thế hội nhập hiện nay, dễ tra cứu và phát âm giống tên gốc hơn. Thậm chí
 dùng âm Hán Việt còn bị quy kết là “rào cản hội nhập”! 
Cội nguồn của bính âm
Trước hết ta hãy điểm qua lý do, lịch sử hình thành và 
phát triển của pinyin. Chữ Hán không phải là chữ ghi âm dựa trên một 
bảng chữ cái mà là chữ biểu ý, còn gọi là chữ tượng hình, do đó phải có 
một hệ thống phiên âm kèm theo dành cho người học. 
Sau khi nước CHND Trung Hoa được thành lập, nhằm mục 
đích xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, Quốc vụ viện (chính phủ) Trung 
Quốc đã tiến hành cải cách chữ viết cho dễ học, dễ viết bằng cách lược 
bớt một số nét (hoặc viết đơn giản hơn) một số chữ Hán phức tạp, từ đó 
tạo ra loại chữ giản thể, đồng thời lập quy tắc phiên âm cho chữ Hán 
bằng hệ chữ cái Latin gọi là pinyin (tên đầy đủ là Hán ngữ bính/phanh âm
 - Hanyu pinyin). 
Hệ thống phiên âm pinyin về cơ bản ra đời năm 1958, sau
 đó được hoàn thiện và dạng thịnh hành hiện nay được thông qua năm 1978.
 Năm 1981, Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) công nhận pinyin là 
chuẩn phiên âm Hán ngữ. Sách báo Pháp, Anh, Mỹ bắt đầu sử dụng pinyin 
vào đầu thập kỷ 1980, nhưng phải đến cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, Thư 
viện Quốc hội Hoa Kỳ mới tiến hành chương trình chuyển đổi toàn bộ phiên
 âm tên riêng Trung Quốc từ hệ Wade-Giles cũ sang pinyin. 
Pinyin cũng được sử dụng tại Liên Hiệp Quốc từ năm 1977
 sau khi Trung Quốc trở thành thành viên của tổ chức này (1971). Tuy 
nhiên, pinyin đã không thực hiện được tham vọng ban đầu là thay thế hẳn 
Hán tự vì hai lý do chính:
1) có nhiều từ đồng âm nên dễ gây hiểu lầm hoặc khó đoán nếu không viết hẳn mặt chữ Hán ra; 
2) tồn tại nhiều phương ngữ với các cách phát âm khác 
nhau đối với cùng một mặt chữ, trong khi pinyin dựa trên tiếng phổ thông
 (lấy phương ngữ Bắc Kinh làm chuẩn), do đó nếu chỉ viết dạng Latin hóa 
theo âm đọc sẽ có nhiều người ở chính Trung Quốc không hiểu nếu họ không
 thạo tiếng phổ thông.
Vậy trước khi áp dụng pinyin, các ngôn ngữ phương Tây 
như tiếng Anh, Pháp, Đức... sử dụng cách phiên âm nào? Nói chung mỗi 
ngôn ngữ có quy tắc phiên âm của mình, thậm chí không phải chỉ có một 
cách. Dùng phổ biến nhất trong tiếng Anh là hệ Wade-Giles ra đời từ cuối
 thế kỷ 19, lấy theo tên hai nhà ngoại giao người Anh là tác giả của 
phương pháp phiên âm này. Còn tiếng Pháp sử dụng hệ EFEO, do Viện Viễn 
Đông Bác cổ (EFEO) của Pháp soạn thảo.
Ưu điểm dễ thấy nhất của pinyin chỉ là dễ tra cứu theo 
các ngôn ngữ phương Tây hay thuận theo cách phiên của nước chủ nhà. Tuy 
nhiên pinyin không bao trùm tất cả. Đài Loan cho tới nay vẫn không hoàn 
toàn sử dụng pinyin mặc dù có thông tin nói đã có quy định áp dụng từ 
năm 2009. 
Nếu đọc tờ Taipei Times (Đài Bắc Thời Báo) bằng tiếng Anh (www.taipeitimes.com/),
 ta thấy tên riêng vẫn ghi theo cách riêng (đa số theo hệ Wade-Giles) mà
 không theo pinyin và có kèm chữ Hán, chẳng hạn Chiang Kai-shek (Tưởng 
Giới Thạch), Lee Teng-hui (Lý Đăng Huy), Ma Ying-jeou (Mã Anh Cửu), 
Keelung (Cơ Long), Chiayi (Gia Nghĩa). Chính vì lẽ đó, các cuốn từ điển 
bách khoa của Anh, Mỹ hay Pháp khi ghi tên nhân danh hay địa danh Đài 
Loan đều theo đúng cách viết bản địa, tức là không theo pinyin. 
Và điều đáng ngạc nhiên là ngay một số mạng chính thống của Trung Quốc như Tân Hoa xã (http://news.xinhuanet.com/english/), Nhân Dân Nhật Báo tiếng Anh (www.chinadaily.com.cn), Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (http://english.cntv.cn/)
 nhất nhất tuân theo quy ước này khi nhắc đến các tên riêng Đài Loan như
 Koo Chen-fu (Cô Chấn Phủ), Wu Po-hsiung (Ngô Bá Hùng), Lin Join-sane 
(Lâm Trung Sâm), Taipei (Đài Bắc), Kaohsiung (Cao Hùng). 
Đối với các nhân vật gốc Hoa ở Hoa Kỳ, Singapore, châu 
Âu... thì họ tên của họ cũng phiên theo cách riêng (trừ một số người 
xuất thân từ Trung Hoa đại lục sang đây chưa lâu phiên tên họ theo 
pinyin như Cao Hành Kiện: Gao Xingjian), Lee Kuan Yew (Lý Quang Diệu), 
Lee Hsien Loong (Lý Hiển Long), Chen-Ning Yang (Dương Chấn Ninh), Yuan 
Tseh Lee (Lý Viễn Triết). 
Nếu bạn tìm đọc sách viết về Trung Quốc trong phần lớn 
thế kỷ 20 (thậm chí có cuốn in vào cuối thế kỷ 20) thì họ cũng không 
dùng pinyin, sách tiếng Anh của các tác giả Đài Loan lại càng không.
Một ngộ nhận trong số những người ủng hộ việc sử dụng 
pinyin trong tiếng Việt là họ cho rằng pinyin giúp phát âm chính xác tên
 riêng Trung Quốc. Nếu không học cách phát âm Hán ngữ thì dù người Việt 
hay người Anh, người Pháp đều phát âm không đúng nhiều từ trong tiếng 
Hán nếu cứ đọc theo pinyin và chắc chắn người Trung Quốc không hiểu họ 
nhắc đến ai hay địa danh nào. 
Lý do là nhiều chữ Latin theo cách đọc thông dụng không
 phản ánh đúng âm tiếng Hán. Đó là chưa kể việc dùng pinyin trên sách 
báo phương Tây nói chung không ghi dấu thanh điệu do không thuận tiện 
(tiếng Hán có bốn dấu thanh điệu), nên chuyện ông nói gà bà tưởng vịt 
càng tăng. 
Chẳng hạn Cao Cao (Tào Tháo) không đọc là Cao Cao như 
trong tiếng Việt (hay [Ka Ka] theo phiên âm quốc tế) mà phải đọc là [Tsa
 Tsa]. Hay những phụ âm b, d, q, j trong pinyin không đọc là [b], [d], 
[k], [dj] như ta tưởng. Xét về độ chính xác trong ghi âm, pinyin còn 
thua cả hệ Wade-Giles. 
Ưu điểm của pinyin so với hệ Wade-Giles là nó phân bổ 
các âm gần nhau trong tiếng Hán cho những chữ cái riêng biệt trong bảng 
chữ cái Latin (nhưng mất đi sự chính xác), khiến việc phân biệt âm dễ 
hơn. Chẳng hạn, các cặp phụ âm bật hơi và không bật hơi có âm gần nhau 
trong hệ Wade-Giles là k/k’, p/p’, t/t’, ch/ch’, ts/ts’ sang pinyin 
chuyển thành g/k, b/p, d/t, zh/ch (hoặc j/q trước i và ü), z/c, dễ tách 
bạch hơn so với chỉ phân biệt bằng dấu ’ (mà có khi viết ra bị bỏ sót). 
Ví dụ: Chang Kuo-t’ao (Trương Quốc Đào) theo hệ 
Wade-Giles chuyển thành Zhang Guotao trong pinyin, Teng Hsiao-p’ing 
(Đặng Tiểu Bình) thành Deng Xiaoping. 
Tránh những đề xuất nửa vời
Qua phân tích trên đây, ưu điểm phát âm chính xác cho 
người bản ngữ hiểu được mà một số người gán cho pinyin khi so sánh với 
âm Hán Việt chỉ là tưởng tượng. Mặc dù trong một số trường hợp, pinyin 
có thể gần tên gốc hơn âm Hán Việt, nhưng tên riêng đòi hỏi chính xác 
gần như tuyệt đối nên dù gần hơn mà vẫn bị lẫn lộn thì cũng chẳng có ý 
nghĩa gì. 
Xin lấy một ví dụ trong tiếng Việt cho dễ hiểu: Nguyễn 
Viết Vân hay Nguyễn Việt Văn cần chính xác tuyệt đối chứ không thể viết 
Nguyen Viet Van chung chung được. Trong khi đó tuy âm Hán Việt có thể 
không gần âm gốc bằng, nhưng trong nhiều trường hợp có thể khôi phục 
được nguyên dạng chữ Hán, điều mà pinyin chịu thua.
Trong khi đó, nhiều nhược điểm bộc lộ ở pinyin so với âm Hán Việt:
1. Tên riêng theo pinyin vô nghĩa, vô cảm, khó nhớ, khó
 đọc. Bắc Kinh hay Nam Kinh đều được người Việt hiểu ngay nghĩa là kinh 
đô phía bắc hay phía nam, còn Beijing hay Nanjing chẳng gợi lên điều gì.
 Hà Nam hay Hà Bắc cho ta biết ngay hai tỉnh đó ở phía bắc hay phía nam 
sông Hoàng Hà, còn Hebei hay Henan thì không.
2. Tên riêng theo pinyin gây thêm sự trùng lặp, nhầm 
lẫn, nhất là nếu viết không có dấu thanh điệu. Lu Xun có thể là Lỗ Tấn 
hoặc Lục Tốn, Yan Yuan có thể là Nhan Uyên (học trò của Khổng Tử) mà 
cũng có thể là Nhan Nguyên (triết gia đời Thanh), Pingxiang có thể là 
Bằng Tường (ở khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây) hay Bình Hương (ở 
tỉnh Giang Tây), Heng Shan có thể là Hoành/Hành Sơn (ở tỉnh Hồ Nam) hay 
Hằng Sơn (ở tỉnh Thiểm Tây). 
Trường hợp ngược lại hầu như không xảy ra trong tên 
riêng vì số lượng âm Hán Việt nhiều hơn hẳn số lượng âm pinyin (nếu 
không kèm theo dấu thanh điệu thì càng ít).
Bạn thử tưởng tượng đọc Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy hử 
hay truyện chưởng Kim Dung (à, phải viết là Sanguo yanyi, Shuihu, Jin 
Yong mới phù hợp) với các nhân vật Guan Yu, Zhuge Liang, Zhao Yun, Lin 
Chong, Lu Zhishen, Wu Song, Yang Bu Hui, Huoqingtong... thì liệu có hứng
 thú như trước không?
Dường như cũng thấy những bất cập nếu chuyển hoàn toàn 
sang pinyin, một vị tiến sĩ đề xuất: “Nhân danh địa danh ở thời kỳ “đồng
 văn” (từ thế kỷ 19) nên nhất loạt dùng phiên âm Hán - Việt. Chúng ta sẽ
 đọc/viết là Khổng Tử, Giả Nghị, Đào Uyên Minh, Đỗ Phủ, Tương Giang... 
Nhưng tên riêng Trung Quốc thời kỳ tình trạng “đồng văn” chấm dứt (từ 
đầu thế kỷ 20 trở đi), chúng ta nên đọc/viết theo đúng âm Bắc Kinh (bính
 âm). 
Nếu chưa thực hiện được ngay thì tên riêng Trung Quốc 
đương đại (từ sau năm 1979) nhất thiết phải đọc/viết theo quy tắc ấy”. 
Một đề xuất nửa vời gây sự thiếu nhất quán, đứt khúc về thời gian như 
vậy phỏng có nên? 
Chưa nói đến việc khó khả thi (hoặc nhà báo, dịch giả 
công đâu tra cứu việc này) khi xác định nhân danh, địa danh nào xuất 
hiện trước năm 1979 (hoặc trước đầu thế kỷ 20), nhân danh, địa danh nào 
xuất hiện sau năm 1979 (hoặc sau đầu thế kỷ 20) và xuất hiện ở đâu để 
quyết định phiên âm Hán Việt hay pinyin?
Nguyễn Việt Long 
Giang Dương Tử: Tớ thì thấy là đúng như Nguyen Viet Long đã viết, đọc sách Tàu mà bị phiên âm kiểu Tây thì không ngửi được, chẳng còn tý hứng thú nào. Cách phiên âm Hán Việt nó ăn vào tiềm thức rồi, không thể sửa được. Ngay đến tên phim thôi, ví dụ Ngọa Hổ Tàng Long, mà dịch sang tiếng Anh nghe bùn cừi muốn chết.
ReplyDeleteLien Khanh Nguyen: Tớ ủng hộ phương án tự do chọn lựa. Tiêu chí là dịch văn học phải hay,dịch thời sự thông tin thì phải chính xác, truyền tải được đến người đọc đúng người đúng việc. mọi áp đặt ( hành chính) theo 1 tiêu chí nào đó đều dẫn đến kết quả dở hơi.Bản thân Ngôn ngữ của 1 dân tộc cũng luôn thay đổi, phát triển, nhiều từ mới xuất hiện, nhiều từ sẽ biến thành của hiếm chỉ còn trong từ điển. Rồi thời gian sẽ sàng lọc, cái nào mà đa số không tiêu hóa được sẽ dần dần bị đào thải thôi.
ReplyDeleteThu Tam Nguyen: Hoàn toàn đồng ý với anh Nguyễn Việt Long. Từ lâu ở các toà soạn mà em làm em vẫn đề nghị và lý giải như vậy.
ReplyDeleteChuyển các địa danh và tên riêng thành Hán Việt, người Việt khi đọc dể cảm thụ và dễ nhớ hơn hẳn. Bởi nói gì thì nói, tiếng Việt cũng thâu nhận khá nhiều từ Hán và có khá nhiều từ tương đồng nên những địa danh đó nếu vang lên = âm Hán - Việt, người nghe /đọc thấy nó có nghĩa nên cũng dễ nhớ dễ có hình dung hơn
Thu Tam Nguyen: À chưa kể thêm là ngay cái núi Hành Sơn ở Hồ Nam và cái núi Hằng Sơn ở Sơn Tây nếu phiên theo bính âm thì cũng đều đọc là Hấng San, rất dễ nhầm lẫn.
ReplyDeleteEm đã leo cả 2 núi này và trước đó cũng phải tra cứu khá mệt nếu theo bính âm, may mà võ vẽ vài mặt chứ Hán mới truy được gốc :D
Còn riêng tên Hành Sơn (Hồ Nam) nếu theo bính âm thì có thể tưởng là Hằng Sơn, còn theo mặt chữ Hán thì có thể phiên là Hành Sơn mà cũng có thể là Hàng Sơn (vì chữ này vừa có trong từ hành tung, vừa có trong từ ngân hàng). Đấy tiếng Hán đồng âm khác tự dạng có rất nhiều, mà đồng dạng khác âm cũng ko phải hiếm. Nên cách tốt nhất vẫn nên quy ra Hán - Việt cho chuẩn với tên gốc, tránh nhầm lẫn.