Wednesday, November 4, 2015

Nhận diện kẻ phản trắc: Trung Quốc - Kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam (1)

Giặc đến nhà nhưng không được đánh mà phải đón tiếp là việc thật khó chấp nhận. "Rõ ràng, Tập Cận Bình không đến để gặp nhân dân Việt Nam - người chủ đất nước - như đảng cộng sản Việt Nam vẫn tuyên bố. Lời mời của đảng cộng sản Việt Nam với Tập Cận Bình lúc này, trở thành riêng tư và mới thật lạc lõng làm sao." (NS. Tuấn Khanh)  

Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, những người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Mười năm sau,tháng 9  năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, Mao Trạch Đông nói:
“Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”

I- VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA TRUNG QUỐC

Trong chiến lược toàn cầu của nhà cầm quyền Bắc Kinh, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ. 

Tại Hi ngh Giơnevơ năm 1954 v Đông Dương. Pháp lo s thng li hoàn toàn ca nhân dân Vit Nam s dn đến s sp đ ca h thng thuc đa ca ch nghĩa đế quc Pháp. Nhng người lãnh đo Trung Quc đã li dng tình hình đó đ đng ra làm người thương lượng ch yếu đi vi đế quc Pháp, câu kết vi chúng và cùng nhau tho hip v mt gii pháp có li cho Trung Quc và Pháp. H đã hy sinh li ích ca nhân dân ba nước Đông Dương đ bo đm an ninh cho Trung Quc phía nam, đ thc hin mưu đ nm Vit Nam và Đông Dương, đng thi đ có vai trò là mt nước ln trong vic gii quyết các vn đ quc tế, trước hết là châu Á. Trong Hi ngh Giơnevơ năm 1954 mà phn đu dành cho vn đ Triu Tiên, nước Cng hoà nhân dân Trung Hoa ln đu tiên xut hin ngang hàng vi bn cường quc u viên thường trc ca Hi đng bo an Liên hp quc. Đó là mt cơ hi tt cho nhng người lãnh đo Trung Quc m rng nh hưởng ca mình khu vc châu Á và châu Phi. Đng thi, h tìm cách bt tay vi M qua các cuc thương lượng trc tiếp bt đu  Giơnevơ, v sau chuyn sang Vacsava.

Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Trung Quốc lại mun duy trì lâu dài tình trng Vit Nam b chia ct. Nhưng Vit Nam đã anh dũng đng lên chng M và đã giành được thng li vào năm 1975.
Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh này, tng thng Nixon đã đ ra kế hoch “Vit Nam hoá” chiến tranh và theo kinh nghim ca đế quc Pháp năm 1954, dùng Trung Quc hòng gii quyết vn đ Vit Nam vi nhng điu kin có li cho đế quc M: rút quân M ra khi Vit Nam mà vn gi được chế đ bù nhìn Nguyn Văn Thiu min nam Vit Nam. Đng thi, chính quyn Nixon chơi con bài Trung Quc đ gây sc ép đi vi Liên Xô, làm suy giảm phong trào cách mng trên thế gii.

Bắc Kinh đã tăng cường chng Liên Xô và tho hip vi M, giúp M gii quyết vn đ Vit Nam đ c to nên thế ba nước ln trên thế gii theo công thc ca Kissinger v “thế gii nhiu cc”, trong đó mt trong ba cc ln là Trung Quc, đng thi dùng vn đ Vit Nam đ đi ly vic M rút khi Đài Loan. Do đó, h lt ngược chính sách liên minh, bt đu t vic coi Liên Xô là k thù ch yếu, gây ra xung đt biên gii vi Liên Xô tháng 3 năm 1969, đến vic phn bi Vit Nam ln th hai, buôn bán vi M đ ngăn cn thng li hoàn toàn ca Vit Nam. Trong năm 1971, h ln lượt tiến hành chính sách “ngoi giao bóng bàn”, đón tiếp Kissinger  Bc Kinh. Tiếp đó là vic khôi phc đa v ca Trung Quc Liên hp quc và nước Cng hoà nhân dân Trung Hoa tr thành mt trong năm u viên thường trc  ca Hi đng bo an. Đnh cao là vic Trung Quc tiếp tng thng M Nixon và hai bên ra Thông cáo Thượng Hi tháng 2 năm 1972. Đi vi nhng người cm quyn Bc Kinh, s câu kết vi M là mt bước có ý nghĩa quyết đnh đi vi vic trin khai chiến lược toàn cu ca h.

Thng li ca Vit Nam năm 1975 không ch là tht bi ln ca M mà còn là tht bi ca nhng người cm quyn Bc Kinh trong vic thc hin chiến lược toàn cu và mưu đồ bành trướng, bá quyn ca h. T đó, h công khai thi hành chính sách thù đch chng Vit Nam, k c bng bin pháp quân s.
Như vy, Vit Nam là mt trong nhng nhân t quan trng nht trong chiến lược toàn cu ca Trung Quc. Vì Vit Nam có v trí rt quan trng trong chiến lược ca Pháp gia nhng năm 1950 cũng như trong chiến lược ca M đu nhng năm 1970, nhng người lãnh đo Trung Quc đã dùng “con bài” Vit Nam đ câu kết vi bn đế quc, phc v cho ý đ chiến lược bành trướng đi dân tc và bá quyn nước ln ca h. Đng thi h mưu toan mt mình nm cuc kháng chiến chng M cu nước ca nhân dân Vit Nam, mt vn đ trung tâm ca đi sng chính tr quc tế lúc by gi đ giương cao chiêu bài “chng ch nghĩa đế quc” hòng nm quyn “lãnh đo cách mng thế gii”, dìm nh hưởng ca Liên Xô.

II- VIT NAM TRONG CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CA TRUNG QUC.

Trong năm 1936, ch tch Mao Trch Đông k chuyn vi nhà báo M Etga Xnâu Diên An v thi tr ca mình, đã bc l ý nghĩ sau khi đc mt cun sách nh nói đến vic Nht chiếm Triu Tiên và Đài Loan, vic mt “ch quyn”  Trung Hoa Đông Dương, Miến Đin và nhiu nơi khác.
Tài liu ca Đng cng sn Trung Quc do ch tch Mao Trch Đông viết mang tên Cách mng Trung Quc và Đng cng sn Trung Quc, xut bn năm 1939 có viết:
“Các nước đế quc sau khi đánh bi Trung Quc, đã chiếm các nước ph thuc ca Trung Quc: Nht chiếm Triu Tiên, Đài Loan, Lưu Cu, qun đo Bành H và L Thun. Anh chiếm Miến Đin, Butan, Hong Kong, Pháp chiếm An Nam…”
Cun sách Sơ lược lch s Trung Quc hin đi xut bn năm 1954 Bc Kinh có bn đ v lãnh th Trung Quc bao gm c nhiu nước chung quanh, k c Đông nam châu Á và vùng bin Đông.

Ý đ bành trướng ca nhng người lãnh đo Trung Quc đc bit l câu nói ca ch tch Mao Trch Đông trong cuc hi đàm vi đi biu Đng Lao đng Vit Nam Vũ Hán năm 1963:
“Tôi s làm ch tch ca 500 triu bn nông đưa quân xung Đông nam châu Á”
Mao Trch Đông cũng so sánh Thái Lan vi tnh T Xuyên ca Trung Quc, v din tích thì tương đương nhưng v s dân thì tnh T Xuyên đông gp đôi, và nói rng Trung Quc cn đưa người xung Thái Lan đ ; đi vi nước Lào đt rng người thưa, ch tch Mao Trch Đông cũng cho rng Trung Quc cn đưa người xung Lào đ .
Ch tch Mao Trch Đông còn khng đnh trong cuc hp ca B Chính tr ban chp hành trung ương Đng cng sn Trung Quc, tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phi giành cho được Đông nam châu Á, bao gm c min nam Vit Nam, Thái Lan, Miến Đin, Malayxia và Singapo…Mt vùng như Đông nam châu Á rt giàu, đy có nhiu khoáng sn…xng đáng vi s tn kém cn thiết đ chiếm ly…Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có th tăng cường được sc mnh ca chúng ta vùng này, lúc đó chúng ta s có sc mnh đương đu vi khi Liên Xô-Đông Âu, gió Đông s thi bt gió Tây…”.

Ý đ ca Bc Kinh về số người Hoa ở ĐNA đã được th hin rõ nht trong ý kiến ca b trưởng B Ngoi giao Trn Ngh:
“Singapore có trên 90% là người Trung Quc, trong s dân hơn 1 triu người thì hơn 90 vn là người Trung Quc. Cho nên Singapore hoàn toàn tr thành mt quc gia do người Trung Quc đó t chc”.
Nhng người lãnh đo Trung Quc li dng mâu thun gia các dân tc Đông nam châu Á, chia r các nước thuc t chc ASEAN vi ba nước trên bán đo Đông Dương, chia r các nước vi nhau như đã chia r Malayxia vi Inđônêxia, Miến Đin vi Thái Lan… Đc bit h li dng tình hình ĐNA đ thc hin ý đ bành trướng ca h. Khi thc dân Pháp tht bi Vit Nam năm 1954, h mun duy trì min nam Vit Nam, Lào và Campuchia s có mt ca Pháp là mt tên đế quc đã suy yếu đ ngăn cn M, tên đế quc đu s thâm nhp vào Đông Dương và hn chế thng li hoàn toàn ca cách mng ba nước Đông Dương. Khi M suy yếu và tht bi vùng này, h mun duy trì s có mt ca M đ cùng vi M thng tr các nước trong khu vc. Làm như vy, h hy vng da vào ch nghĩa đế quc ngăn chn s phát trin ca cách mng đ tng bước lp cái gi là l hng ĐNA, tiến đến gt dn các đng minh đế quc đ đc chiếm khu vc này. H tung ra lun điu la bp là ngăn chn nh hưởng ca Liên Xô đ che du âm mưu đen ti ca h.

Vit Nam có mt v trí chiến lược ĐNA. Trong lch s, các triều đại phong kiến Trung Quc đã nhiu ln xâm lược hòng thôn tính  Vit Nam, dùng Vit Nam làm bàn đp đ xâm lược các nước khác ĐNA. Khi chiến tranh thế gii th hai kết thúc, trong các đng cng sn khu vc này ch có Đng cng sn Vit Nam giành được chính quyn và thành lp Nhà nước công nông đu tiên trong khu vc. Cách mng Vit Nam có nh hưởng to ln do đánh thng thc dân Pháp và đế quc M xâm lược. Nhng người lãnh đo Trung Quc âm mưu nm Vit Nam đ nm toàn b bán đo Đông Dương, m đường đi xung ĐNA. Trong cuc gp gia đi biu bn đng cng sn Vit nam, Trung Quc, Inđônêxia và Lào ti Qung Đông tháng 9 năm 1963, th tướng Chu Ân Lai nói:
“Nước chúng tôi thì ln nhưng không có đường ra, cho nên rt mong Đng Lao đng Vit Nam m cho mt con đường mi xung Đông nam châu Á”.
Đ làm suy yếu và nm ly Vit Nam, h ra sc phá s đoàn kết gia ba nước bán đo Đông Dương, chia r ba nước vi nhau, đc bit là chia r Lào và Campuchia vi Vit Nam. Đng thi h c lôi kéo các nước khác ĐNA đi lp vi Vit Nam, vu khng, bôi xu, hòng cô lp Vit Nam vi các nước trên thế gii.
Nhng người cm quyn Bc Kinh rêu rao cái gi là “ch quyn” ca h đi vi các qun đo Hoàng Sa và Trường Sa. Đu năm 1974, vi s đng tình ca M, h đánh chiếm qun đo Hoàng Sa, b phn lãnh th ca Vit Nam đ tng bước kim soát bin Đông, khng chế Vit Nam và toàn b ĐNA, đng thi khai thác tài nguyên phong phú vùng bin Đông.

(Còn nữa)

Lược trích từ "S THT V QUAN H VIT NAM -TRUNG QUC TRONG 30 NĂM QUA", văn kiện đã được B Ngoi giao nước Cng hoà xã hi ch nghĩa Vit Nam công b ngày 4 tháng 10 năm 1979.
---------

Các bạn xem thêm Note 1, Note 2, Note 3 (trích từ cuốn "S THT V QUAN H VIT NAM -TRUNG QUC TRONG 30 NĂM QUA", Nhà XB Sự Thật, tháng 10-1979)

4 comments:

  1. Note 1: Những hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam mà cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17 tháng 2 năm 1979 là một trong những bằng chứng cho thấy sự thay đổi đột ngột về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam.
    Sự thay đổi đó không phải là điều bất ngờ, mà là sự phát triển lô-gích của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền của những người lãnh đạo Trung Quốc.
    Trên thế giới chưa có nhà cầm quyền của một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và tráo trở như những người lãnh đạo Trung Quốc.
    Từ chỗ coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất.
    Từ chỗ coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ đi đến chỗ coi đế quốc Mỹ là đồng minh tin cậy, câu kết với đế quốc Mỹ và trắng trợn tuyên bố Trung Quốc là NATO 1 ở phương Đông.
    Từ chỗ coi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh là “bão táp cách mạng” trực tiếp đánh vào chủ nghĩa đế quốc và cho rằng rốt cuộc sự nghiệp cách mạng của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ở khu vực này, họ đi đến chỗ cùng với đế quốc chống lại và phá hoại phong trào giải phóng dân tộc, ủng hộ những lực lượng phản động, như tên độc tài Pinôchê ở Chilê, các tổ chức FNLA và UNITA do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) giật dây ở Angôla, vua Palêvi ở Iran, nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng PônPốt-Iêngxary v..v…Họ ngang nhiên xuyên tạc nguyên nhân và tính chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới hiện nay, coi các cuộc đấu tranh này là sản phẩm của sự tranh giành bá quyền giữa các nước lớn, chứ không phải là sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước.

    ReplyDelete
  2. Note 2: Những người lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tập hợp lực lượng ở ĐNA để tiến đến tập hợp lực lượng trên thế giới hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Những năm 1960 họ ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ latinh để nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục tiêu đó, từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng cộng sản, trong đó có 8 đảng ở Đông nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế cộng sản” mới do họ khống chế, xây dựng cái gọi là “trục Bắc Kinh- Giacacta-Phnông Pênh-Bình Nhưỡng-Hà Nội”, thông qua Inđônêxia vận động triệu tập “Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO) để thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á-Phi lần thứ hai (dự định họp ở Angiê năm 1965). Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc đã không thành công trong các kế hoạch đen tối này. Đó là vì họ đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải đường lối độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam.

    ReplyDelete
  3. Note 3: Bắc Kinh coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc. Trái lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở ĐNA. Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế cách mạng Việt nam, mỗi khi Việt Nam đánh thắng đế quốc thì họ lại buôn bán, thoả hiệp với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ giấu mặt chống Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới trắng trợn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
    Chính sách của nhà cầm quyền TQ muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông nam châu Á cũng như đối với các nước láng giềng khác. Họ đã muốn chiếm đất đai của Ấn Độ và thực tế đã chiếm một bộ phận đất đai của Ấn Độ trong cuộc chiến tranh năm 1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ cho rằng có thể tranh giành với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á-Phi. Họ vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù họ đã công nhận nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn chiếm một phần đất đai của Liên Xô, rất không muốn có bên cạnh Trung Quốc một nước Liên Xô hùng mạnh, nên họ tìm mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước đế quốc gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước Á-Phi Mỹ la tinh chống Liên Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng” cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
    Chiến lược quốc tế ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới chiêu bài nào, đã phơi trần tính chất cực kỳ phản động của nó và những người lãnh đạo Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô vanh nước lớn, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản.
    Chính sách ngày nay của Bắc Kinh đối với Việt Nam, mặc dù được nguỵ trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc.

    ReplyDelete
  4. Note 4: Trước hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn là người lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam. Như nhiều nhà lãnh đạo của Việt Nam khi ấy, ông thực sự tin Trung Quốc là người anh em, đồng chí thực sự của cách mạng Việt Nam.

    Năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết đã bẻ ngoặt nhận thức của ông về mối quan hệ với Trung Quốc. Nhà thơ Việt Phương, thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng kể:

    “Khi bàn thảo về Hiệp định Geneva, Bộ Chính trị của ta chỉ đồng ý lấy vĩ tuyến 16 là ranh giới cuối cùng của khu phi quân sự tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc trong thời gian chờ tổng tuyển cử. Nhưng Trung Quốc với sự ảnh hưởng của mình, đã khăng khăng ép ta phải đồng ý chọn vĩ tuyến 17. Khi chúng ta bàn bạc vấn đề này với Trung Quốc, họ đã nói: “Chúng tôi là tướng ngoài mặt trận. Các đồng chí hãy để cho chúng tôi tùy cơ ứng biến”. Khi nói như thế, người Trung Quốc đã tự cho mình quyền định đoạt số phận của người Việt Nam”.

    Thời điểm đó, ta đã kiểm soát phần lớn vùng Nam bộ, ngoại trừ một vài đô thị nhỏ. Ở miền Bắc, ta chiến thắng vang lừng ở Điện Biên. Nhưng Trung Quốc đã bắt ta phải ký một hiệp định chia cắt đất nước - một hành động mà sau này như nhiều người nói: “người anh lớn” đã phản bội lại “người em” của mình.

    Sau khi hiệp định được ký, trên đường từ Bắc vào Nam, nhìn những quân dân miền Nam giơ 2 ngón tay chào nhau, vừa là biểu tượng victory - chiến thắng, vừa là lời hẹn 2 năm sau sẽ đoàn tụ, ông Lê Duẩn đã khóc. Ông hiểu, sẽ không bao giờ có tổng tuyển cử, sẽ không bao giờ chỉ là 2 năm…Rồi đây đất nước sẽ còn bị chia cắt rất lâu vì Hiệp định Geneva năm đó.
    (Trích từ "Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc" của Học Giả đăng trên Một Thế Giới)

    ReplyDelete