Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, những người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Mười năm sau,tháng 9 năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, Mao Trạch Đông nói:
“Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng
ta”
I- VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA TRUNG QUỐC
Tại Hội
nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương. Pháp lo sợ
thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam sẽ dẫn đến
sự sụp đổ của
hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Những
người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng
tình hình đó để đứng ra làm người thương lượng
chủ yếu đối với
đế quốc Pháp, câu kết với chúng và cùng nhau thoả hiệp
về một giải pháp có lợi
cho Trung Quốc và Pháp. Họ
đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước ở Đông Dương
để
bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để
thực hiện mưu đồ nắm Việt
Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một
nước lớn trong việc giải quyết
các vấn đề quốc tế,
trước hết là ở châu Á. Trong Hội
nghị Giơnevơ năm 1954 mà phần đầu dành cho vấn đề Triều
Tiên, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên xuất
hiện ngang hàng với bốn cường
quốc uỷ viên thường trực của
Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc. Đó là một cơ hội
tốt cho những người lãnh đạo
Trung Quốc mở rộng ảnh
hưởng của mình ở khu vực châu Á và châu Phi. Đồng thời,
họ tìm cách bắt tay với
Mỹ qua các cuộc thương lượng
trực tiếp bắt đầu Giơnevơ, về sau chuyển
sang Vacsava.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Trung Quốc lại muốn duy trì lâu dài tình trạng Việt Nam bị
chia cắt. Nhưng Việt
Nam đã anh dũng đứng lên
chống Mỹ
và đã giành được thắng lợi vào năm 1975.
Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh này, tổng thống Nixon đã đề ra kế hoạch
“Việt Nam hoá” chiến tranh và theo kinh nghiệm của đế
quốc Pháp năm 1954, dùng
Trung Quốc hòng giải quyết vấn
đề Việt Nam với những điều
kiện có lợi cho đế quốc Mỹ:
rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam mà vẫn
giữ được chế độ
bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu ở miền
nam Việt Nam. Đồng thời, chính quyền
Nixon chơi con bài Trung Quốc
để gây sức ép đối với
Liên Xô, làm suy giảm phong
trào cách mạng trên thế giới.
Bắc Kinh đã tăng cường
chống Liên Xô và thoả hiệp với
Mỹ, giúp Mỹ giải quyết
vấn đề Việt Nam để
cố tạo nên thế ba nước lớn
trên thế giới theo công thức của Kissinger về “thế giới nhiều
cực”, trong đó một trong ba cực lớn là Trung Quốc,
đồng thời dùng vấn đề Việt
Nam để đổi lấy việc
Mỹ rút khỏi Đài Loan. Do đó, họ lật ngược
chính sách liên minh, bắt
đầu từ việc coi Liên Xô là kẻ
thù chủ yếu, gây ra xung đột biên giới với Liên Xô tháng 3 năm 1969, đến việc phản
bội Việt Nam lần thứ hai, buôn bán với
Mỹ để ngăn cản thắng lợi
hoàn toàn của
Việt Nam. Trong năm
1971, họ lần lượt tiến
hành chính sách “ngoại
giao bóng bàn”, đón tiếp Kissinger ở Bắc Kinh. Tiếp
đó là việc khôi phục địa vị
của Trung Quốc ở Liên hợp
quốc và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trở thành một trong năm uỷ viên thường trực của Hội đồng
bảo an. Đỉnh cao là việc Trung Quốc tiếp tổng
thống Mỹ Nixon và hai bên ra Thông cáo
Thượng Hải tháng 2 năm 1972. Đối với những
người cầm quyền Bắc
Kinh, sự câu kết với Mỹ là một bước
có ý nghĩa quyết định đối với
việc triển khai chiến lược toàn cầu
của họ.
Thắng
lợi của Việt Nam năm 1975 không chỉ là thất
bại lớn của Mỹ
mà còn là thất bại của những
người cầm quyền Bắc
Kinh trong việc thực hiện chiến
lược toàn cầu và mưu đồ bành trướng, bá quyền của họ.
Từ đó, họ công khai thi hành chính
sách thù địch chống Việt Nam, kể
cả bằng biện pháp quân sự.
Như vậy, Việt Nam là một
trong những nhân tố quan trọng nhất trong chiến
lược toàn cầu của Trung Quốc.
Vì Việt Nam có vị trí rất quan trọng
trong chiến lược của Pháp giữa
những năm 1950 cũng như trong chiến lược của
Mỹ đầu những năm 1970, những
người lãnh đạo Trung Quốc đã dùng “con bài” Việt Nam để câu kết với
bọn đế quốc, phục
vụ cho ý đồ chiến lược
bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn
của họ. Đồng thời
họ mưu toan một mình nắm cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước
của nhân dân Việt Nam, một vấn đề
trung tâm của đời sống chính trị
quốc tế lúc bấy giờ
để giương cao chiêu bài “chống chủ nghĩa đế
quốc” hòng nắm quyền “lãnh đạo
cách mạng thế giới”, dìm ảnh
hưởng của Liên Xô.
II- VIỆT
NAM TRONG CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA
TRUNG QUỐC.
Trong năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác.
Trong năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác.
Tài liệu
của Đảng cộng sản
Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch
Đông viết mang tên Cách
mạng Trung Quốc và Đảng cộng
sản Trung Quốc, xuất bản
năm 1939 có viết:
“Các nước
đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc
của Trung Quốc: Nhật chiếm
Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần
đảo Bành Hồ và Lữ Thuận.
Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hong Kong, Pháp chiếm An Nam…”
Cuốn
sách Sơ lược lịch sử
Trung Quốc hiện đại xuất
bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản
đồ vẻ lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều
nước chung quanh, kể cả ở
Đông nam châu Á và vùng biển
Đông.
Ý đồ
bành trướng của những người
lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt
lộ rõ ở câu nói của chủ tịch
Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với
đại biểu Đảng Lao động
Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963:
“Tôi sẽ
làm chủ tịch của 500 triệu
bần nông đưa quân
xuống Đông nam châu Á”
Mao Trạch Đông cũng so sánh Thái Lan với tỉnh Tứ
Xuyên của Trung Quốc, về diện
tích thì tương đương nhưng về số
dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa
người xuống Thái Lan để ở; đối
với nước Lào đất rộng người
thưa, chủ tịch Mao Trạch
Đông cũng cho rằng Trung
Quốc cần đưa người
xuống Lào để ở.
Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc
họp của Bộ Chính trị
ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản
Trung Quốc, tháng 8 năm
1965:
“Chúng ta phải
giành cho được Đông nam
châu Á, bao gồm cả miền nam Việt
Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông
nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều
khoáng sản…xứng đáng với sự tốn
kém cần thiết để chiếm
lấy…Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta
có thể tăng cường được sức
mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh
đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt
gió Tây…”.
Ý đồ
của Bắc Kinh về số người Hoa ở ĐNA đã
được thể hiện rõ nhất
trong ý kiến của bộ trưởng
Bộ Ngoại giao Trần Nghị:
“Singapore có trên 90% là người
Trung Quốc, trong số dân hơn 1 triệu
người thì hơn 90 vạn là người
Trung Quốc. Cho nên
Singapore hoàn toàn trở
thành một quốc gia do người Trung Quốc ở đó tổ
chức”.
Những
người lãnh đạo Trung Quốc lợi dụng
mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông nam châu Á, chia rẽ các nước
thuộc tổ chức ASEAN với
ba nước trên bán đảo Đông Dương, chia rẽ các nước với
nhau như đã chia rẽ
Malayxia với Inđônêxia,
Miến Điện với Thái Lan… Đặc
biệt họ lợi dụng
tình hình ở ĐNA để thực hiện
ý đồ bành trướng của họ.
Khi thực dân Pháp thất bại ở
Việt Nam năm 1954, họ muốn duy trì ở
miền nam Việt Nam, Lào và Campuchia sự có mặt của
Pháp là một tên đế quốc đã suy yếu
để ngăn cản Mỹ, tên đế
quốc đầu sỏ thâm nhập
vào Đông Dương và hạn chế thắng lợi
hoàn toàn của cách mạng ba nước ở Đông Dương.
Khi Mỹ suy yếu và thất bại ở
vùng này, họ muốn duy trì sự có mặt của
Mỹ để cùng với Mỹ thống
trị các nước trong khu vực. Làm như vậy, họ
hy vọng dựa vào chủ nghĩa đế quốc ngăn chặn
sự phát triển của cách mạng
để từng bước lấp
cái gọi là lỗ hổng ở
ĐNA, tiến đến gạt dần
các đồng minh đế quốc để
độc chiếm khu vực này. Họ tung ra luận điệu lừa
bịp là ngăn chặn ảnh hưởng
của Liên Xô để che dấu âm mưu
đen tối
của họ.
Việt
Nam có một vị trí chiến lược ở
ĐNA. Trong lịch
sử, các triều đại phong
kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược
hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt
Nam làm bàn đạp để xâm lược các nước
khác ở ĐNA.
Khi chiến tranh thế giới thứ
hai kết thúc, trong các
đảng cộng sản ở
khu vực này chỉ có Đảng cộng
sản Việt Nam giành được chính quyền và thành lập Nhà nước công nông đầu tiên trong khu vực. Cách mạng Việt Nam có ảnh
hưởng to lớn do đánh thắng thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược. Những
người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm
Việt Nam để nắm toàn bộ
bán đảo Đông Dương, mở đường
đi xuống ĐNA. Trong cuộc gặp giữa đại
biểu bốn đảng cộng
sản Việt nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu Ân Lai nói:
“Nước
chúng tôi thì lớn nhưng không
có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở
cho một con đường mới xuống
Đông nam châu Á”.
Để
làm suy yếu và nắm lấy Việt
Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước
ở bán đảo Đông Dương, chia rẽ ba nước với
nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam. Đồng
thời họ cố lôi kéo các nước
khác ở ĐNA đối lập với
Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với
các nước trên thế giới.
Những
người cầm quyền Bắc
Kinh rêu rao cái gọi là
“chủ quyền” của họ
đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng
tình của Mỹ, họ đánh chiếm
quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ
của Việt Nam để từng bước
kiểm soát biển Đông, khống chế Việt
Nam và toàn bộ ĐNA, đồng thời khai thác tài nguyên phong
phú ở vùng biển Đông.
(Còn nữa)
Lược trích từ " SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ
VIỆT NAM -TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA", văn kiện đã được Bộ
Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979.
---------
Các bạn xem thêm Note 1, Note 2, Note 3 (trích từ cuốn "SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA", Nhà XB Sự Thật, tháng 10-1979)
Lược trích từ "
---------
Các bạn xem thêm Note 1, Note 2, Note 3 (trích từ cuốn "SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA", Nhà XB Sự Thật, tháng 10-1979)
Note 1: Những hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam mà cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17 tháng 2 năm 1979 là một trong những bằng chứng cho thấy sự thay đổi đột ngột về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam.
ReplyDeleteSự thay đổi đó không phải là điều bất ngờ, mà là sự phát triển lô-gích của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền của những người lãnh đạo Trung Quốc.
Trên thế giới chưa có nhà cầm quyền của một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và tráo trở như những người lãnh đạo Trung Quốc.
Từ chỗ coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Từ chỗ coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ đi đến chỗ coi đế quốc Mỹ là đồng minh tin cậy, câu kết với đế quốc Mỹ và trắng trợn tuyên bố Trung Quốc là NATO 1 ở phương Đông.
Từ chỗ coi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh là “bão táp cách mạng” trực tiếp đánh vào chủ nghĩa đế quốc và cho rằng rốt cuộc sự nghiệp cách mạng của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ở khu vực này, họ đi đến chỗ cùng với đế quốc chống lại và phá hoại phong trào giải phóng dân tộc, ủng hộ những lực lượng phản động, như tên độc tài Pinôchê ở Chilê, các tổ chức FNLA và UNITA do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) giật dây ở Angôla, vua Palêvi ở Iran, nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng PônPốt-Iêngxary v..v…Họ ngang nhiên xuyên tạc nguyên nhân và tính chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới hiện nay, coi các cuộc đấu tranh này là sản phẩm của sự tranh giành bá quyền giữa các nước lớn, chứ không phải là sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước.
Note 2: Những người lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tập hợp lực lượng ở ĐNA để tiến đến tập hợp lực lượng trên thế giới hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Những năm 1960 họ ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ latinh để nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục tiêu đó, từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng cộng sản, trong đó có 8 đảng ở Đông nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế cộng sản” mới do họ khống chế, xây dựng cái gọi là “trục Bắc Kinh- Giacacta-Phnông Pênh-Bình Nhưỡng-Hà Nội”, thông qua Inđônêxia vận động triệu tập “Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO) để thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á-Phi lần thứ hai (dự định họp ở Angiê năm 1965). Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc đã không thành công trong các kế hoạch đen tối này. Đó là vì họ đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải đường lối độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam.
ReplyDeleteNote 3: Bắc Kinh coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc. Trái lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở ĐNA. Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế cách mạng Việt nam, mỗi khi Việt Nam đánh thắng đế quốc thì họ lại buôn bán, thoả hiệp với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ giấu mặt chống Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới trắng trợn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
ReplyDeleteChính sách của nhà cầm quyền TQ muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông nam châu Á cũng như đối với các nước láng giềng khác. Họ đã muốn chiếm đất đai của Ấn Độ và thực tế đã chiếm một bộ phận đất đai của Ấn Độ trong cuộc chiến tranh năm 1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ cho rằng có thể tranh giành với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á-Phi. Họ vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù họ đã công nhận nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn chiếm một phần đất đai của Liên Xô, rất không muốn có bên cạnh Trung Quốc một nước Liên Xô hùng mạnh, nên họ tìm mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước đế quốc gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước Á-Phi Mỹ la tinh chống Liên Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng” cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
Chiến lược quốc tế ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới chiêu bài nào, đã phơi trần tính chất cực kỳ phản động của nó và những người lãnh đạo Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô vanh nước lớn, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản.
Chính sách ngày nay của Bắc Kinh đối với Việt Nam, mặc dù được nguỵ trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc.
Note 4: Trước hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn là người lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam. Như nhiều nhà lãnh đạo của Việt Nam khi ấy, ông thực sự tin Trung Quốc là người anh em, đồng chí thực sự của cách mạng Việt Nam.
ReplyDeleteNăm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết đã bẻ ngoặt nhận thức của ông về mối quan hệ với Trung Quốc. Nhà thơ Việt Phương, thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng kể:
“Khi bàn thảo về Hiệp định Geneva, Bộ Chính trị của ta chỉ đồng ý lấy vĩ tuyến 16 là ranh giới cuối cùng của khu phi quân sự tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc trong thời gian chờ tổng tuyển cử. Nhưng Trung Quốc với sự ảnh hưởng của mình, đã khăng khăng ép ta phải đồng ý chọn vĩ tuyến 17. Khi chúng ta bàn bạc vấn đề này với Trung Quốc, họ đã nói: “Chúng tôi là tướng ngoài mặt trận. Các đồng chí hãy để cho chúng tôi tùy cơ ứng biến”. Khi nói như thế, người Trung Quốc đã tự cho mình quyền định đoạt số phận của người Việt Nam”.
Thời điểm đó, ta đã kiểm soát phần lớn vùng Nam bộ, ngoại trừ một vài đô thị nhỏ. Ở miền Bắc, ta chiến thắng vang lừng ở Điện Biên. Nhưng Trung Quốc đã bắt ta phải ký một hiệp định chia cắt đất nước - một hành động mà sau này như nhiều người nói: “người anh lớn” đã phản bội lại “người em” của mình.
Sau khi hiệp định được ký, trên đường từ Bắc vào Nam, nhìn những quân dân miền Nam giơ 2 ngón tay chào nhau, vừa là biểu tượng victory - chiến thắng, vừa là lời hẹn 2 năm sau sẽ đoàn tụ, ông Lê Duẩn đã khóc. Ông hiểu, sẽ không bao giờ có tổng tuyển cử, sẽ không bao giờ chỉ là 2 năm…Rồi đây đất nước sẽ còn bị chia cắt rất lâu vì Hiệp định Geneva năm đó.
(Trích từ "Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc" của Học Giả đăng trên Một Thế Giới)