(tên gốc: CÓ NÊN DÙNG PHIÊN ÂM LATIN THAY ÂM HÁN VIỆT ĐỐI VỚI TÊN RIÊNG TRUNG QUỐC?)
Đăng trên Tuổi trẻ cuối tuần số 27-2013 ra ngày 21-7-2013, tên bài và các đề mục do Tòa soạn báo đặt
Người
 Việt ta xưa nay vốn quen dùng âm Hán Việt trong tên người hay địa danh 
Trung Hoa. Những cái tên Tư-mã Thiên, Khổng Tử, Khổng Minh, Tào Tháo, Đỗ
 Phủ, Bắc Kinh, Hàng Châu, … đã ăn sâu trong tâm trí chúng ta. Nhưng từ 
dăm năm trở lại đây, có một số ý kiến muốn áp dụng lối phiên âm Latin 
của Trung Quốc, gọi là pinyin (âm Hán Việt là bính âm hoặc phanh âm) thay cho tên gọi Hán Việt quen thuộc. Lý lẽ biện hộ cho quan điểm này là pinyin phù
 hợp với “thông lệ quốc tế” trong xu thế hội nhập hiện nay, dễ tra cứu 
và phát âm giống tên gốc hơn. Thậm chí dùng âm Hán Việt còn bị quy kết 
là  “rào cản hội nhập”!
CỘI NGUỒN CỦA BÍNH ÂM
Trước hết ta hãy điểm qua lý do, lịch sử hình thành và phát triển của pinyin.
 Chữ Hán không phải là chữ ghi âm dựa trên một bảng chữ cái, mà là chữ 
biểu ý, còn gọi là chữ tượng hình, do đó phải có một hệ thống phiên âm 
kèm theo dành cho người học. Sau khi nước CHND Trung Hoa được thành lập,
 nhằm mục đích xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, Quốc vụ viện (chính 
phủ) Trung Quốc đã tiến hành cải cách chữ viết cho dễ học dễ viết bằng 
cách lược bớt một số nét (hoặc viết đơn giản hơn) một số chữ Hán phức 
tạp, từ đó tạo ra loại chữ giản thể, đồng thời lập quy tắc phiên âm cho 
chữ Hán bằng hệ chữ cái Latin, gọi là pinyin (tên đầy đủ là Hán ngữ bính/phanh âm – Hanyu pinyin). 
Hệ thống phiên âm pinyin
 về cơ bản ra đời năm 1958, sau đó được hoàn thiện và dạng thịnh hành 
hiện nay được thông qua năm 1978. Năm 1981 Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc 
tế (ISO) công nhận pinyin là chuẩn phiên âm Hán ngữ. Sách báo Pháp, Anh, Mỹ bắt đầu sử dụng pinyin
 vào đầu thập kỷ 1980, nhưng phải đến cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, Thư
 viện Quốc hội Hoa Kỳ mới tiến hành chương trình chuyển đổi toàn bộ 
phiên âm tên riêng Trung Quốc từ hệ Wade-Giles cũ sang pinyin. Pinyin cũng được sử dụng tại Liên hợp quốc từ năm 1977 sau khi Trung Quốc trở thành thành viên của tổ chức này (1971). Tuy nhiên, pinyin
 đã không thực hiện được tham vọng ban đầu là thay thế hẳn Hán tự, vì 
hai lý do chính: 1) có nhiều từ đồng âm nên dễ gây hiểu lầm hoặc khó 
đoán nếu không viết hẳn mặt chữ Hán ra; 2) tồn tại nhiều phương ngữ với 
các cách phát âm khác nhau đối với cùng một mặt chữ, trong khi pinyin dựa
 trên tiếng phổ thông (lấy phương ngữ Bắc Kinh làm chuẩn), do đó nếu chỉ
 viết dạng Latin hóa theo âm đọc, sẽ có nhiều người ở chính Trung Quốc 
không hiểu nếu họ không thạo tiếng phổ thông.
Vậy thì trước khi áp dụng pinyin,
 các ngôn ngữ phương Tây như tiếng Anh, Pháp, Đức,… sử dụng cách phiên 
âm nào? Nói chung mỗi thứ tiếng có quy tắc phiên âm của mình, thậm chí 
không phải chỉ có một cách. Dùng phổ biến nhất trong tiếng Anh là hệ 
Wade-Giles, ra đời từ cuối thế kỷ 19, lấy theo tên hai nhà ngoại giao 
người Anh là tác giả của phương pháp phiên âm này. Còn tiếng Pháp sử 
dụng hệ EFEO, do Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) của Pháp soạn thảo.
Ưu điểm dễ thấy nhất của pinyin chỉ là dễ tra cứu theo các ngôn ngữ phương Tây hay thuận theo cách phiên của nước chủ nhà. Tuy nhiên pinyin không bao trùm tất cả. Đài Loan cho tới nay vẫn không hoàn toàn sử dụng pinyin mặc dù có thông tin nói đã có quy định áp dụng từ năm 2009. Nếu đọc tờ Taipei Times (Đài Bắc thời báo) bằng tiếng Anh (www.taipeitimes.com/), ta thấy tên riêng vẫn ghi theo cách riêng (đa số theo hệ Wade-Giles) mà không theo pinyin và có kèm chữ Hán, chẳng hạn Chiang Kai-shek (Tưởng Giới Thạch), Lee Teng-hui (Lý Đăng Huy), Ma
 Ying-jeou (Mã Anh Cửu), Keelung (Cơ Long), Chiayi (Gia Nghĩa). Chính vì
 lẽ đó, các cuốn từ điển bách khoa của Anh, Mỹ hay Pháp khi ghi tên nhân
 danh hay địa danh Đài Loan đều theo đúng cách viết bản địa, tức là 
không theo pinyin. Và điều đáng ngạc nhiên là ngay một số mạng chính thống của Trung Quốc như Tân Hoa xã (http://news.xinhuanet.com/english/), Nhân dân nhật báo tiếng Anh (www.chinadaily.com.cn), Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (http://english.cntv.cn/)
 cũng nhất nhất tuân theo quy ước này khi nhắc đến các tên riêng Đài 
Loan, như Koo Chen-fu (Cô Chấn Phủ), Wu Po-hsiung (Ngô Bá Hùng), Lin 
Join-sane (Lâm Trung Sâm), Taipei (Đài Bắc), Kaohsiung 
(Cao Hùng). Đối với các nhân vật gốc Hoa ở Hoa Kỳ, Singapore, châu Âu… 
thì họ tên của họ cũng phiên theo cách riêng (trừ một số người xuất thân
 từ Trung Hoa đại lục sang đây chưa lâu phiên tên họ theo pinyin như Cao Hành Kiện: Gao Xingjian):
 Lee Kuan Yew (Lý Quang Diệu), Lee Hsien Loong (Lý Hiển Long), Chen-Ning
 Yang (Dương Chấn Ninh), Yuan Tseh Lee (Lý Viễn Triết). Nếu bạn tìm đọc 
sách viết về Trung Quốc trong phần lớn thế kỷ 20 (thậm chí có cuốn in 
vào cuối thế kỷ 20) thì họ cũng không dùng pinyin, sách tiếng Anh của các tác giả Đài Loan thì lại càng không.
Một ngộ nhận trong số những người ủng hộ việc sử dụng pinyin trong tiếng Việt là họ cho rằng pinyin giúp
 phát âm chính xác tên riêng Trung Quốc. Nếu không học cách phát âm Hán 
ngữ thì dù người Việt hay người Anh, người Pháp đều phát âm không đúng 
nhiều từ trong tiếng Hán nếu cứ đọc theo pinyin và chắc chắn 
người Trung Quốc không hiểu họ nhắc đến ai hay địa danh nào. Lý do là 
nhiều chữ Latin theo cách đọc thông dụng không phản ánh đúng âm tiếng 
Hán. Đó là chưa kể việc dùng pinyin trên sách báo phương Tây nói 
chung không ghi dấu thanh điệu do không thuận tiện (tiếng Hán có bốn dấu
 thanh điệu), nên chuyện ông nói gà bà tưởng vịt càng tăng. 
Chẳng hạn Cao Cao
 (Tào Tháo) không đọc là Cao Cao như trong tiếng Việt (hay [Kaʊ Kaʊ] 
theo phiên âm quốc tế),mà phải đọc là [TsaʊTsaʊ]. Hay những phụ âm b, d, q, j trong pinyin  không đọc là [b], [d], [k], [dʒ] như ta tưởng. Xét về độ chính xác trong ghi âm, pinyin còn thua cả hệ Wade-Giles. Ưu điểm của pinyin
 so với hệ Wade-Giles là nó phân bổ các âm gần nhau trong tiếng Hán cho 
những chữ cái riêng biệt trong bảng chữ cái Latin (nhưng mất đi sự chính
 xác), khiến cho việc phân biệt âm dễ hơn. Chẳng hạn, các cặp phụ âm bật
 hơi và không bật hơi có âm gần nhau trong hệ Wade-Giles là k/k’, p/p’, t/t’, ch/ch’, ts/ts’ sang pinyin chuyển thành g/k, b/p, d/t, zh/ch (hoặc j/q  trước i và ü), z/c, dễ tách bạch hơn so với chỉ phân biệt bằng dấu ’ (mà có khi viết ra bị bỏ sót). Ví dụ: Chang Kuo-t’ao (Trương Quốc Đào) theo hệ Wade-Giles chuyển thành Zhang Guotao trong pinyin, Teng Hsiao-p’ing (Đặng Tiểu Bình) thành Deng Xiaoping.
TRÁNH NHỮNG ĐỀ XUẤT NỬA VỜI 
Qua phân tích trên đây, ưu điểm phát âm chính xác cho người bản ngữ hiểu được mà một số người gán cho pinyin khi so sánh với âm Hán Việt chỉ là tưởng tượng. Mặc dù trong một số trường hợp, pinyin
 có thể gần tên gốc hơn âm Hán Việt, nhưng tên riêng đòi hỏi chính xác 
gần như tuyệt đối nên dù gần hơn mà vẫn bị lẫn lộn thì cũng chẳng có ý 
nghĩa gì. Xin lấy một ví dụ trong tiếng Việt cho dễ hiểu: Nguyễn Viết 
Vân hay Nguyễn Việt Văn cần chính xác tuyệt đối chứ không thể viết 
Nguyen Viet Van chung chung được. Trong khi đó tuy âm Hán Việt có thể 
không gần âm gốc bằng, nhưng trong nhiều trường hợp có thể khôi phục 
được nguyên dạng chữ Hán, điều mà pinyin chịu thua.
Trong khi đó, nhiều nhược điểm bộc lộ ở pinyin so với âm Hán Việt:
1. Tên riêng theo pinyin
 vô nghĩa, vô cảm, khó nhớ, khó đọc. Bắc Kinh hay Nam Kinh đều được 
người Việt hiểu ngay nghĩa là kinh đô phía Bắc hay phía Nam, còn Beijing  hay Nanjing chẳng gợi lên điều gì. Hà Nam hay Hà Bắc cho ta biết ngay hai tỉnh đó ở phía Bắc hay phía Nam sông Hoàng Hà, còn Hebei hay Henan thì không.
2. Tên riêng theo pinyin gây thêm sự trùng lặp, nhầm lẫn, nhất là nếu viết không có dấu thanh điệu. Lu Xun có thể là Lỗ Tấn hoặc Lục Tốn, Yan Yuan có thể là Nhan Uyên (học trò của Khổng Tử) mà cũng có thể là Nhan Nguyên (triết gia đời Thanh); Pingxiang  có thể là Bằng Tường (ở Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây) hay Bình Hương (ở tỉnh Giang Tây); Heng Shan có thể là Hoành/Hành Sơn (ở tỉnh Hồ Nam) hay Hằng Sơn (ở tỉnh Thiểm Tây [chỗ này nhầm: đúng là Sơn Tây]). Trường hợp ngược lại hầu như không xảy ra trong tên riêng vì số lượng âm Hán Việt nhiều hơn hẳn số lượng âm pinyin (nếu không kèm theo dấu thanh điệu thì càng ít).
Bạn thử tưởng tượng đọc TamQuốc diễn nghĩa, Thủy Hử  hay truyện chưởng Kim Dung (à phải viết là Sanguoyanyi, Shuihu, Jin Yong mới phù hợp) với các nhân vật Guan Yu, Zhuge Liang, Zhao Yun, Lin Chong, Lu Zhishen, Wu Song, Yang Bu Hui, Huoqingtong, … thì liệu có hứng thú như trước không?
Dường như cũng thấy những bất cập nếu chuyển hoàn toàn sang pinyin,
 một vị tiến sĩ đề xuất: “Nhân danh địa danh ở thời kỳ “đồng văn” (từ 
thế kỷ 19) nên nhất loạt dùng phiên âm Hán - Việt. Chúng ta sẽ đọc/viết 
là Khổng Tử, Giả Nghị, Đào Uyên Minh, Đỗ Phủ, Tương Giang... Nhưng tên 
riêng Trung Quốc thời kỳ tình trạng “đồng văn” chấm dứt (từ đầu thế kỷ 
20 trở đi), chúng ta nên đọc/viết theo đúng âm Bắc Kinh (bính âm). Nếu 
chưa thực hiện được ngay thì tên riêng Trung Quốc đương đại (từ sau 
1979) nhất thiết phải đọc/viết theo quy tắc ấy”1. Một đề xuất
 nửa vời gây sự thiếu nhất quán, đứt khúc về thời gian như vậy phỏng có 
nên? Chưa nói đến việc khó khả thi (hoặc nhà báo, dịch giả công đâu tra 
cứu việc này) khi xác định nhân danh, địa danh nào xuất hiện trước năm 
1979 (hoặc trước đầu thế kỷ 20), nhân danh, địa danh nào xuất hiện sau 
năm 1979 (hoặc sau đầu thế kỷ 20) và xuất hiện ở đâu để quyết định phiên
 âm Hán Việt hay pinyin?
NGUYỄN VIỆT LONG
Đào Ngọc Trung: Công nhận Nguyen Viet Long chịu khó nghiên cứu nhiều vấn đề về ngôn ngữ hay thật. Về đề tài này mình thấy việc chuyển sang phiên âm theo Pinyin là hướng đi đúng, chỉ có vấn đề là phải hoàn thiện hơn nữa pinyin để nó thể hiện chính xác các âm của tiếng Hán. Nhưng cái gì cũng có hai mặt, hoặc nói cách khác cũng phải trả giá. Như việc Việt nam bỏ tiếng Nôm tượng hình sang phiên âm la tinh thì thấy quá hay, nhưng việc bị đứt dòng văn hóa là một cái giá phải trả cũng quá lớn. Nhiều khi dẫn các bạn Nga vào chùa Việt nam, nói với họ rằng các chữ tượng hình kia là chữ Nôm của Việt nam đấy, trong khi đó thì chính mình là người Việt nam, cũng không phải là dốt nát gì lắm, mà đọc chỉ lõm bõm một vài chữ, cũng xấu hổ lắm.
ReplyDeleteNguyễn Việt Long: Trên kia có nhầm 1 chỗ: Núi Hằng Sơn ở tỉnh Sơn Tây chứ không phải Thiểm Tây. Hai tỉnh đó phiên theo pinyin đều là Shanxi cả. Bọn Tây phải quy ước Shanxi là Sơn Tây, còn Thiểm Tây thì thêm chữ a nữa thành 2 chữ a: Shaanxi.
ReplyDeleteAnh Do: Em cũng từng có một trải nghiệm khi sang Đài Loan. Hôm đó mình đi muộn nên phải bắt taxi đến nơi hội thảo. Chìa cái địa chỉ pinyin ra, thay vì đưa tới hội thảo thì ông taxi (kém tiếng Anh) đưa đến một khu chợ sầm uất :))
ReplyDeleteGuan Yu, Zhuge Liang, Zhao Yun, Lin Chong, Lu Zhishen, Wu Song, Yang Bu Hui, Huoqingtong --> các tên trên đều biết, trừ có tên cuối phải tra ra mới biết là Hoắc Thanh Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục
Nguyễn Việt Long @ Trung Dao Ngoc: người ta đã hoàn thiện chán chê trong mấy chục năm rồi, gần như không thể hoàn thiện thêm. Nếu muốn "thể hiện chính xác các âm của tiếng Hán" thì chỉ có cách quay lại hệ Wade-Giles hoặc đặt thêm ký hiệu mới. Cái khó thuộc về bản chất không thể vượt qua. Do đó không thể "hoàn thiện hơn nữa pinyin để nó thể hiện chính xác các âm của tiếng Hán".
ReplyDelete