Thời bao cấp với niềm mơ ước sinh tồn “Ăn no mặc ấm” thay vì “Ăn ngon mặc đẹp”
Ở thời nay, ăn mặc “sành điệu”, ăn uống
“sành điệu”, chọn nhà hàng nào, thời trang nào… là thứ mà mọi người phải
đau đầu suy nghĩ, người đơn giản hơn một chút thì phải là “ăn ngon mặc
đẹp”…
Nhưng cách đây 30, 40 năm, vào những năm
70, 80 của thế kỷ 20, các thế hệ người Việt chỉ ước ao đủ ăn đủ mặc.
Cái đói trường kỳ gặm nhấm tâm can và dạ dày khiến mọi suy nghĩ của một
ngày chỉ xoay quanh vấn đề miếng ăn.
Thế nào là thời bao cấp?
Cảnh mua bán tại một quầy hàng mậu dịch Nhà nước.
Thời bao cấp, với cách gọi nôm na trong người dân là “thời đặt gạch xếp hàng”, diễn ra từ năm 1957 tại miền Bắc, tới sau 4/1975 thì triển khai trên toàn quốc, mãi tới 4/1989 mới thực sự kết thúc. Giai đoạn này nằm trong ký ức không thể quên của thế hệ đầu 8X, 7X, 6X… Đây là một giai đoạn mà hầu hết hoạt động kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa do nhà nước kiểm soát, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản, không chấp nhận kinh doanh tự do.
Câu thơ lảy Kiều thời đó là một mô tả sinh động về thời bao cấp:
Bắt ở trần phải ở trần
Cho may-ô mới được phần may-ô
Cho may-ô mới được phần may-ô
Áo
may ô thời bao cấp. Mỗi năm được 2 chiếc.
Đối với các bạn trẻ hiện nay, làm sao có
thể tưởng tượng được áo may-ô, một loại áo lót dùng cho nam giới, cũng
thuộc loại hàng hóa cung cấp cho “nhân dân”. Vì thế mới gọi là… bao cấp.
Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê giải thích về định nghĩa “bao cấp”: “Bao
cấp là cấp phát phân phối, trả công bằng hiện vật và tiền mà không tính
toán hoặc không đòi hỏi hiệu quả kinh tế tương ứng”.
Đối với người dân, định nghĩa này đơn giản là:
Bao
cấp là tất cả đều do nhà nước đứng ra bao hết, từ cây kim, sợi chỉ, que
diêm cho đến lương thực hằng ngày… Lương hàng tháng của công chức nhà
nước chỉ nhận được một phần tiền rất nhỏ, còn lại quy vào hiện vật thông
qua chế độ cấp phát tem phiếu và sổ gạo.
Tất cả mọi hình thức kinh doanh đều được quản lý theo ‘mô hình xã hội chủ nghĩa’, hoàn toàn do nhà nước nắm giữ.
Nhà nước phân phối vài chục mặt hàng
thiết yếu cho cuộc sống như gạo, thực phẩm, chất đốt, vải vóc, pin, cho
đến các tiêu chuẩn phân phối được mua bổ sung như xà phòng giặt, giấy
dầu, xi măng, khung, săm, lốp xe đạp…
Cái đói đến “mờ mắt” thời bao cấp
Vì sao được nhà nước lo cho toàn bộ mà lại đói?
Toàn bộ nguồn cung cấp lương thực, thực
phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống là thông qua chế độ tiêu chuẩn tem phiếu
có định mức cho từng đối tượng. Điểm đặc biệt là định mức này chỉ đáp
ứng một phần cực nhỏ nhu cầu sinh tồn của 1 con người, cho nên mới tạo
thành cái đói dai dẳng và trường kỳ tháng này qua năm khác.
Điển hình là một người dân tự do được tiêu chuẩn 1,5 lạng (150gr) thịt/tháng, tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành.
Các cấp bậc cán bộ nhà nước được tiêu chuẩn cao hơn, từ 3-5 lạng/tháng (300gr-500gr), tùy cấp bậc.
Thông thường nếu chọn thịt thì thôi mỡ,
vì chỉ được chọn 1 trong 2. Thời đó không có dầu ăn, phải dùng mỡ để
xào, nấu nên mỡ rất quý. Các gia đình vì vậy thường hay chọn “mỡ” thay
vì “thịt”, như vậy sẽ có tích cóp được 1 hũ mỡ dùng để chiên xào nấu một
thời gian dài hơn là 3 lạng thịt tiêu chuẩn trong tháng.
Tuy nhiên, cán bộ cao cấp lại có tiêu
chuẩn gấp 40 lần “nhân dân”: 6kg thịt/tháng. Nhiều người cũng thắc mắc
vì sự chênh lệch quá lớn này.
Rau có tiêu chuẩn 3-5kg/người/tháng, trong khi nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể cần từ 300gr-500gr/ngày.
Em bé dưới 1 tuổi cũng đói, vì tiêu
chuẩn của em tất cả là 4 lon sữa đặc có đường Liên Xô/ “Ông Thọ” trong 1 tháng.
Nên mới có cảnh các em bú “nước đường”, một điều mà thời nay dường như
không thể tin nổi. Nếu mẹ của các em có giấy tờ chứng minh mất sữa hoàn
toàn, thì em bé có khả năng sẽ nhận được 8 lon.
Thậm chí có tiền vẫn phải chịu đói… vì không ai dám bán để mà mua!
Hàng hóa thời đó không được mua bán tự
do trên thị trường như bây giờ, không được phép vận chuyển tự do hàng
hoá từ địa phương này sang địa phương khác.
Trao đổi bằng tiền mặt bị hạn chế, nên
có người thậm chí có tiền vẫn đói, vì không ai được phép “kinh doanh”.
Không có những cái tên mỹ miều như bây giờ là “doanh nhân”, “hộ kinh
doanh”, mà chỉ là “phe phẩy” hay “tư thương”, “chợ đen” … những từ mang
hàm nghĩa rất tiêu cực và khinh miệt, nếu bị phát hiện sẽ bị công an bắt
và tịch thu toàn bộ hàng hóa. “Siêu thị” hay “chợ” là những khái niệm
gần như không tồn tại.
Câu nói “Có tiền mua tiên cũng được” ít nhất cũng không thể đúng ở thời bao cấp. Thời này, sổ gạo mới là thứ quan trọng nhất.
Từ sau 30/4/1975 – khi nền kinh tế đặc
thù này áp dụng trên toàn quốc, những ai sống ở khu vực phía nam vốn
quen với nền kinh tế tự do, chưa quen với cái “đói” trường kỳ của nền
kinh tế bao cấp như ngoài bắc, bỗng đột ngột chịu “đói” đến hoảng hốt!
Sự thiếu thốn đi kèm chất lượng “thê thảm”
Sự thiếu thốn cũng đi kèm chất lượng
“thê thảm”: gạo mốc xanh đen, gạo hẩm, bột mỳ mốc, rau vàng héo, thịt
“bèo nhèo” (phần thịt “ngon” đã được chia chác cho mậu dịch viên và
những “mối quan hệ” quen thân của mậu dịch viên).
Mậu dịch viên thời bao cấp- nghề đáng mơ ước nhất thời bấy giờ, vì đảm
bảo có đủ miếng ngon cho nhu cầu sinh tồn của gia đình, và có thể mang
“quyền lực” phân phát này để làm mưa làm gió….
Gạo thiếu, gạo mốc đen nên cơm thường
xuyên là những bữa cơm độn mỳ sợi mốc, bột mì tồn kho (viện trợ từ Liên
Xô), sắn khô xắt lát, ngô (bắp), bo bo (hạt lúa mì) hay gạo vỡ (gạo tấm)
Thịt quá ít, có cũng như không, nên
thường đổi thành mỡ, để có cái xào nấu rau ăn dần. (Thời đó không có dầu
ăn như bây giờ, thi thoảng cũng chỉ có chút dầu lạc (dầu đậu phộng) hôi
khét).
Những câu vè thời đó nói lên giá trị của những mặt hàng trong thời bao cấp:
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có “đếch”
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu…
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có “đếch”
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu…
Thảm họa “mất sổ gạo”
Tuy “phàn nàn” thiếu thốn như vậy, nhưng
thời đó nếu để mất tem phiếu sẽ là thảm họa, so thảm họa này với cảnh
thiếu thốn thường nhật thì thiếu thốn vẫn còn là “thiên đường”. Các thế
hệ thời đó sẽ đứng trước nguy cơ nhịn đói cả tháng, đi xin, đi vay mượn
lương thực, hoặc mua chui lại của “phe tem phiếu” (người tích trữ đầu cơ
trái phép tem phiếu).
Vì vậy thành ngữ “Mặt như mất sổ gạo” trở
nên vô cùng nổi tiếng thời bấy giờ, dùng để mô tả một khuôn mặt ủ ê
não nề không thể đau khổ hơn. Bởi vì thời đó, mất sổ gạo là cầm chắc
nhịn đói! Nhịn đói không phải là một ngày hay một tháng mà có khi đến
vài ba tháng. Bởi hành trình, thủ tục xin cấp lại cuốn “bảo bối quý giá”
này khổ sở vô cùng. Suốt những ngày còn lại sẽ chạy vạy, vay mượn khắp
nơi để sống sót qua ngày đoạn tháng.
Nạn ăn cắp diễn ra phổ biến và rất tinh vi, cũng khiến việc mất tem phiếu, mất sổ gạo diễn ra lại càng thường xuyên hơn.
Cảnh xếp hàng như chơi trò rồng rắn lên mây….
Muốn mua được lương thực thực phẩm, các
thế hệ thời đó cần đi xếp hàng 3, 4 giờ sáng để giữ chỗ, phòng khi cửa
hàng bán nửa chừng hết lương thực, thực phẩm. Người ta dùng những cục
gạch, chiếc dép, mảnh gỗ để ‘xí chỗ’ khi cửa hàng chưa mở cửa và người
thật sẽ đứng vào hàng khi mở cửa.
Thậm chí nếu xếp hàng đầu, nhưng cũng
không bảo đảm là sẽ được mua trước, bởi vì nếu có những sổ thuộc dạng
‘ưu tiên’ hoặc ‘chen ngang’ do có móc ngoặc với nhân viên thương nghiệp,
hoặc đơn giản là xếp hàng tới nơi mới biết đã bị ăn cắp tem phiếu hay
sổ rồi.
Rất nhiều khi, mỏi mệt rã rời vì xếp
hàng cả đêm, nhưng tới gần lượt, thì cánh cửa hàng mậu dịch sẽ sập xuống
phũ phàng trước mặt cùng với câu nói lạnh băng của cô mậu dịch viên
“HẾT HÀNG”… Vậy là lê bước về nhà để hôm sau đi xếp hàng tiếp…
Nuôi lợn trong nhà tắm hoặc 1 góc bếp căn hộ tập thể 20m2.
Bụng đói cật rét: Không những đói mà còn rét, bụng càng đói thì lại càng rét
Không những đói, các thế hệ thời đó còn
chịu rét, vì một năm tiêu chuẩn của một người được 5-7m vải để may quần
áo, tương đương với định mức 2-3 bộ quần áo/năm. Nên cảnh mặc quần áo vá
chằng vá đụp là điều hết sức thông thường.
Đây được coi như một giai đoạn thất bại, yếu kém và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20.
Bám thành tàu điện thời bao cấp, khỏi mất tiền mua vé.
“Cái nghèo” sinh ra “cái hèn”: Cái đói gặm nhấm mất lương tri và những điểm sáng sót lại của tình người thời nghèo đói..
Thế hệ trẻ thời nay sẽ không thể
tưởng tượng nổi cảnh thìa nhôm ở cửa hàng mậu dịch ngày xưa của ông cha
mình phải bị đục lỗ, và đĩa nhôm ở cửa hàng cũng phải bắt vít chết xuống
bàn chứ không thể để tự do. Vì sao vậy?
Ở thời đó, người ta đã phải chấp nhận một nghịch cảnh của xã hội là: Cái đói dai dẳng, thật tàn nhẫn, đã gặm nhấm mất lương tri của nhiều người. Nạn ăn cắp vặt trở nên phổ biến toàn dân, nên các cửa hàng mậu dịch chỉ còn cách đó để tránh bị mất mát đồ đạc.
Ăn cắp thời đó đã trở nên rất tinh vi,
tới nỗi hình thành nên một khái niệm là “nghệ thuật móc túi siêu đẳng”…
Rất nhiều kẻ cắp lão luyện thường xuyên trà trộn vào các dãy xếp hàng
rồng rắn lên mây, vờ như xô đẩy người khác hay bị xô đẩy, để rồi lợi
dụng lúc xô đẩy đó mà áp sát đối tượng để “móc túi” một cách “nghệ
thuật”. Có quá nhiều người thời đó xếp hàng, mặc dù rất cẩn thận giữ
chặt phiếu rồi, mà tới khi đến lượt mua hàng thì phiếu đã không cánh mà
bay… Khuôn mặt đầy nước mắt của họ vào thời khắc đó khốn khổ đáng
thương hơn bất cứ điều gì… nhịn đói rồi…
Căn bệnh ganh tỵ và kèn cựa cũng
trở nên trầm kha hơn ở các cơ quan đoàn thể vì sống theo chế độ tập thể
khiến ai cũng coi sự công bằng tuyệt đối là một chân lý, họ bị méo mó
tính cách vì tin vào điều đó.
Nhưng một điểm sáng của thời đó so với thời nay mà người ta vẫn nhận thấy đó là tình người,
tuy có ganh tỵ và kèn cựa nhau vì miếng cơm manh áo, nhưng người với
người cũng vẫn thường hay đối xử tốt bụng, nâng đỡ nhau, sẵn lòng giúp
đỡ nhau và “coi việc của bạn như việc của mình…”
Nhờ giữ chỗ xếp hàng, nhờ đặt gạch, nhờ bơm xe vá xe đạp, nhờ trông hộ
nhà, nhờ trông con nhỏ …vv, nhiều cái nhờ vả thời bao cấp mà không còn
tồn tại ở thời nay trong cuộc sống hiện đại mà ai cũng quay cuồng với
các vấn đề riêng của cá nhân….
Các câu chuyện bi hài có thực 100% về
cái đói thời bao cấp do bác Trần Thị Thúy Nga ở Hà Nội kể lại cho phóng
viên Đại Kỷ Nguyên:
Ở một đơn vị
quân đội, giống như mọi đơn vị khác, có tình trạng nuôi lợn để tăng gia
thời bao cấp. Thời đó chưa có cám công nghiệp, toàn bộ thức ăn cho lợn
phải dựa vào nguồn cơm thừa canh cặn của bếp ăn tập thể. Thông lệ là
phần “cơm cháy” ở đáy nồi cơm của bếp ăn tập thể là để dành cho lợn.
(Thời đó không có nồi cơm điện chống dính, nên nồi cơm luôn có cháy)
Nhiều lần nhà bếp bỗng thấy cháy nồi cơm cứ bị “biến mất”, nên đã quyết định “điều tra”, “rình” để bắt kẻ tội phạm.
Cuối cùng kẻ tội
phạm là một anh lính trẻ đã bị bắt. Vì quá đói trường kỳ, nên anh đã
làm liều, đi ăn vụng cháy dành cho lợn hết lần này đến lần khác.
Hình thức kỷ luật áp dụng cho anh là: Tới chuồng lợn và xin lỗi lợn nhiều lần..
1 con vịt cỏ 7 lạng cho 200 người ăn và phương châm “Sống cùng sống, chết cùng chết” thời bao cấp
Đó là câu chuyện thời sinh viên của bác
Nga. Bếp ăn tập thể sinh viên thời đó lâu lâu có bữa gọi là “cải thiện”,
tức là có “thịt” chứ không chỉ rau và muối như thường lệ. Các sinh viên
năng động phải tham gia vào công tác hậu trường nhà bếp. Lần ấy bài
toán nhà trường đưa ra quá khó khăn cho bác. Món cải thiện cho bếp ăn
của trường là một chú vịt cỏ bảy lạng gồm cả xương sau khi bỏ lông. Bài
toán là số thịt này nhất định phải được chia đều cho các suất ăn của 200
sinh viên. Làm thế nào đây để đạt được sự công bằng? Các phương án
luộc, xào, nấu… đều không thể khả thi.
Vắt óc mãi không thể tìm ra phương án
phân chia công bằng, cuối cùng 1 tia sáng cũng phải lóe lên: băm (bằm)
toàn bộ con vịt cỏ nhỏ bé đó, bằm cả xương, tới mức li ti như vụn bột,
sau đó cho vào nấu canh toàn bộ. Cuối cùng các sinh viên không thể nào
nhận ra một dấu tích gì của món “Thịt vịt cải thiện” của nhà trường
trong suất ăn tập thể, vì đã bị bằm quá li ti và tan biến mất trong một
nồi canh quá lớn cho 200 người ăn… Các sinh viên không phải tranh giành
hay kèn cựa, kiện cáo nhau nữa…
No comments:
Post a Comment