Thursday, August 13, 2015

Vài bệnh mãn tính của trí thức Việt và triệu chứng "táo bón kinh niên"

Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử ( tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển. Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?

Có lẽ việc này cần hơn là “định nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng ta không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao điên rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.

Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng ta. Nếu chịu khó quan sát, ta có thể nhận diện một số căn bệnh mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!). 

Những nhận xét dưới đây có thể đúng, có thể sai, có thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định ngay.

Hay định kiến và chia rẽ

Người ta hay nói (nửa đùa nửa thật) rằng một người Việt thì không thua kém một người nước khác, nhưng ba người Việt thì chắc thua kém một người nước khác. Bởi vì ba người Việt thường không hợp sức mà n chia rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhau. Không hiểu vì sao tính cá thể của người Việt rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung Hoa). Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do tính bản địa, hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có tiếng là hay định kiến và chia rẽ, hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm rất khó, không phát huy được nội lực và không kết nối được năng lượng (synergy). Rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Có lẽ vì biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”, nghĩa là không đoàn kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!

Gần đây, đáng mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn, như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới này cũng khó phát triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới hình thành đã cãi nhau rồi. Chưa cần bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồi. Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta thường hiểu theo nghĩa cộng đồng chứ không phải từng cá thể. Nếu cứ định kiến và chia rẽ như vậy thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát Trung”?

Không chịu lắng nghe

Theo nguyên lý truyền thông, lắng nghe quan trọng hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình tâm mới lắng nghe được người khác, để hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều này càng quan trọng trong thời đại bùng nổ truyền thông kỹ thuật số. Muốn lắng nghe phải khiêm tốn, chân thành, nhạy cảm. Người ta nói xã hội càng “high-tech” thì con người càng phải “high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây, Việt Nam được xếp vào nhóm nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa số người Việt, nhất là giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác nghe, mà không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người còn hay “xoa đầu”dạy bảo người khác (nhất là đối với lớp trẻ). Họ thường vô cảm, không hiểu được người khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc - Nam, trong - ngoài, không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn, coi thường người khác, luôn cho mình đúng, ai không giống mình là sai.

Trong bộ máy công quyền trước đây, người ta quen độc quyền thông tin theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản tin tham khảo” (lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu đã chứa định kiến, thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà không cần lắng nghe để tìm hiểu sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường dẫn đến định kiến và chia rẽ. Điều đáng nói là không phải chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy hiểm hơn cả người khác.  
  
Học giả nhiều hơn học thật

Chưa thấy ở đâu người ta coi trọng bằng cấp và học hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt Nam. Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy, nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng nói là nó không chỉ phổ biến trong nhà trường mà còn trong giới công chức và trí thức. Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức báo động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ bé, nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí thức thật thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới trí thức Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tả, rất đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản sắc” Việt Nam.

Nguồn gốc trí thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây thời trước (cả Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa quá ít vừa “quá date” (passé rồi), nếu chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi thời thế hoặc thời gian. Thế hệ thiếu sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở thành quan chức, một số khác có tài đã trở thành trí thức thật, nhưng nay đã về hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân hóa, đa số thực dụng buôn bán kinh doanh giàu lên nhanh như “tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch nước khác. Thế hệ đi học các nước “phương tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và đa dạng, đa số kinh doanh, một số làm công chức, một số khác làm cho nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với thế giới, nhưng chưa được thực sự trân trọng.    

Im lặng trùm chăn

Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số thường “trùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tim tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề MIA trước đây). Trong bối cảnh đó, giới trí thức văn nghệ sĩ “trùm chăn” là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để thoát khỏi nỗi sợ không đơn giản, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến cuối đời mới dám lên tiếng nói ra sự thật (như tác giả “Đèn Cù”).

Bên cạnh đa số im lặng trùm chăn (silent majority), có một thiểu số lớn tiếng (vocal minority). Những người đã định cư ở nước ngoài thường “dũng cảm” hơn và “lớn tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn nóng muốn thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp, chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay đổi, nhưng nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá trình dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy cách tốt nhất là đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân chủ gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, muốn đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao,  ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với “sức mạnh cứng”, biết kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global synergy).     

Hội nhập quốc tế chậm

Trong thời đại toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ trong quá trình đổi mới và phát triển. Đáng tiếc, giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang chuyển đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước Phương Tây sau này ngày càng đông,  riêng học tại Mỹ đến nay là 16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.

Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp cho những người trí thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực đoan và bạo lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, chỉ khi nào giới trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới thực sự phát triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói trên. 

Nguyễn Quang Dy 07.07.2015

17 comments:

  1. Tuan Hoang: Người Việt đúng là có chết cũng chưa chừa. Một người Việt, xin thưa, là thua kém một người của rất nhiều nước. Có khỉ gì đặc biệt mà khen nhỉ. Sau đó càng nhiều người Việt thì càng bết nữa. Cũng như không hiểu đâu có suy nghĩ rất tệ hại là người Việt, sinh viên Việt thường giỏi toán (hơn nhiều người khác). Tui thấy dốt bỏ mịa và chính ra người Việt càng lớn lại càng sợ Toán. Nguyên nhân là toàn được học toán vớ vẩn nên càng lên cao mới càng thấy không những mình dốt lại còn bị đào tạo vớ vẩn nữa.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Ừ, đúng thật. Tại sao người Việt lại vớ vẩn thế nhỉ?

      Delete
  2. Pham Quang Tuan: Dạo đó thăm Hàn nói chuyện với 1 đồng nghiệp, anh ta nói: người Hàn chúng tôi có câu một thằng Hàn thì hơn 1 thằng Nhật, 3 thằng Hàn thì thua 1 thằng Nhật. Như vậy thì dân Hàn nó cũng hơn gì dân mình đâu?

    ReplyDelete
  3. Ca Vu Thanh: Bài viết này có nhiều cái đúng và nhiều cái mới :) Vấn đề là vẫn có những cái không mới nhưng vẫn không đúng :D Nói vậy thôi chứ tình hình trong nước đang cải thiện. Muốn cải thiện đòi hỏi phải thay đổi nhận thức từ giới lãnh đạo tới người dân; đây là một quá trình giáo dục và tự giáo dục, sự tự hoàn thiện của xã hội. Nhận thức không thể thay đổi trong một vài ngày. Bằng sự hoàn thiện từng bước của hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền, pháp trị, tăng cường nhận thức của gười dân và cán bộ chính quyền, xã hội sẽ ngày càng dân chủ và trí thức sẽ ngày một tốt hơn. Không thể tách rời trí thức khỏi quần chúng, và không thể có "trí thức tốt" trong bối cảnh xã hội còn rất nhiều vấn đề như hiện nay.
    Bài này có một cái sai cơ bản về lịch sử. Khẩu hiệu "trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" ra đời năm 1931 với mục đích thanh đảng sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do Trần Phú lãnh đạo. Ngay sau khi khẩu hiệu ra đời, Thường vụ Trung ương ĐCSĐD đã ra Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng Trung kỳ ngày 20-5-1931, viết rõ: “Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, như vậy thì lấy gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”. Thực tế là do khẩu hiệu này, một số đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra đã đầu thú hoặc chuẩn bị ra đầu thú. Xứ uỷ Trung Kỳ đã phải lập tức ra lệnh thu hồi chỉ thị với khẩu hiệu nêu trên. Như vậy, chỉ thị này là có và đã bị thu hồi vào năm 1931. Việt Minh ra đời năm 1941, không liên quan tới chỉ thị này. Nói chung tôi thấy tác giả này viết dạng "trà dư tửu hậu", không phải là cách viết của "trí thức".

    ReplyDelete
    Replies
    1. Pham Quang Tuan: Soi mói, bới sâu tìm vết một vài chi tiết sai để bác bỏ toàn bài nếu mình không thích, là một lối ngụy biện cũ rích. Chi tiết về "trí phú địa hào..." sai hay đúng thì chưa biết, nhưng xét tổng thể thì quan điểm đó đầy rẫy trong đảng CSVN và đảng CS mẫu quốc Tàu. Nó sẽ lập lại trong thời cải cách ruộng đất dù sau đó thì ông Hồ sụt sịt xin lỗi nhân dân.

      Delete
    2. Ca Vu Thanh: Bác Pham Quang Tuan đồng ý với bài này là đúng rồi. Bác tìm đâu ra chi tiết "một vài chi tiết sai để bác bỏ toàn bài nếu mình không thích" đấy. Phục cái tư duy của bác. Cứ thế thì còn thua dài dài!

      Delete
    3. Phuong Vo: Bác Ca Vu Thanh ơi ! Tôi cũng có đọc qua toàn bài viết này và nghĩ bác khi "making conclusion in scientific(0/1/ ??) method" hơi khắt khe và unfair...cho tác giả "... Như vậy, chỉ thị này là có và đã bị thu hồi vào năm 1931. Việt Minh ra đời năm 1941, không liên quan tới chỉ thị này. Nói chung tôi thấy tác giả này viết dạng "trà dư tửu hậu", không phải là cách viết của "trí thức".

      Delete
    4. Ca Vu Thanh: Không có nghĩa là tôi bác bỏ toàn bài bác Phuong Vo ạ. Tôi nói là "có nhiều cái đúng và nhiều cái mới" chứ chưa kết luận "những cái mới đều sai, những cái đúng thì không mới". Tuy vậy, bài này đúng là "nhàn đàm", như bác Caobinh Nguyen dùng từ.

      Delete
    5. Anh Dam: Em thây tác giả nói chưa hêt và có thể chưa có hệ thống nhưng sự thực em sợ còn buồn hơn!

      Delete
    6. Chỉ là cố gắng đưa ra 1 cái nhìn. Về VN thì còn phải tìm kiếm và đánh giá lại rất nhiều.

      Delete
  4. Ca Vu Thanh: Vấn đề là không thể tách rời trí thức ra khỏi dân tộc. Đất nước chỉ tiến bộ khi dân tộc tiến bộ. Dân tộc tiến bộ không thể qua một phép màu, mà là một quá trình thay đổi nhận thức lâu dài và gian khổ.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Pham Quang Tuan Ngược lại, tôi cho là muốn dân tộc tiến bộ thì đất nước phải tiến bộ. Mà đó là trọng trách của lãnh đạo. Làm không được thì nhường cho người khác làm, hay ít nhất là để cho dân chọn lựa lãnh đạo, đừng tham lam ôm chặt lấy quyền lãnh đạo vĩnh viễn, "chỉ biết còn đảng còn mình"!

      Delete
    2. Phuong Vo: Theo tôi thì " Đất nước chỉ tiến bộ khi dân tộc tiến bộ." vs "..dân tộc tiến bộ thì đất nước phải tiến bộ" phải go hand in hand . Tôi ko nghĩ trách nhiệm này chỉ do lãnh đạo mà của toàn dân. Tuy nhiên trong 1 thể chế cộng sản thì "hand in hand" là 1 thứ xa xí phẩm rất khó thấy trong con mắt "dân chủ".

      Delete
    3. Pham Quang Tuan: Bác Phương hãy đọc kỹ bài của tôi. Chỉ có thể đổ trách nhiệm cho "toàn dân" nếu "toàn dân" có một sự lựa chọn nào đó. Khi mà toàn dân không có sự lựa chọn thì không thể đổ lỗi cho dân được. Phải quy lỗi cho lãnh đạo. Lãnh đạo càng nhiều quyền, càng không thể chạy lỗi cho ai. Lãnh đạo nắm quyền tuyệt đối và duy nhất thì phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Muốn san sẻ trách nhiệm thì chỉ có một cách duy nhất: san sẻ quyền lực.

      Delete
    4. Phuong Vo: Bác Tuan Pham, tôi đã đọc bài viết rất nhiệt tình , xúc tích của bác tuy nhiên bác cũng nên hiểu ý của tôi, Tôi ko thích bàn về nhạy cảm chính trị cho lắm thành ra tôi chỉ có thề nói như vầy: Đường nào cũng về La Mã chỉ khác phương tiện đến đó mà thôi, không có phương tiện nào là perfect trong mọi hoàn cảnh và đa số là kẻ quyết định dùng phương tiện gì để đến đó.

      Delete
  5. Đúng là câu chuyện dài của chúng ta. Về khoản giỏi toán của dân Việt. Nghia Doan bảo:

    "Cũng đúng đấy

    Nhiều thằng thi cử ầm ầm đi học đại học đúng là dốt thật

    Gà chọi mà, có chừng ấy miếng võ luyện mãi

    Ra ngoài gặp heo bò, thậm chí có khi chỉ là dế nhưng chẳng biết làm thế nào."

    ReplyDelete
  6. Tạm bỏ cái tính "dìm hàng" ra thì cũng phải thấy rằng VN mà không chửi với đấm nhau vỡ mồm thì cứ "vớ vẩn" đến chết cũng chả tiến được :)
    "Nhất là mấy ông "trí ngủ" thì càng mệt, toàn lải nhãi mãi chuyện ngày xưa, chả thấy làm gì :) Mà cũng toàn chê bai lằng nhằng, khi cần thì im thin thít, sợ các anh CAND" (Nghia Doan)
    Tóm lại thì đa số đại loại như các cụ viết sách "Đèn Cù" và tâm tư tức tối cả thôi. Cuối đời mới xổ hàng. "Cả đời im thin thít, bụng toàn phân, lúc xổ ra thì thối hoăng cả làng" (Nghia Doan). Cái đó gọi là "táo bón kinh niên" đấy.

    ReplyDelete