Ngày nay, các bác sỹ thường 
   khuyên chúng ta phải kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột 
   tử (vì 
   tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới 
   phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức 
   khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển. Không biết giới 
   trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên không, 
   và có thừa nhận bệnh tật của mình không?  
Có lẽ việc này cần hơn là 
   “định nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu 
   nay chúng ta không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi 
   cái thời ông Mao điên rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức 
   không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh 
   ngây ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú 
   địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí 
   thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.  
Tuy đã qua rồi, nhưng 
   hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực 
   đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn 
   lẩn khuất trong chính chúng ta. Nếu chịu khó 
   quan sát,
   ta có thể nhận diện một số căn bệnh 
   mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ 
   Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến 
   bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa 
   đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!).   
Những nhận xét dưới đây có 
   thể đúng, có thể sai, có thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là 
   cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định ngay.  
Hay định kiến và chia rẽ
Người ta 
   hay nói (nửa 
   đùa nửa thật) rằng một người Việt thì không thua kém 
   một người nước khác, nhưng ba người Việt thì 
   chắc thua kém một người nước khác. Bởi 
   vì ba người Việt thường không hợp sức mà còn
   chia rẽ, tự phân hóa và
   vô hiệu hóa nhau. 
   Không hiểu vì sao tính cá thể của người Việt 
   rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây 
   là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung 
   Hoa). Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do 
   tính bản địa, hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông 
   tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có tiếng 
   là hay định kiến và chia rẽ,
   hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng 
   trí thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay 
   được, nhưng có thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc 
   nhóm rất khó, không phát huy được nội lực và không kết nối 
   được năng lượng (synergy). Rất khó đồng thuận 
   để có tiếng nói chung. Có lẽ vì biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh 
   đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”, nghĩa là không đoàn kết thì 
   mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!  
Gần đây, 
   đáng mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ 
   hóa và
   cởi mở hơn, như xã hội 
   công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới
   này cũng khó phát triển nhanh 
   và mạnh được. Không phải chỉ
   vì số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn,
   bị chính quyền ngăn cản, mà
   bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, 
   rất khó đồng thuận để có 
   tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới hình thành 
   đã cãi nhau rồi. Chưa cần bên ngoài 
   phá, bên trong đã tự phân hóa 
   rồi. Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải 
   dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta
   thường hiểu theo nghĩa cộng đồng chứ không 
   phải từng cá thể. Nếu cứ định kiến và chia rẽ như vậy thì làm 
   sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát Trung”?
Không 
   chịu lắng nghe
   
Theo 
   nguyên lý truyền thông, lắng nghe quan trọng hơn cả nói, để thu lượm 
   và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình tâm mới
   lắng nghe được người khác, để 
   hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều này 
   càng quan trọng trong thời đại bùng nổ truyền thông 
   kỹ thuật số. Muốn lắng nghe
   phải khiêm tốn, chân thành, 
   nhạy cảm. Người ta nói xã hội càng 
   “high-tech” thì con người càng phải “high-touch”. Ta 
   thường làm ngược lại. Gần đây, Việt Nam được xếp vào nhóm 
   nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa số 
   người Việt, nhất là giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác 
   nghe, mà không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người
   còn hay “xoa đầu” và
   dạy bảo người khác (nhất là đối với lớp trẻ).
   Họ thường vô cảm, không hiểu được người khác muốn gì, nghĩ 
   gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc - Nam, trong - ngoài, 
   không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe
   có thể do thái độ ngạo mạn,
   coi thường người khác, luôn 
   cho mình là đúng, ai không giống mình 
   là sai.  
Trong bộ 
   máy công quyền 
   trước đây, người ta quen độc quyền thông tin 
   theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được 
   đọc “bản tin tham khảo” (lấy từ các hãng 
   thông tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của 
   nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi 
   trong đầu đã chứa định kiến gì, 
   thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà
   không cần lắng nghe để 
   tìm hiểu sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường 
   dẫn đến định kiến và chia rẽ. Điều đáng nói là không 
   phải chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) 
   mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh 
   mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy hiểm 
   hơn cả người khác.  
Học giả 
   nhiều hơn học thật
Chưa thấy ở đâu người ta 
   coi trọng bằng cấp và học hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt 
   Nam. Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. 
   Trong khi đó dân chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi 
   không phải tôi nói!). Vì vậy, nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” 
   trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như một khối u mãn tính, làm 
   mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng nói là nó không 
   chỉ 
   phổ biến trong nhà trường mà còn trong
   giới công chức và trí thức. Một quốc gia có 
   trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm 
   muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức báo 
   động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ bé,
   nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô 
   hiệu hóa quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí thức thật 
   thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới trí thức 
   Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều 
   màu sắc khó tả, rất 
   đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản sắc” Việt Nam.  
Nguồn gốc trí thức Việt đại 
   khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây” 
   thời trước (cả Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa quá 
   ít vừa “quá date” (passé rồi),
   nếu chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước 
   ngoài thì cũng đã bị vô hiệu 
   hóa bởi thời thế hoặc thời gian. Thế hệ “thiếu 
   sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô,
   đa số đã trở thành 
   quan chức, một số khác có tài
   đã trở thành trí thức thật, nhưng nay 
   đã về hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến 
   tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân hóa, đa số 
   thực dụng buôn bán kinh doanh giàu lên 
   nhanh như “tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn 
   thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ 
   hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo 
   đuổi khoa học nghệ thuật, thường 
   bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch
   nước khác. Thế hệ đi 
   học các nước “phương tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và
   đa dạng, đa số kinh doanh,
   một số làm công chức, một số khác làm cho 
   nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước 
   ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng 
   ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với 
   thế giới, nhưng chưa được thực sự trân trọng.    
    
Im lặng trùm chăn 
   
Trong bối 
   cảnh xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi 
   ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội 
   đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới 
   trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh
   nghiệm đau buồn như “cải cách 
   ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số 
   thường “trùm chăn”, không dám lên 
   tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tiềm
   tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát 
   khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống 
   kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về 
   cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân 
   quyền đang là vấn nạn 
   trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề
   MIA trước đây). Trong bối cảnh đó,
   giới trí thức văn nghệ sĩ “trùm chăn” 
   là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để
   thoát khỏi nỗi sợ không đơn giản, tùy thuộc 
   vào hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến
   cuối đời mới dám lên tiếng nói ra sự thật (như tác 
   giả “Đèn Cù”).
Bên cạnh đa số im lặng trùm 
   chăn (silent majority), có một thiểu số lớn tiếng (vocal minority). 
   Những người đã định cư ở nước ngoài thường “dũng cảm” hơn và “lớn 
   tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn nóng muốn 
   thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp, 
   chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay 
   đổi, nhưng nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì 
   vậy, cần tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình 
   tâm nhìn kỹ thì quá trình dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và 
   phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều 
   nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy cách tốt nhất là 
   đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân chủ 
   gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An 
   Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, muốn 
   đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao,  ứng dụng công nghệ 
   cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với “sức mạnh cứng”, biết kết nối 
   quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global synergy).     
Hội nhập quốc tế 
   chậm
Trong thời 
   đại toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải 
   hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ 
   trong quá trình đổi 
   mới và phát triển. Đáng tiếc, giới trí thức 
   Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang chuyển đổi. 
   Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt 
   chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều 
   kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu 
   nên giới trí thức bị “nội địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài 
   ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng rào ngôn ngữ và văn hóa 
   cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với thế giới bên 
   ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước 
   Phương Tây sau này ngày càng đông,  riêng học tại Mỹ đến nay là 
   16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ và văn hóa 
   cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và 
   một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.
   
   
Trong thời đại toàn cầu hóa 
   và truyền thông kỹ thuật số, liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng 
   quan trọng, giúp cho những người trí thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ 
   thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực đoan và bạo lực giữa các 
   quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, chỉ khi nào 
   giới trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và 
   nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới 
   thực sự phát triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị 
   các bệnh mãn tính nói trên. 
Nguyễn 
   Quang Dy 07.07.2015
Tuan Hoang: Người Việt đúng là có chết cũng chưa chừa. Một người Việt, xin thưa, là thua kém một người của rất nhiều nước. Có khỉ gì đặc biệt mà khen nhỉ. Sau đó càng nhiều người Việt thì càng bết nữa. Cũng như không hiểu đâu có suy nghĩ rất tệ hại là người Việt, sinh viên Việt thường giỏi toán (hơn nhiều người khác). Tui thấy dốt bỏ mịa và chính ra người Việt càng lớn lại càng sợ Toán. Nguyên nhân là toàn được học toán vớ vẩn nên càng lên cao mới càng thấy không những mình dốt lại còn bị đào tạo vớ vẩn nữa.
ReplyDeleteỪ, đúng thật. Tại sao người Việt lại vớ vẩn thế nhỉ?
DeletePham Quang Tuan: Dạo đó thăm Hàn nói chuyện với 1 đồng nghiệp, anh ta nói: người Hàn chúng tôi có câu một thằng Hàn thì hơn 1 thằng Nhật, 3 thằng Hàn thì thua 1 thằng Nhật. Như vậy thì dân Hàn nó cũng hơn gì dân mình đâu?
ReplyDeleteCa Vu Thanh: Bài viết này có nhiều cái đúng và nhiều cái mới :) Vấn đề là vẫn có những cái không mới nhưng vẫn không đúng :D Nói vậy thôi chứ tình hình trong nước đang cải thiện. Muốn cải thiện đòi hỏi phải thay đổi nhận thức từ giới lãnh đạo tới người dân; đây là một quá trình giáo dục và tự giáo dục, sự tự hoàn thiện của xã hội. Nhận thức không thể thay đổi trong một vài ngày. Bằng sự hoàn thiện từng bước của hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền, pháp trị, tăng cường nhận thức của gười dân và cán bộ chính quyền, xã hội sẽ ngày càng dân chủ và trí thức sẽ ngày một tốt hơn. Không thể tách rời trí thức khỏi quần chúng, và không thể có "trí thức tốt" trong bối cảnh xã hội còn rất nhiều vấn đề như hiện nay.
ReplyDeleteBài này có một cái sai cơ bản về lịch sử. Khẩu hiệu "trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" ra đời năm 1931 với mục đích thanh đảng sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh do Trần Phú lãnh đạo. Ngay sau khi khẩu hiệu ra đời, Thường vụ Trung ương ĐCSĐD đã ra Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng Trung kỳ ngày 20-5-1931, viết rõ: “Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, như vậy thì lấy gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”. Thực tế là do khẩu hiệu này, một số đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra đã đầu thú hoặc chuẩn bị ra đầu thú. Xứ uỷ Trung Kỳ đã phải lập tức ra lệnh thu hồi chỉ thị với khẩu hiệu nêu trên. Như vậy, chỉ thị này là có và đã bị thu hồi vào năm 1931. Việt Minh ra đời năm 1941, không liên quan tới chỉ thị này. Nói chung tôi thấy tác giả này viết dạng "trà dư tửu hậu", không phải là cách viết của "trí thức".
Pham Quang Tuan: Soi mói, bới sâu tìm vết một vài chi tiết sai để bác bỏ toàn bài nếu mình không thích, là một lối ngụy biện cũ rích. Chi tiết về "trí phú địa hào..." sai hay đúng thì chưa biết, nhưng xét tổng thể thì quan điểm đó đầy rẫy trong đảng CSVN và đảng CS mẫu quốc Tàu. Nó sẽ lập lại trong thời cải cách ruộng đất dù sau đó thì ông Hồ sụt sịt xin lỗi nhân dân.
DeleteCa Vu Thanh: Bác Pham Quang Tuan đồng ý với bài này là đúng rồi. Bác tìm đâu ra chi tiết "một vài chi tiết sai để bác bỏ toàn bài nếu mình không thích" đấy. Phục cái tư duy của bác. Cứ thế thì còn thua dài dài!
DeletePhuong Vo: Bác Ca Vu Thanh ơi ! Tôi cũng có đọc qua toàn bài viết này và nghĩ bác khi "making conclusion in scientific(0/1/ ??) method" hơi khắt khe và unfair...cho tác giả "... Như vậy, chỉ thị này là có và đã bị thu hồi vào năm 1931. Việt Minh ra đời năm 1941, không liên quan tới chỉ thị này. Nói chung tôi thấy tác giả này viết dạng "trà dư tửu hậu", không phải là cách viết của "trí thức".
DeleteCa Vu Thanh: Không có nghĩa là tôi bác bỏ toàn bài bác Phuong Vo ạ. Tôi nói là "có nhiều cái đúng và nhiều cái mới" chứ chưa kết luận "những cái mới đều sai, những cái đúng thì không mới". Tuy vậy, bài này đúng là "nhàn đàm", như bác Caobinh Nguyen dùng từ.
DeleteAnh Dam: Em thây tác giả nói chưa hêt và có thể chưa có hệ thống nhưng sự thực em sợ còn buồn hơn!
DeleteChỉ là cố gắng đưa ra 1 cái nhìn. Về VN thì còn phải tìm kiếm và đánh giá lại rất nhiều.
DeleteCa Vu Thanh: Vấn đề là không thể tách rời trí thức ra khỏi dân tộc. Đất nước chỉ tiến bộ khi dân tộc tiến bộ. Dân tộc tiến bộ không thể qua một phép màu, mà là một quá trình thay đổi nhận thức lâu dài và gian khổ.
ReplyDeletePham Quang Tuan Ngược lại, tôi cho là muốn dân tộc tiến bộ thì đất nước phải tiến bộ. Mà đó là trọng trách của lãnh đạo. Làm không được thì nhường cho người khác làm, hay ít nhất là để cho dân chọn lựa lãnh đạo, đừng tham lam ôm chặt lấy quyền lãnh đạo vĩnh viễn, "chỉ biết còn đảng còn mình"!
DeletePhuong Vo: Theo tôi thì " Đất nước chỉ tiến bộ khi dân tộc tiến bộ." vs "..dân tộc tiến bộ thì đất nước phải tiến bộ" phải go hand in hand . Tôi ko nghĩ trách nhiệm này chỉ do lãnh đạo mà của toàn dân. Tuy nhiên trong 1 thể chế cộng sản thì "hand in hand" là 1 thứ xa xí phẩm rất khó thấy trong con mắt "dân chủ".
DeletePham Quang Tuan: Bác Phương hãy đọc kỹ bài của tôi. Chỉ có thể đổ trách nhiệm cho "toàn dân" nếu "toàn dân" có một sự lựa chọn nào đó. Khi mà toàn dân không có sự lựa chọn thì không thể đổ lỗi cho dân được. Phải quy lỗi cho lãnh đạo. Lãnh đạo càng nhiều quyền, càng không thể chạy lỗi cho ai. Lãnh đạo nắm quyền tuyệt đối và duy nhất thì phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Muốn san sẻ trách nhiệm thì chỉ có một cách duy nhất: san sẻ quyền lực.
DeletePhuong Vo: Bác Tuan Pham, tôi đã đọc bài viết rất nhiệt tình , xúc tích của bác tuy nhiên bác cũng nên hiểu ý của tôi, Tôi ko thích bàn về nhạy cảm chính trị cho lắm thành ra tôi chỉ có thề nói như vầy: Đường nào cũng về La Mã chỉ khác phương tiện đến đó mà thôi, không có phương tiện nào là perfect trong mọi hoàn cảnh và đa số là kẻ quyết định dùng phương tiện gì để đến đó.
DeleteĐúng là câu chuyện dài của chúng ta. Về khoản giỏi toán của dân Việt. Nghia Doan bảo:
ReplyDelete"Cũng đúng đấy
Nhiều thằng thi cử ầm ầm đi học đại học đúng là dốt thật
Gà chọi mà, có chừng ấy miếng võ luyện mãi
Ra ngoài gặp heo bò, thậm chí có khi chỉ là dế nhưng chẳng biết làm thế nào."
Tạm bỏ cái tính "dìm hàng" ra thì cũng phải thấy rằng VN mà không chửi với đấm nhau vỡ mồm thì cứ "vớ vẩn" đến chết cũng chả tiến được :)
ReplyDelete"Nhất là mấy ông "trí ngủ" thì càng mệt, toàn lải nhãi mãi chuyện ngày xưa, chả thấy làm gì :) Mà cũng toàn chê bai lằng nhằng, khi cần thì im thin thít, sợ các anh CAND" (Nghia Doan)
Tóm lại thì đa số đại loại như các cụ viết sách "Đèn Cù" và tâm tư tức tối cả thôi. Cuối đời mới xổ hàng. "Cả đời im thin thít, bụng toàn phân, lúc xổ ra thì thối hoăng cả làng" (Nghia Doan). Cái đó gọi là "táo bón kinh niên" đấy.