I- SAU ĐIỆN BIÊN PHỦ, NHÂN DÂN VIỆT NAM CÓ KHẢ NĂNG HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC
Cách mạng tháng Tám thành công cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vào năm 1945. Mấy tháng sau, thực dân Pháp đã chiếm lại các tỉnh ở Nam Bộ, và từ tháng 12 năm 1946 nhân dân Việt Nam đã phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp trên phạm vi cả nước để bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vô cùng gian khổ và hết sức anh dũng ngày càng giành được nhiều thắng lợi to lớn. các chiến thắng của nhân dân Việt Nam củng như các chiến thắng của nhân dân Lào (dưới sự lãnh đạo của Chính phủ kháng chiến Lào) và của nhân dân Campuchia (dưới sự lãnh đạo của Chính phủ kháng chiến Campuchia), đặc biệt là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân Việt Nam đã làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường rất có lợi cho các lực lượng kháng chiến Việt Nam, Lào và Campuchia, và đặt đế quốc Pháp trước một tình thế vô cùng khó khăn.
Bộ trưởng quốc phòng Pháp R. Plêven cùng với chủ tịc Hội đồng tham mưu trưởng tướng P. Êli, tham mưu trưởng lục quân tướng Blăng, tham mưu trưởng không quân tướng Phay, sau khi đi khảo sát chiến trường Đông Dương tháng 2 năm 1954 đã đi tới một nhận xét bi quan về tình hình chiến trường như sau:
“Một sự tăng cường dù lớn đến đâu cho quân đội viễn chinh cũng không thể làm thay đổi được tình hình. Vả lại, sự cố gắng về quân sự của chính quốc đã đến giới hạn cuối cùng. Tất cả những điều mà chúng ta có thể hy vọng là tạo điều kiện quân sự thuận lợi nhất cho một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột”.
Ngày 18 thánh 5 năm 1954, lo ngại Quân đội nhân dân Việt Nam có thể tiến công đồng bằng Bắc Bộ, thủ tướng Pháp Lanien đã cử tướng Êli sang Đông Dương để truyền đạt chỉ thị cho tướng Nava, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp: lúc này phải lấy mục tiêu chính, trên tất cả các cái khác, là cứu quân đội viễn chinh.
Đại sứ Sôven, Phó trưởng đoàn đại biểu của Pháp tại Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, trong một báo cáo gửi Bộ Ngoại giao Pháp đã viết:
“Chúng ta khó giữ được Hà Nội, Bộ chỉ huy cho biết gửi thêm hai sư đoàn nữa cũng không giữ được thủ phủ Bắc Kỳ…”.
Trước đây Chính phủ Lanien muốn thương lượng trên thế mạnh quân sự để giữ nguyên được Lào, Campuchia và cố giữ được những quyền lợi gì có thể giữ được ở Việt Nam, coi đó là giải pháp “danh dự” đối với Pháp. Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, chính phủ đó còn muốn thương lượng, nhằm trước hết cứu vãn đội quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương khỏi nguy cơ bị tiêu diệt.
Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp, mà nòng cốt là Đảng cộng sản Pháp, chống cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” ở Đông Dương phát triển mạnh. Chính quyền ở Pháp vốn đã chia rẽ về nhiều vấn đề càng thêm chia rẽ trước những khó khăn nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và xã hội. Thất bại của Pháp ở Đông Dương sẽ dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp, nhất là ở Bắc Phi. Trong bối cảnh đó, Pháp bước vào Hội nghị Giơnevơ năm 1954 với sự tham gia của Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp và các bên tham chiến ở Đông Dương.
II- LẬP
TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC Ở GIƠNEVƠ KHÁC HẲN LẬP TRƯỜNG
CỦA VIỆT NAM, NHƯNG PHÙ HỢP VỚI LẬP
TRƯỜNG CỦA PHÁP.
Nước
Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa ra đời năm 1949
trong tình hình thế giới đã hình thành hai hệ thống đối
lập về chính trị, kinh tế và quân sự. Ở châu Âu cuộc
chiến tranh lạnh ngày càng phát triển và ở châu Á có hai cuộc
chiến tranh nóng ở Triều Tiên và Đông Dương.
Những người lãnh đạo nước Trung Hoa mới
muốn tranh thủ điều kiện
hoà bình để nhanh chóng
khôi phục và phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực
quân sự, làm cho Trung
Quốc sớm trở thành một
cường quốc lớn trên thế
giới, thực hiện tham vọng
bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn,
chủ yếu hướng về
ĐNA.
Mặc
dù khoảng một triệu quân Trung Quốc
đã bị thương vong trong chiến tranh Triều Tiên, những người lãnh đạo
Trung Quốc, để có một khu đệm
phía đông bắc, năm 1953
đã chịu nhận một cuộc
ngừng bắn ở Triều
Tiên: duy trì nguyên trạng,
chia cắt lâu dài Triều Tiên.
Việt
Nam và Trung Quốc là hai
nước láng giềng trực tiếp,
nhân dân Việt Nam và
nhân dân Trung Quốc luôn
luôn ủng hộ, cổ vũ, giúp đở
lẫn nhau, vì nước Việt Nam độc
lập có nghĩa là Trung Quốc không bị sự uy hiếp
của chủ nghĩa đế quốc ở
phía nam. Năm 1950, nước
Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa công nhận và thiết lập quan hệ
ngoại giao với nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Trung Quốc là nước viện
trợ vũ khí, trang bị quân sự nhiều nhất
cho Việt Nam trong những năm cuối cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân Việt Nam.
Tại Hội nghị Giơnevơ năm
1954, lập trường của Việt
Nam là đi tới một giải pháp hoàn chỉnh:
đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo
Đông Dương đi đôi với một
giải pháp chính trị cho vấn đề
Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ
sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi
nước ở Đông Dương.
Đối với những người
lãnh đạo Trung Quốc, Hội nghị
Giơnevơ năm
1954 về Triều Tiên và Đông Dương là một cơ hội
để họ cùng với các nước lớn bàn bạc
và giải quyết các vấn đề quốc
tế lớn, mặc dù Mỹ
đang thù địch với Trung Quốc, Pháp chưa có
quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và Tưởng Giới
Thạch còn giữ vị trí của
Trung Quốc là một trong năm uỷ viên thường trực của
Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc.
Những
người lãnh đạo Trung Quốc muốn chấm
dứt cuộc chiến tranh Đông Dương
bằng một giải pháp theo kiểu
Triều Tiên, nghĩa là
đình chỉ chiến sự mà không có giải
pháp chính trị. Ngày 24
tháng 8 năm 1953, chính thủ
tướng Chu Ân Lai đã
tuyên bố: đình chiến ở Triều
Tiên có thể dùng làm mẫu mực cho những
cuộc xung đột khác. Với một giải
pháp như thế, những người
cầm quyền Trung Quốc hy vọng tạo
được một khu đệm ở ĐNA, ngăn chặn Mỹ
vào thay thế Pháp ở Đông Dương, tránh được
sự đụng đầu trực
tiếp với Mỹ, bảo
đảm an ninh cho biên giới phía nam của Trung Quốc, đồng thời
hạn chế thắng lợi
của Việt Nam, chia rẽ nhân dân ba nước Đông Dương, hòng
làm suy yếu
và thôn tính ba nước đó,
dùng làm bàn đạp bành trướng xuống ĐNA.
Pháp đến
Hội nghị Giơnevơ
cũng nhằm
đạt được một cuộc
ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên để
cứu đội quân viễn chinh Pháp, chia cắt Việt Nam, duy trì chủ
nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương.
Rõ ràng lập
trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường
của Việt Nam, nhưng lại rất
phù hợp với lập trường
của Pháp.
III- HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ NĂM 1954 VỀ ĐÔNG DƯƠNG VÀ SỰ PHẢN BỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC.
Tháng 4 năm 1954, trong một cuộc họp giữa các đoàn đại biểu Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc chuẩn bị cho Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, đại biểu Trung Quốc đã nói : ” Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không thể công khai giúp Việt Nam được trong trường hợp cuộc xung đột ở đây mở rộng”.
Lợi dụng vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, đồng thời lợi dụng việc Pháp không muốn nói chuyện trên thế yếu với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc đã tự cho phép mình đàm phán trực tiếp với Pháp để thoả thuận về những điểm cơ bản của một giải pháp về vấn đề Đông Dương.
Quá trình đàm phán về thực chất tại Hội nghị Giơnevơ đã diễn ra qua hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 23 tháng 6 năm 1954, trưởng đoàn đại biểu Pháp, trong khi tránh tiếp xúc với Việt Nam, đã đàm phán trực tiếp với trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc bốn lần, đi tới thoả thuận về những nét cơ bản của một Hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương.
Đáng chú ý là cuộc tiếp xúc lần thứ ba ngày 17 tháng 6 năm 1954, thủ tướng Chu Ân Lai gặp trưởng đoàn đại biểu Pháp G.Biđô, đưa ra những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ bản, có hại cho nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia: Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại), công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc Campuchía, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của Cính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia Hội nghị Giơnevơ, và đưa ra vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam phải rút khỏi Lào và Campuchia.
Lần thứ tư, ngày 23 tháng 6 năm 1954, thủ tướng Chu Ân Lai gặp Măngđét Phranxơ, thủ tướng mới của Pháp, đưa ra những nhượng bộ mới: chia cắt Việt Nam, hai miền Việt Nam cùng tồn tại hoà bình, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời việc giải quyết ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia; Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận ba nước này trong khối Liên hiệp Pháp và muốn Lào, Campuchia sẽ có bộ mặt mới ở Đông nam châu Á như Ấn Độ, Inđônêxia, ngược lại chỉ yêu cầu không có căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương. Do đó, Trung Quốc và Pháp đạt được một giải pháp khung cho vấn đề Đông Dương.
Những điểm mà những người lãnh đạo Trung Quốc đã thoả thuận với Pháp rất phù hợp với giải pháp 7 điểm của Anh-Mỹ đưa ra ngày 29 tháng 6 năm 1954, tức là 6 ngày sau cuộc tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Măngđét Phranxơ.
Thời kỳ thứ hai từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 20 tháng 7 năm 1954, Đoàn đại biểu Pháp tiến hành đàm phán trực tiếp với Đoàn đại biểu Việt Nam để giải quyết các vấn đề cụ thể. Trung Quốc giữ vai trò thúc đẩy phía Việt Nam nhân nhượng. Đến ngày 10 tháng 7 năm 1954, phía Việt Nam vẫn kiên trì lập trường của mình về vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia, vẫn chủ trương đòi có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia như các bên đàm phán, định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất nước nhà. Đối với việc giải quyết vấn đề Lào và vấn đề Campuchia, Việt Nam vẫn giữ quan điểm là ở Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến: một vùng ở phía bắc giáp Trung Quốc và Việt Nam và một vùng ở Trung và Hạ Lào; ở Campuchia có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến Campuchia ở phía đông và đông bắc sông Mêcông và phía tây nam sông Mêcông; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng ở Lào và Campuchia.
Từ tháng 5 năm 1954, đoàn đại biểu Trung Quốc đưa ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến giữa hai miền Việt Nam, và còn muốn Việt nam nhân nhượng nhiều hơn nữa, thậm chí muốn Việt Nam bỏ cả thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và đường số 5 (đường nối liền Hà Nội với Hải Phòng):
“Đánh giá (phương án vĩ tuyến 16) khó có thể thoả thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm cửa bể tự do, ở gần đấy cho Pháp đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì đem đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự…”.
Nhưng về sau, đặc biệt từ ngày 10 tháng 7 năm 1954, 10 ngày trước khi Hội nghị Giơnevơ kết thúc, Trung Quốc ngày càng thúc ép Việt Nam nhân nhượng, “có những điều kiện công bằng và hợp lý để Chính phủ Pháp có thể nhận được để đi đến Hiệp định trong vòng 10 ngày, điều kiện đưa ra nên giản đơn, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại”.
Tháng 4 năm 1954, trong một cuộc họp giữa các đoàn đại biểu Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc chuẩn bị cho Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, đại biểu Trung Quốc đã nói : ” Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không thể công khai giúp Việt Nam được trong trường hợp cuộc xung đột ở đây mở rộng”.
Lợi dụng vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, đồng thời lợi dụng việc Pháp không muốn nói chuyện trên thế yếu với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc đã tự cho phép mình đàm phán trực tiếp với Pháp để thoả thuận về những điểm cơ bản của một giải pháp về vấn đề Đông Dương.
Quá trình đàm phán về thực chất tại Hội nghị Giơnevơ đã diễn ra qua hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 23 tháng 6 năm 1954, trưởng đoàn đại biểu Pháp, trong khi tránh tiếp xúc với Việt Nam, đã đàm phán trực tiếp với trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc bốn lần, đi tới thoả thuận về những nét cơ bản của một Hiệp định ngừng bắn ở Đông Dương.
Đáng chú ý là cuộc tiếp xúc lần thứ ba ngày 17 tháng 6 năm 1954, thủ tướng Chu Ân Lai gặp trưởng đoàn đại biểu Pháp G.Biđô, đưa ra những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ bản, có hại cho nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia: Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại), công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc Campuchía, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của Cính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia Hội nghị Giơnevơ, và đưa ra vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam phải rút khỏi Lào và Campuchia.
Lần thứ tư, ngày 23 tháng 6 năm 1954, thủ tướng Chu Ân Lai gặp Măngđét Phranxơ, thủ tướng mới của Pháp, đưa ra những nhượng bộ mới: chia cắt Việt Nam, hai miền Việt Nam cùng tồn tại hoà bình, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời việc giải quyết ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia; Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận ba nước này trong khối Liên hiệp Pháp và muốn Lào, Campuchia sẽ có bộ mặt mới ở Đông nam châu Á như Ấn Độ, Inđônêxia, ngược lại chỉ yêu cầu không có căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương. Do đó, Trung Quốc và Pháp đạt được một giải pháp khung cho vấn đề Đông Dương.
Những điểm mà những người lãnh đạo Trung Quốc đã thoả thuận với Pháp rất phù hợp với giải pháp 7 điểm của Anh-Mỹ đưa ra ngày 29 tháng 6 năm 1954, tức là 6 ngày sau cuộc tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Măngđét Phranxơ.
Thời kỳ thứ hai từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 20 tháng 7 năm 1954, Đoàn đại biểu Pháp tiến hành đàm phán trực tiếp với Đoàn đại biểu Việt Nam để giải quyết các vấn đề cụ thể. Trung Quốc giữ vai trò thúc đẩy phía Việt Nam nhân nhượng. Đến ngày 10 tháng 7 năm 1954, phía Việt Nam vẫn kiên trì lập trường của mình về vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia, vẫn chủ trương đòi có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia như các bên đàm phán, định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất nước nhà. Đối với việc giải quyết vấn đề Lào và vấn đề Campuchia, Việt Nam vẫn giữ quan điểm là ở Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến: một vùng ở phía bắc giáp Trung Quốc và Việt Nam và một vùng ở Trung và Hạ Lào; ở Campuchia có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến Campuchia ở phía đông và đông bắc sông Mêcông và phía tây nam sông Mêcông; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng ở Lào và Campuchia.
Từ tháng 5 năm 1954, đoàn đại biểu Trung Quốc đưa ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến giữa hai miền Việt Nam, và còn muốn Việt nam nhân nhượng nhiều hơn nữa, thậm chí muốn Việt Nam bỏ cả thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và đường số 5 (đường nối liền Hà Nội với Hải Phòng):
“Đánh giá (phương án vĩ tuyến 16) khó có thể thoả thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm cửa bể tự do, ở gần đấy cho Pháp đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì đem đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự…”.
Nhưng về sau, đặc biệt từ ngày 10 tháng 7 năm 1954, 10 ngày trước khi Hội nghị Giơnevơ kết thúc, Trung Quốc ngày càng thúc ép Việt Nam nhân nhượng, “có những điều kiện công bằng và hợp lý để Chính phủ Pháp có thể nhận được để đi đến Hiệp định trong vòng 10 ngày, điều kiện đưa ra nên giản đơn, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại”.
Khi đó Trung Quốc
còn lo sợ Mỹ có thể can thiệp
bằng vũ trang vào Đông Dương, uy hiếp an ninh của Trung Quốc, nhưng cần
nói rằng Trung Quốc cũng dùng những lời của
Mỹ đe doạ chiến tranh để
ép Việt Nam.
Sự thật là sau cuộc chiến tranh Triều
Tiên, Mỹ không có khả năng can thiệp quân sự trực tiếp
vào Đông Dương. Thái độ
cứng rắn của Mỹ
ở Hội nghị Giơnevơ chẳng qua là do Mỹ
sợ Pháp vì bị
thua ở chiến trường, có nhiều
khó khăn về chính trị, kinh tế, tài chính, có thể chấp nhận
một giải pháp không có lợi cho việc Mỹ nhảy
vào Đông Dương sau này. Khi Pháp đã cùng với Trung Quốc
thoả thuận được một
giải pháp khung về Đông Dương và Mỹ đã đưa được tên tay sai Ngô Đình Diệm về làm thủ
tướng chính phủ bù nhìn Sài Gòn ( ngày 13
tháng 6 năm 1954), thì Mỹ
thấy có thể chấp nhận
một hiệp định theo hướng
Trung Quốc và Pháp đã
thoả thuận giải quyết
cả ba vấn đề Việt
Nam, Lào và Campuchia. Tuy vậy,
Mỹ không tham gia vào bản Tuyên bố cuối cùng của
Hội nghị là vì Mỹ muốn được
rảnh tay sau này để vi phạm Hiệp
định Giơnevơ thông qua chính quyền
Ngô Đình Diệm, buộc Pháp phải rút lui để thay thế Pháp ở Đông Dương.
Sau Điện
Biên Phủ, rõ ràng là với sự giúp đở
của hệ thống xã hội
chủ nghĩa, nhất là của Trung Quốc,
quân và dân Việt Nam có
khả năng giải phóng cả nước, nhưng
giải pháp mà Đoàn đại biểu Trung Quốc
đã thoả thuận với Đoàn đại
biểu Pháp ở Giơnevơ
không phản
ảnh so sánh lực lượng trên chién trường,
cũng không đáp ứng đầy đủ những
yêu cầu chính trị của giải
pháp do Đoàn đại biểu Việt Nam đề
ra.
Xuất
phát từ truyền thống yêu chuộng
hoà bình, theo xu thế
chung giải quyết các vấn đề tranh chấp
bằng thương lượng và trong tình thế bị
Trung Quốc ép buộc, Việt Nam đã chấp
nhận giải pháp: các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân
Campuchia, ngừng bắn đồng thời
ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương,
Pháp rút
quân, vĩ
tuyến 17 là giới tuyến quân sự
tạm thời chia Việt Nam làm hai miền, tiến tới
có tổng tuyển cử tự
do trong cả nước sau hai năm để thống nhất
nước nhà.
Ở Lào
có một khu tập kết cho các lực
lượng kháng chiến lào gồm hai tỉnh Sầm Nưa
và Phongsalỳ. Ở Campuchia lực
lượng kháng chiến không có khu tập kết nào và phục
viên tại chỗ.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định
Giơnevơ năm 1954 đánh dấu một bước
thắng lợi của các lực
lượng cách mạng ở Đông Dương,
đồng
thời là một đóng góp quan trọng mở đầu
sự tan rã hoàn toàn của hệ thống
thuộc địa của đế
quốc Pháp và báo hiệu quá trình sụp đổ không thể
đảo ngược được của
chủ nghĩa thực dân cũ, của chủ nghĩa đế
quốc thế giới. Nhưng
giải pháp Giơnevơ đã ngăn cản
nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đạt được thắng
lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một
khả năng rõ ràng là hiện thực như
so sánh lực
lượng trên chiến trường lúc bấy
giờ đã chỉ rõ.
Đó là điều
mà những người lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ hơn
ai hết.
Đây là sự
phản bội thứ nhất của
những người lãnh đạo Trung Quốc đối với
cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt
Nam cũng như nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
(còn nữa)
Lược trích từ " SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA", văn kiện đã được Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979.
(còn nữa)
Lược trích từ "
No comments:
Post a Comment