Tuesday, August 4, 2020

PHIM TÀI LIỆU (1)

Phim tài liệu là gì?

Bài viết của nhà biên kịch Nguyễn Hậu, giảng viên khoa Phát thanh – Truyền hình (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)

Đã đăng tải trên Website daotao.vtv.vn
-----------

Nói đến phim tài liệu, có lẽ chẳng ai trong chúng ta lại tỏ ra xa lạ với nhóm thể loại vô cùng quan trọng và cần thiết này. Lí do: người ta có thể nghe nói, gặp gỡ nó hằng ngày, qua các chương trình truyền hình từ trung ương đến địa phương, từ VTV đến VTC, Truyền hình thông tấn, v.v. Không chỉ trình chiếu những bộ phim do Việt Nam sản xuất, VTV còn có cả một chuyên mục được gọi tên là Phim tài liệu nước ngoài, nhiều khi rất hấp dẫn khán giả truyền hình.

Tuy nhiên, giống như một nghịch lí, dường như chẳng mấy ai trong số đông công chúng, bao gồm cả khán giả điện ảnh và truyền hình, để ý đến sự hiện diện của phim tài liệu và thử đếm xem, mỗi ngày có bao nhiêu bộ phim thuộc nhóm thể loại này tuồn tuồn trôi qua màn ảnh truyền hình của các “nhà đài”. Bởi vì, âm thầm và lặng lẽ, những bộ phim tài liệu thuộc đủ các thể loại ấy cứ nhòe lẫn, hòa tan vào những tác phẩm báo chí truyền hình được người ta phát sóng, trừ những trường hợp đặc biệt, với những bộ phim đặc biệt, được giới thiệu kĩ từ trước đó nhằm thu hút người xem.

Vậy thì phim tài liệu quan trọng ở chỗ nào? Câu trả lời là ở bản chất, đặc trưng của nhóm thể loại này, nhóm thể loại mà từ những năm hai mươi của thế kỉ trước, các bậc thầy của điện ảnh Xô viết đã gọi là Điện ảnh mắt hay Điện ảnh sự thật. Nghĩa là chỉ có sự thật và sự thật mà thôi. Không hư cấu, không dàn dựng, không có sự xuất hiện của diễn viên. Hiện thực cuộc sống phải được phản ánh một cách khách quan, trung thực nhất như nó vốn có; không được bóp méo, đảo lộn hay tô vẽ gì thêm. Phải vậy chăng, mà cho đến tận bây giờ, vẫn có người còn tranh cãi xem phim tài liệu có phải là tác phẩm nghệ thuật không, hay là báo chí; hoặc nó là sự giao thoa giữa nghệ thuật (điện ảnh) và báo chí (truyền hình). Nhưng dù vẫn còn những quan niệm khác nhau, người ta vẫn không thể phủ nhận, rằng phim tài liệu, cũng giống như các thể loại tác phẩm báo chí truyền hình đều có chung một gốc, đó là tất cả đều phải xuất phát từ những hình ảnh có thật đã và đang tồn tại trong cuộc sống.

Lịch sử điện ảnh đã chỉ ra rằng Phim thời sự – tài liệu là nhóm thể loại ra đời sớm nhất, căn cứ vào cách thức làm phim. Đó là việc, vào buổi bình minh của điện ảnh, khi mọi quan niệm về thể loại và các chức danh nghiệp vụ của bộ môn nghệ thuật này còn chưa ra đời, để làm ra một bộ phim (thường chỉ dài khoảng vài ba phút chiếu) người ta cứ hồn nhiên vác máy đi bất cứ đâu, ghi hình bất kì cái gì họ muốn (toàn là những người thật, việc thật!). Nhưng cũng chính từ cách làm này, có ai ngờ lại dẫn đến sự ra đời của nhóm thể loại đầu tiên trong điện ảnh. Còn các nhóm thể loại khác, như phim khoa học, phim hoạt hình và phim truyện, là chuyện về sau. Nhưng có lẽ không phải ngẫu nhiên mà gần như tất cả các đạo diễn phim truyện đều ít nhiều thử sức trong lĩnh vực phim tài liệu, vì nhóm thể loại này bao giờ cũng có một sức hấp dẫn riêng. Đó là chưa kể đến những người suốt đời gắn bó với phim tài liệu, thậm chí tạo nên cả một khuynh hướng hay trường phái, như Flaherti (Mỹ), Dziga Vertốp (Nga Xô viết) từ đầu thế kỉ 20. Muộn hơn, có thể kể đến Rôman Carman (Liên Xô), Xương Hạc Linh (Trung Quốc), Soiman, Hainốpxki (Đức), Joris Ivenx (Hà Lan), Daniel Costen (Pháp), v.v. Ở Việt Nam, là những tên tuổi như Khương Mễ, Mai Lộc, Nguyễn Tiến Lợi (thời kì đầu), Bùi Đình Hạc, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Trần Văn Thủy, Đào Trọng Khánh, Lê Mạnh Thích và biết bao nhiêu gương mặt khác của hôm nay. Với mảng phim tài liệu truyền hình, không thể quên được Trịnh Văn Thanh, Bùi Ngọc Hà, Lê Thuấn, Trần Minh Đại, Vi Hòa…

Nói đến phim tài liệu, từ lâu, người ta đã cho rằng nhóm thể loại phim này có những chức năng chủ yếu như sau:

Thứ nhất: Chức năng thông tấn và báo chí. Đây chính là chức năng quan trọng nhất, chi phối toàn bộ quá trình xây dựng một bộ phim tài liệu nói chung. Từ đó, mỗi bộ phim đi sâu phản ánh một sự kiện, vấn đề hoặc con người cụ thể, với những mối quan hệ biện chứng, diễn biến, tác động qua lại, những xung đột và mâu thuẫn, v.v. trong một thời gian hoặc không gian xác định, từ đó làm bật ra tư tưởng chủ đề tác phẩm. Trong rất nhiều trường hợp, người ta có thể tìm thấy trong phim tài liệu những thông tin xác thực, khách quan, mang tính thời sự nóng hổi, ngay cả khi nó phản ánh những vấn đề đã thuộc về quá khứ. Bên cạnh đó là những bộ phim chính luận với mục đích thông tin tuyên truyền phục vụ những sự kiện chính trị nổi bật , các ngày lễ lớn, nhân dịp kỉ niệm, v.v. Ngoài ra còn có thể kể đến những bộ phim được coi như một thứ vũ khí lợi hại chống lại những quan điểm, hành vi sai trái về chính trị, tư tưởng, v.v.

Thứ hai: Chức năng giáo dục và nhận thức. Thông qua những hình ảnh chân thực về con người, sự việc, sự kiện, vấn đề… với tất cả sự phong phú và đa dạng của nó, phim tài liệu giúp nâng cao nhận thức và tư duy của người xem, thậm chí là góp phần định hướng tư tưởng và thay đổi hành vi của họ. Hơn thế nữa, phim tài liệu còn có thể giúp người xem phát hiện bản chất có ý nghĩa triết học của hiện tượng và sự kiện, nâng sự kiện lên tầm khái quát hóa bằng hình tượng tiêu biểu, nhờ việc sử dụng một cách có hiệu quả các thủ pháp nghệ thuật (điều mà các thể loại báo chí truyền hình khác khó thực hiện được do đặc điểm thể loại, thời lượng và mục đích thông tin). Và cuối cùng, phim tài liệu có thể nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của hiện tượng và sự kiện thông qua việc sử dụng các chi tiết điển hình, kết hợp với âm nhạc, tiếng động, lời bình, các thủ pháp dựng phim…, tác động mạnh mẽ tới người xem, tạo nên một thứ “hiệu ứng dây chuyền”, lan rộng trong xã hội.

Thứ ba: Chức năng thẩm mĩ và giá trị tư liệu lịch sử. Không dừng lại ở việc miêu tả hiện thực một cách khách quan, trung thực, phim tài liệu (nhất là phim tài liệu nghệ thuật) còn chú trọng khai thác chất thơ với những ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ… nhằm tác động tới cảm xúc thẩm mĩ của khán giả, khiến họ cùng vui, buồn, hờn, giận… với những hình ảnh trong phim. Mặt khác, chúng ta cũng không thể quên được rằng, mỗi bộ phim tài liệu, tự nó đã chứa đựng những giá trị tư liệu nhất định về lịch sử, văn hóa, đất nước và con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với tất cả những gì đã thuộc về quá khứ, những sự việc, sự kiện đã trở thành lịch sử. Chẳng hạn như hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập; những người lính phất cao cờ đỏ sao vàng trên nóc hầm Đờ Cátxtri; B52 Mỹ cháy trên bầu trời Hà Nội, v.v. Đó là những hình ảnh mà không ai và chẳng bao giờ có thể bịa ra hay “làm lại” được.

Có lẽ do tầm quan trọng như thế, nên phim tài liệu đã được người ta tôn vinh là “lương tâm thời đại”. Điều này đúng, nếu chúng ta biết được rằng, nhờ có bộ phim Vụ án Đrâyphuyx của Mêliex, một trong những bậc thầy vĩ đại của điện ảnh Pháp thời phim câm, mà nhân vật chính, đại úy Đrâyphuyx đã được minh oan, thoát khỏi tội “làm gián điệp cho Đức” trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Nhờ những bộ phim của Jôrix Ivenx, Soiman và Hainốpxki… mà nhân dân thế giới hiểu thêm được cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta thực chất là như thế nào. Và cũng chính là nhờ có Lê Mạnh Thính qua Trở lại Ngư Thủy, chúng ta mới giật mình khi biết đến bi kịch của những nữ dân quân anh dũng của một thời, nhanh chóng bị rơi vào lãng quên sau khi chiến tranh kết thúc. Tất nhiên, sức mạnh thức tỉnh và lay động của phim tài liệu không chỉ đóng khung trong những ví dụ này.

Tại các liên hoan phim trên thế giới cũng như ở Việt Nam, phim tài liệu luôn luôn có một vị trí rất trang trọng. Ngay cả giải Oscar danh giá cũng có chỗ đứng cho nhóm thể loại phim này. Hơn thế nữa, người ta còn tổ chức Liên hoan phim quốc tế dành riêng cho phim tài liệu. Và Liên hoan phim ngắn khu vực châu Á – Thái Bình Dương là gì, nếu không phải là để tôn vinh nhóm thể loại này? Xin lưu ý: chính tại Liên hoan phim ngắn khu vực châu Á – Thái Bình Dương, điện ảnh tài liệu Việt Nam đã lập nên kì tích: bốn lần liên tiếp đoạt giải Vàng, một kỉ lục không nước nào đạt được.

Phim tài liệu điện ảnh và phim tài liệu truyền hình

Chuyện kể rằng, ở một cơ sở đào tạo báo chí, khi giảng viên hỏi sinh viên chuyên ngành truyền hình: “Các bạn hiểu như thế nào về phim tài liệu?” thì… than ôi, chẳng có cánh tay nào dám giơ lên, tình nguyện trả lời. Đến lúc bị chỉ định, thì có người ấp a ấp úng một hồi, rằng đây là “tác phẩm báo chí”, “chuyển tải thông tin”, rồi “người tốt việc tốt”, “giáo dục tư tưởng”, v.v. Người lại nói đến phim tài liệu nhựa, phim tài liệu truyền hình, phim tài liệu chân dung… Khi bị vặn lại, thế nào là phim tài liệu nhựa và phim tài liệu truyền hình, thì tất cả đều im lặng. Mà đây là chuyện xảy ra với các sinh viên năm thứ ba.

Thật ra, mọi việc vô cùng đơn giản. Từ lâu, người ta đã phân chia phim tài liệu làm hai mảng rất khác nhau, căn cứ vào cách làm, mục đích của nó, cũng như phương thức phát hành và… cả cơ quan chủ quản. Từ đó, xuất hiện thuật ngữ “phim tài liệu điện ảnh” và “phim tài liệu truyền hình”, cũng giống như người ta thường nói tới “phim truyện điện ảnh” và “phim truyện truyền hình” vậy. Nếu các sinh viên không phân biệt được điều này thì chỉ có nghĩa là họ thiếu đi sự quan tâm cần thiết đối với một môn học cũng như sự tồn tại của phim tài liệu mà thôi.

Phim tài liệu điện ảnh là thuật ngữ được dùng để chỉ nhóm thể loại do điện ảnh sản xuất và phát hành từ hơn một thế kỉ nay, qua hệ thống các rạp chiếu. Đây cũng là loại phim thực hiện trên chất liệu phim nhựa (chủ yếu được tạo nên từ hợp chất triaxêtát xenlulô, clorua bạc, gelatin, v.v.). Loại phim này đòi hỏi một quy trình sản xuất phức tạp, công phu và tốn kém. Phim sống (nghĩa là chưa được dùng để ghi hình) phải được bảo quản rất cẩn thận. Quay phim xong lại phải qua một quá trình in tráng với nhiều công đoạn khác nhau rồi mới có thể dựng thành tác phẩm. Giá nguyên liệu cao nên dẫn đến giá thành chung của bộ phim cũng rất cao. Tuy nhiên, lúc đó truyền hình còn chưa ra đời hoặc mới chỉ chiếm vị trí rất khiêm nhường nên trên thế giới cũng như ở Việt Nam, gần như quốc gia nào cũng có các xưởng (hoặc hãng, tùy từng cách gọi), chuyên sản xuất phim tài liệu. Thậm chí ở một số nước chưa có điện ảnh phim truyện, người ta cũng vẫn có thể cho ra đời các loại phim tài liệu như thường. Riêng tại Việt Nam, từ mấy chục năm nay, chúng ta đã có Xưởng phim Thời sự – Tài liệu (đơn vị anh hùng, qua nhiều lần đổi tên, nay là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hãng phim Tài liệu và Khoa học trung ương). Ngoài ra còn có Điện ảnh quân đội và sau đó một chút, là Điện ảnh công an với nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất phim tài liệu.

Phim tài liệu truyền hình là nhóm thể loại được Truyền hình tổ chức sản xuất với mục đích phát sóng. Nhờ có sự tiến bộ của khoa học và kĩ thuật, thay vì sử dụng loại phim đặc biệt được gọi là phim trực hình (hoặc phim đảo dương), thì từ những năm tám mươi của thế kỉ trước, người ta đã dùng băng từ vidéo thuận tiện hơn, giá rẻ hơn và bây giờ là kĩ thuật số. Phương thức làm phim này quả thật đã tạo ra được sự thay đổi ngoạn mục trong quy trình sản xuất, cho ra đời ngày càng nhiều bộ phim với tốc độ rất nhanh và giá thành hạ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến phim nhựa ngày càng thu hẹp phạm vi ảnh hưởng, mà việc hãng phim Kodak lừng danh của một thời buộc phải ngừng sản xuất là minh chứng hùng hồn nhất. Cũng từ đó, điện ảnh quay ra “bắt chước” truyền hình, dùng băng từ và kĩ thuật số để làm phim.

Tuy nhiên, cho dù phim tài liệu điện ảnh là tiền thân của phim tài liệu truyền hình, thì cũng vẫn còn đó, những điểm tương đồng và khác biệt rất rõ ràng của chúng.

Thứ nhất, nói đến những điểm tương đồng, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, phim tài liệu điện ảnh và phim tài liệu truyền hình cùng có chung đặc điểm là xuất phát từ những hình ảnh người thực, việc thực đã hoặc đang tồn tại trong cuộc sống, với những chức năng và nhiệm vụ chính trị giống nhau. Điều này cũng có nghĩa là nếu không có người thật, việc thật, thì không có phim tài liệu điện ảnh mà cũng chẳng có phim tài liệu truyền hình! Thêm vào đó, hai dòng phim này đều bắt nguồn từ nhóm thể loại ra đời sớm nhất của điện ảnh và cùng chung hệ thống các phương tiện biểu hiện như hình ảnh, âm thanh, nghệ thuật dựng phim (montage) và các thủ pháp khác nhau. Và  tiếp đó, là phim tài liệu, dù điện ảnh hay truyền hình cũng đều có thể cùng một lúc tác động tới nhiều người và mang giá trị tư liệu lịch sử.

Thứ hai, về những khác biệt. Nếu như phim tài liệu điện ảnh (trước đây) thường được thực hiện trên phim nhựa và phổ biến qua hệ thống các rạp chiếu, thì phim tài liệu truyền hình lại được làm bằng băng từ (vidéo) hoặc kĩ thuật số và phát sóng. Tuy nhiên, phim tài liệu điện ảnh có thể được nghiền ngẫm sâu hơn, với những đề tài và vấn đề rộng hơn, kể cả một số đề tài nhạy cảm, có khi còn chưa được kết luận rõ ràng hoặc dễ gây ra tranh cãi. Còn tính thời sự và báo chí lại được phim tài liệu truyền hình chú ý nhiều hơn. Đó là chưa kể truyền hình, do đặc trưng của nó là có thể hiện diện ở khắp mọi nơi, ngay lập tức, và có thể tác động tới rất nhiều người trong cùng một thời điểm, nên phải rất thận trọng với những gì có thể bị coi là “lập lờ nước đôi”, kích động tình dục hoặc hành vi bạo lực v.v. Do đó, thật khó mà có thể tin rằng những bộ phim như Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai (Trần Văn Thủy) hay Trở lại Ngư Thủy của Lê Mạnh Thích lại dễ dàng được “nhà đài” sản xuất và phát sóng. Bằng chứng là sau khi phim đã được phát hành rộng rãi, vẫn có người chất vấn đạo diễn Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai, là tại sao lại làm phim như thế? Còn Đào Quang Thép(*) đã được coi là rất dũng cảm khi ông dám cho phát sóng Trở lại Ngư Thủy trên Truyền hình Hà Nội, giữa lúc có người đòi cấm phát hành rộng rãi bộ phim này vì nó “vi phạm quan điểm” và “xuyên tạc sự thật” ở Ngư Thủy, Quảng Bình! Ngay cả một bộ phim do Truyền hình Việt Nam sản xuất, là Người đi trước thời gian (do Vũ Văn Quang đạo diễn) không có gì “phạm húy” nhưng vẫn bị ách lại Phòng nội dung của “nhà đài”. Và phim chỉ được phát sóng sau khi đã được đích thân Tổng giám đốc Truyền hình Việt Nam thẩm định lại, với yêu cầu bỏ bớt một câu (ngắn) trong lời bình và thêm phụ đề vào cảnh bà quả phụ Nguyễn Viết Xuân phát biểu.

Đến đây, lại phải nói sang một vấn đề khác, là phương thức phổ biến và phạm vi ảnh hưởng của phim tài liệu. Thực tế là trong một thời gian rất dài, phim tài liệu thường được đem chiếu ở các rạp (cùng lắm chứa được mấy trăm người) hoặc các bãi (có thể lên tới vài ngàn người) nhưng rõ ràng là vẫn chẳng thấm vào đâu so với khán giả truyền hình, mặc dù điện ảnh là nghệ thuật dành cho số đông công chúng. Đã thế, phim thời sự – tài liệu lại thường được chiếu kèm, trước khi bắt đầu vào phim truyện (được coi là phim chính) vì thế tác động xã hội của nó cũng không lớn lắm. Nhưng chỉ cần một lần phát sóng thôi, ngay lập tức, phim tài liệu truyền hình có thể xộc ngay vào phòng ngủ của hàng triệu gia đình ở khắp mọi miền đất nước. Sự cộng hưởng, thậm chí là bùng nổ về cảm xúc của khán giả là đương nhiên. Phải vậy chăng mà sau khi Trở lại Ngư Thủy được phát sóng, rất nhiều người ở các nơi đã biên thư, gọi điện về đài và Hãng phim Tài liệu – Khoa học trung ương; quyên góp, giúp đỡ các “chị em C gái” để họ có thể thực hiện ước mơ từ mấy chục năm, là được ra Hà Nội, vào Lăng viếng Bác, thăm viện bảo tàng Quân đội nhân dân Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam)… Để rồi sau đó ít lâu, điện lưới quốc gia được kéo về Ngư Thủy; xã đã có đường… và mỗi chị em được tặng một chiếc máy thu hình màu.

Tất cả những cái đó, người ta gọi là hiệu ứng dây chuyền. Thay đổi nhận thức, hành vi… cũng là từ đó. Nhưng không phải phim tài liệu nào, dù là điện ảnh hay truyền hình, cũng có được sức mạnh ghê gớm như Trở lại Ngư Thủy của cố đạo diễn, Nghệ sĩ nhân dân Lê Mạnh Thích.

Các thể Phim tài liệu

Từ lâu, theo các nhà lí luận phê bình điện ảnh Liên Xô, phim tài liệu gồm có hai thể loại, là phim tài liệu chính luận và phim tài liệu nghệ thuật. Nhưng dù là phim tài liệu chính luận hay nghệ thuật, thì cả hai thể loại này đều có chung các đối tượng phản ánh giống nhau, là con người, sự kiện và vấn đề. Còn việc phân chia thể loại (thật ra cũng chỉ là tương đối) chủ yếu dựa vào cách đặt vấn đề, phương pháp thể hiện và tư tưởng chủ đề của bộ phim, những yếu tố làm nên phong cách của tác giả và tác phẩm. Cũng từ quan niệm trên, mà người ta có các thể phim tài liệu chân dung, phim tài liệu sự kiện và phim tài liệu vấn đề.

Phim tài liệu chân dung (hoặc kí sự chân dung) thường lấy con người làm đối tượng miêu tả, trong đó đặc biệt chú ý đến những suy nghĩ, tình cảm, hành động của họ, với những nét riêng độc đáo và điển hình, từ đó làm nổi bật tính cách nhân vật; cho thấy những ảnh hưởng, tác động, hiệu quả, hậu quả của họ đối với những người xung quanh và thậm chí là toàn xã hội. Lẽ đương nhiên, đây phải là con người tiêu biểu, theo một nghĩa nào đó, đại diện cho một tầng lớp cụ thể (như công nhân, nông dân, trí thức, v.v.). Và như vậy, tầm quan trọng của nhân vật không phải ở địa vị xã hội của họ, mà là ở chỗ, họ có cái gì đặc biệt, khác với những người mà họ “được cử làm đại diện”. Ví dụ, nói đến nông dân, ai cũng nghĩ ngay đến những người ngay thẳng, thật thà, chịu thương chịu khó… Nhưng nếu các bác “Hai Lúa” ấy ngày nay lại mày mò, chế tạo thành công một số loại máy móc, nông cụ có giá trị, thì đó đã thực sự là độc đáo và mới mẻ nhờ cái sự “chẳng giống ai” này!

Lẽ đương nhiên, nhân vật chính trong phim tài liệu chân dung thường phải là những người tốt và tích cực. Quan điểm này đúng nhưng chưa đủ. Bởi vì xét về mặt điển hình hóa trong nghệ thuật, thì dù “chính diện” hay “phản diện” cũng đều bình đẳng như nhau. Vấn đề là ở chỗ, người ta chọn lựa, miêu tả nhân vật ấy như thế nào và để làm gì. Ca ngợi hay phê phán, ủng hộ hay phản đối, hạ thấp hay đề cao… đều phải rõ ràng. Sự thật không phải như vậy ư, cổ kim, đông tây đã cho thấy, có những nhân vật được tác giả chăm chút, dồn hết tâm sức của mình vào đó, nhưng vẫn không hay và sống động bằng những nhân vật bị cho là xấu xa, tiêu cực. Thử hỏi, đọc xong Truyện Kiều, người ta nhớ đến ai nhiều nhất? Chính là những Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh… rồi mới đến Thúy Kiều, Từ Hải. Còn với Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, người ta không thể nào quên Chí Phèo, Thị Nở, Xuân Tóc Đỏ, v.v. Phải chăng, vì những người tốt (luôn luôn rất đông!) thường bị nhòe lẫn vào nhau. Còn kẻ xấu, kẻ ác lại muôn hình vạn trạng, mỗi người một kiểu. Nhân vật tính cực, trở thành hình mẫu tiêu biểu, sống động, gần gũi với hàng chục triệu người Việt Nam trong gần hai mươi năm qua, Ôsin, là một hiện tượng vô cùng hiếm có. Nhưng thật đáng tiếc, đó lại là một cô gái “made in” Nhật Bản! Còn nhân vật Việt Nam ư, có lẽ… phải chờ thêm một thời gian nữa.

Phim tài liệu sự kiện thường dành cho những sự kiện tiêu biểu, quan trọng, có ý nghĩa và tác động to lớn đối với nhiều người, đối với xã hội, quốc gia cũng như quốc tế. Ví dụ như chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng Sài Gòn; khánh thành nhà máy thủy điện Hòa Bình; Mỹ tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam; vụ động đất và sóng thần ở Nhật Bản, v.v. Có thể dễ dàng nhận thấy, với thể phim này, con người bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nhường chỗ cho các sự kiện như đã nêu. Tác giả sẽ đi sâu phản ánh, đánh giá, phân tích sự kiện, từ đó cho thấy bản chất, ý nghĩa, tác động, ảnh hưởng của nó là như thế nào. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra những bình luận, kiến nghị, giải pháp, đề nghị, v.v. Giả như phim tài liệu nói về sự kiện ngày 11.9.2001 ở Mỹ. Chắc chắn người ta sẽ phải đưa ra hàng loạt số liệu, dữ kiện, thông tin liên quan đến vụ khủng bố có một không hai này, diễn biến cũng như hậu quả của nó và cuối cùng, là những biện pháp phòng chống, ngăn chặn các cuộc khủng bố trong tương lai.

Phim tài liệu vấn đề lại bao gồm các vấn đề, chính luận, luận đề… về chiến tranh, hòa bình, sản xuất, môi trường, xã hội, v.v. khiến người ta phải quan tâm. Chẳng hạn, với cấp độ quốc gia như ở Việt Nam, thì đó là những vấn đề thuộc về xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, phòng chống tham những, cải cách giáo dục, ngăn chặn nạn buôn người… Cao hơn, là hiểm họa từ chiến tranh hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải trên biển Đông, sự nóng lên của toàn cầu… Đến đây chúng ta nhận thấy, trong các sự kiện, tự nó thường đã có các vấn đề; ngược lại, mỗi vấn đề có thể chứa đựng nhiều sự kiện. Nhiệm vụ của những người làm phim là phải tìm ra mối quan hệ và tác động qua lại giữa các sự kiện và vấn đề ấy, cùng với bản chất thực sự của chúng là gì.

Rõ ràng là, giữa phim tài liệu sự kiện và phim tài liệu vấn đề có sự giao thoa, hòa quyện với nhau để tạo nên dòng phim tài liệu chính luận nói chung. Việc phân chia tách biệt hai thể loại phim này đôi khi không dễ, mà thực ra cũng chẳng cần thiết lắm. Tuy vậy, khuynh hướng thể hiện trong phim sẽ mách bảo cho chúng ta biết, nên xếp chúng vào loại nào. Nhưng dù sao, yêu cầu về mặt chính trị và lập trường tác giả là điều kiện vô cùng quan trọng đối với thể loại này. Tuyệt đối không được hư cấu, bịa đặt đã đành, tác giả còn không được phép để cái tôi chủ quan của mình lên tiếng; đồng thời mọi số liệu, dữ kiện, niên biểu… cũng phải hoàn toàn chính xác. Vì thế, làm được một bộ phim tài liệu chính luận xưa nay là rất khó đối với bất kì ai. Tác giả phải làm thế nào đó để từ những cái mà mọi người rất có thể đã biết rồi, tạo nên một bộ phim tài liệu chính luận vừa hay, vừa hấp dẫn. Đó là chưa kể đến những khó khăn do thời thế tạo nên: có những con người, sự việc, sự kiện, vấn đề… ngày hôm qua là đúng, nhưng hôm nay lại sai và ngược lại.

Không riêng gì phim tài liệu chính luận, mà đối với phim tài liệu nghệ thuật cũng thế thôi. Tất cả đều phụ thuộc vào cái tâm, cái tầm và cái tài của người nghệ sĩ, mà nếu thiếu đi dù chỉ một chữ “t” thôi, là đã khó làm nên chuyện. Xưa nay, ở trên khắp đất nước ta, có bao nhiêu đội công nhân đường dây, nhưng tại sao chỉ có Lê Mạnh Thích mới nhìn ra họ, đểĐường dây lên sông Đà biến thành một bài thơ hào hùng nhưng cũng không kém phần lãng mạn, ca ngợi sự lao động quên mình của những con người vô danh đã góp phần làm nên dòng điện cho Tổ quốc. Bùi Ngọc Hà cũng đâu phải dễ dàng biến một bà mẹ liệt sĩ vùng gió Lào cát trắng Quảng Bình thành bà mẹ – Tổ quốc Việt Nam anh hùng. Lại nữa, Hà Nội trong mắt ai của Trần Văn Thủy, ra đời năm 1983 mà vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi cho đến tận hôm nay.

Cuối cùng, có lẽ cũng nên nói đến các khuynh hướng trong phim tài liệu. Nếu như phim tài liệu chân dung, kí sự chân dung được cho là thuộc dòng tâm lí (do khuynh hướng đi sâu vào khai thác, thể hiện tâm lí, tính cách nhân vật thông qua các phương pháp điển hình hóa nghệ thuật), thì dòng xã hội học lại là nơi quy tụ những bộ phim theo khuynh hướng phản ánh các sự kiện, vấn đề, luận đề và lập trường tác giả – thuộc thể loại phim chính luận. Còn dòng thơ bao gồm những bộ phim thiên về phản ánh nhận thức thẩm mĩ của tác giả thông qua khuynh hướng sử dụng những ẩn dụ, tượng trưng, hình tượng thơ để tái hiện hiện thực, nhất là đối với những vấn đề thuộc về lịch sử. Những bộ phim nói về vẻ đẹp đất nước, con người, lễ hội truyền thống, làng nghề, du lịch, v.v. đều có thể xếp vào thể loại này.

Các nhân tố trong Phim tài liệu
Các bạn, cũng như tôi, trong khi xem bất kì một bộ phim nào, có lẽ chẳng ai lại tự hỏi hay thử tìm hiểu, trong đó có những nhân tố gì, hay nói cách khác, những gì tạo nên phim. Đơn giản, là vì chúng ta chỉ xem phim, tiếp thụ nội dung của nó với những cái hay, cái dở, thế thôi. Nhưng nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy có những điều đáng được đem ra trao đổi.

Trước hết, là phần hình ảnh. Đây cũng chính là phần quan trọng nhất trong bất kì thể loại phim nào, hay nói rộng ra, là các sản phẩm nghe nhìn (lẽ ra, phải gọi là xem và nghe mới đúng! Vì nhìn chưa chắc đã là xem. Còn xem là hành động có ý thức của con người). Nếu như nhà văn dùng ngôn ngữ, họa sĩ sử dụng màu sắc, còn nhạc sĩ phải lụy đến âm thanh để làm nên tác phẩm, thì rõ ràng, người đạo diễn phải dùng hình ảnh để “viết” thành bộ phim của họ. Nhưng cái gì tạo nên hình ảnh? Xin thưa, đó chính là bối cảnh, phong cảnh, kiến trúc, con người, loài vật, đồ đạc, … nghĩa là tất cả những gì mang tính hữu hình.

Nhưng tại sao lại là “bối cảnh, phong cảnh, kiến trúc” rồi mới đến con người? Ai cũng biết, con người là trung tâm của vũ trụ kia mà! Vâng, đúng thế. Song le, các bạn có để ý không, có ai trong ta lại chẳng bị ràng buộc với một không gian cụ thể, tuyệt đối, toàn diện, không bao giờ tách rời ra được, thậm chí cả đến sau khi chết. Vả chăng, các bối cảnh, phong cảnh, kiến trúc… luôn luôn chứa đựng trong nó cả thời gian, lịch sử, văn hóa, hồn cốt của cả một dân tộc hay thời đại đã qua. Ví dụ, nhìn thấy hình ảnh điện Kremli, có ai lại nghĩ, đó là công trình kiến trúc nổi tiếng ở tận bên Anh quốc! Phong cảnh Nhật Bản khác xa với những rừng cây của Phần Lan. Còn Kim tự tháp Ai Cập thì làm sao mà có thể lẫn với Angkor ở Campuchia cho được! Nhưng tất cả những cái đó, xét cho cùng, cũng chỉ là để làm nền cho con người (hay nhân vật) của chúng ta tồn tại và phát triển mà thôi. Hơn nữa, điện ảnh, truyền hình cũng giống như hội họa, đều rất biết cách kể chuyện về con người mà không cần có sự xuất hiện của họ. Ví dụ, chỉ cần nhìn thấy hình ảnh một khoảnh rừng bị phát quang, bốc cháy, cây cối ngổn ngang… ta đã có thể hiểu được, sự tàn phá của con người là như thế nào. Hoặc giả, nhìn vào một căn phòng thôi, cũng có thể đoán biết chủ nhân của nó là ai, tính cách như thế nào, chỉ cần thông qua đồ đạc, vật dụng, cách bài trí căn phòng.

Khác với phim truyện, nhân vật trong phim tài liệu thường không phải là diễn viên, trừ khi đó là phim tài liệu chân dung diễn viên, hoặc trong số ít trường hợp sử dụng diễn viên làm người dẫn chuyện. Nói cách khác, phim tài liệu không có đất cho diễn viên thể hiện tài năng; các nhân vật, nhờ sự phát hiện của biên kịch hay đạo diễn, tự mình bước lên màn ảnh. Cực kì hiếm gặp, là việc diễn viên “đóng vai” nhân vật nào đó trong phim tài liệu, nhưng than ôi, đó lại là “giả tài liệu” mất rồi! Mà đây lại là điều tối kị đối với nhóm thể loại phim này.

Tất nhiên, nói đi cũng phải nói lại. Trong rất nhiều phim tài liệu về đề tài lịch sử của nước ngoài, chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh các ông hoàng bà chúa, hiệp sĩ thánh chiến, võ sĩ, v.v. Nhưng tất cả đều được thể hiện, sao cho khán giả cảm nhận rằng, hiện thực có lẽ đã từng như thế, chứ không phải chắc chắn là như thế; hình ảnh tái hiện này chỉ  mang tính chất minh họa mà thôi. Khác hẳn với một vài phim tài liệu của chúng ta, dường như cố tình tìm cách thuyết phục người xem, rằng đó chính là sự thật.

Hình ảnh cần thiết như thế, nên nó mới trở thành phương tiện biểu hiện quan trọng nhất đối với cả điện ảnh và truyền hình. Nhưng sẽ càng thú vị và hấp dẫn hơn, nếu hình ảnh ấy thực sự tiêu biểu, điển hình, gây ấn tượng mạnh mẽ với người xem, và như thế, hình ảnh đã trở thành chi tiết (đôi khi là rất đắt!) trong phim tài liệu; chứa đựng những ý tưởng hay thông điệp nào đó mà các tác giả muốn gửi tới số đông công chúng. Ví dụ như hình ảnh Bác Hồ ngồi trầm ngâm bên cửa sổ nhà sàn trên chiến khu Việt Bắc; hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu trên đường phố Sài Gòn; anh Nguyễn Văn Trỗi bị trói vào cột trước khi xử bắn; bà Nguyễn Thị Bình kí vào Hiệp định Pari; Bin Clintơn tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam v.v.

Ánh sáng và màu sắc cũng góp phần quan trọng tạo nên hình ảnh trong phim tài liệu, Tùy theo ý đồ sáng tạo của đạo diễn và quay phim mà người ta sử dụng hai yếu tố này sao phù hợp và hiệu quả. Nhưng dễ thấy nhất là trong một số phim tài liệu của Việt Nam, khi các tác giả biến hình ảnh (màu) thành phim đen trắng như một cách khiến người xem cho đó là hình ảnh tư liệu hoặc “thì quá khứ” của nhân vật và sự kiện. Cùng với đó là việc sử dụng góc độ, động tác máy quay và tất cả sẽ hiển thị trước mắt chúng ta qua các cỡ cảnh và khuôn hình với các trường đoạn ngắn, dài.

Phần âm thanh trong phim tài liệu hóa ra lại khá là phức tạp do có những quan niệm trái chiều. Một số tác giả cho rằng “âm thanh” ở trong phim (nói rộng ra, gồm cả điện ảnh và truyền hình) là sự kết hợp của ba yếu tố: lời nói, âm nhạc và tiếng động. Số khác, lại khẳng định đó là những thành phần độc lập, nhiều khi chẳng liên quan gì đến nhau, với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Chẳng hạn, người ta có thể dùng âm nhạc hoặc tiếng động để làm rõ thêm những ý tự sự hoặc trữ tình, tăng thêm tính kịch… nhưng lời nói của con người thì chưa chắc. Ngược lại, âm nhạc và tiếng động làm sao có thể thay thế đối thoại giữa các nhân vật, trả lời phỏng vấn, trao đổi, tranh luận… góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, làm rõ bối cảnh, không gian, thời gian và cả tính huống trong đó nhân vật đang tồn tại. Tuy nhiên, cho dù “gộp vào” hay “tách ra”, thì cả lời nói, âm nhạc và tiếng động cũng đều trở thành phương tiện biểu hiện quan trọng thứ hai, chỉ đứng sau hình ảnh.

Lời nói trong phim tài liệu thường được hiểu là đối thoại, độc thoại, trả lời phỏng vấn… được sử dụng theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tùy từng trường hợp. Bên cạnh đó, còn có lời ngoài hình (hoặc lời nói sau khuôn hình), là dạng lời nói không đi cùng nhân vật đang xuất hiện trên màn ảnh, có chức năng và nhiệm vụ riêng. Đây có thể là lời của nhân vật “ẩn mình” mà cũng có thể của chính tác giả.

Lời bình, trong một thời gian khá dài, được gọi là lời thuyết minh, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với bất kì bộ phim tài liệu nào. Nó có nhiệm vụ giới thiệu nhân vật, sự kiện, bối cảnh, không gian, thời gian, ý trữ tình và tự sự; dùng để dẫn chuyện, cho thấy thái độ và lập trường của tác giả cũng như tư tưởng chủ đề của tác phẩm, v.v. Các dữ kiện, dữ liệu, số liệu… cũng có thể được thể hiện qua lời bình. Và việc viết lời bình phim tài liệu có thể do chính đạo diễn đảm nhiệm, nhưng trong rất nhiều trường hợp, nó được giao cho các nhà văn, nhà thơ, biên kịch, v.v., miễn sao họ có đủ trình độ và tri thức cần thiết. Hẳn những người ở lứa tuổi sáu, bảy mươi, đã từng xem Cây tre Việt Nam của các nhà điện ảnh Ba Lan đều không thể nào quên một “thuyết minh” đẹp như thơ do nhà báo, nhà văn Thép Mới viết. Đây thực sự là một áng văn hay, đến nỗi người ta phải đưa vào sách Trích giảng văn học của một thời và nhiều thế hệ học sinh đã học thuộc lòng, mấy chục năm sau vẫn không quên được.

Tiếc là thời gian đã lùi xa, đến độ có người cho rằng đó là bộ phim của các nhà điện ảnh Cu Ba. Làm sao có thể như thế được? Bởi vì mãi đến ngày 01 tháng Giêng năm 1959, chính quyền cộng sản của Phiđen Cátxtrô mới ra đời.  Chẳng lẽ giữa những năm 50 họ đã cử người đến Việt Nam để làm phim? Hay là do chính quyền độc tài Batítxta cử đến?!

Không giống như phim truyện, đối thoại trong phim tài liệu thường xuất hiện với tần suất thấp hơn, và chỉ dừng lại ở mức độ dự kiến nội dung chứ không được viết sẵn trong kịch bản. Bởi vì vào lúc viết kịch bản để làm phim tài liệu, người ta không thể biết được nhân vật sẽ nói gì, trừ trường hợp sử dụng lại các tư liệu cũ. Hơn nữa, trong quá trình làm phim, ngay cả khi được “mớm lời”, chắc gì các nhân vật đã nói đúng ý đồ tác giả!

Phần đối thoại trong phim tài liệu, trước hết là lời của các nhân vật (phát biểu, trả lời phỏng vấn, trao đổi với nhau…) và câu hỏi của tác giả trong những trường hợp cần thiết. Phần này có ý nghĩa rất quan trọng vì tính xác thực, trực tiếp của nó, không thông qua một trung gian nào khác. Nhờ vậy, những đặc điểm về tâm lí, tính cách và cả những tầng thông tin khác của nhân vật, dù vô tình hay hữu ý cũng trở nên rõ nét hơn.

Nếu như trong văn học và báo in (gần đây thêm báo mạng), đối thoại giữa các nhân vật thường do tác giả tạo ra hay thuật lại, nên người đọc chỉ nắm được nội dung chủ yếu, qua ngôn ngữ và văn phong tác giả (tất nhiên trong đó bao gồm cả các biện pháp tu từ, việc sử dụng phương ngữ, sắp xếp lại nội dung câu nói, v.v.) thì nhờ có phát thanh, chúng ta không những nghe được nội dung mà còn biết nhân vật nói như thế nào qua chất giọng, âm sắc vùng miền, cách nhấn nhá của họ. Còn đối với truyền hình nói chung và phim tài liệu nói riêng, ngoài những điều đã kể trên, khán giả còn dường như được trực tiếp gặp gỡ các nhân vật ấy. Ấn tượng được tăng lên gấp nhiều lần, phải không các bạn?

Nhưng, vẫn tồn tại đâu đó một lời khuyên chung cho những người làm phim tài liệu, là hãy để cho nhân vật nói ít thôi. Bởi vì nếu không cẩn thận, bộ phim sẽ trở thành một thứ sản phẩm của radio (phát thanh) chứ không còn là cinéma (để xem) nữa. Ấy là chưa kể, đôi khi, do chất giọng của từng người, cách phát âm cộng với các từ địa phương mà không phải lúc nào khán giả cũng nghe rõ và hiểu được nhân vật nói gì. Thật tiếc, là bên cạnh những thành công không thể phủ nhận, thì Cuộc hội ngộ sau ba mươi năm của Lê Mạnh Thích lại là một bộ phim hơi quá nhiều đối thoại. Ví dụ, cuộc đối thoại giữa o Lai và Rôbinxơn, giữa Rôbinxơn và những người anh ta đã gặp mấy chục năm về trước, giữa o Lai với cô con gái, v.v.

Lời ngoài hình (còn gọi là lời nói sau khuôn hình), xưa nay được hiểu là lời của những người không có mặt trên màn ảnh vì một lí do nào đó. Chẳng hạn, trên nền của những hình ảnh lao động sản xuất, chiến đấu của quân và dân ta, vang lên lời kêu gọi hào hùng của Bác Hồ: “Chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Hiệu quả và tác động của đoạn phim này rõ ràng là rất mạnh. Còn trong một số trường hợp khác, lời ngoài hình lại nhân danh tác giả, nói thẳng với người xem, cũng rất gây ấn tượng. Thủ pháp này từng được sử dụng thành công trong cả phim truyện, như Bài ca người lính, một kiệt tác điện ảnh của Liên bang Xô viết trước đây. Lời của đạo diễn, cố Nghệ sĩ nhân dân Lê Mạnh Thích dùng để kết thúc phim Cuộc hội ngộ sau ba mươi năm cũng vậy.

Cuối cùng, lời trực tiếp là những gì ta nghe được từ người đang nói. Còn lời gián tiếp sẽ được sử dụng khi cần thể hiện một văn bản, hoặc nhân vật nhớ lại một câu nói hay nội dung nào đó. Ví dụ, một cô gái nhận được thư nhà. Giọng bà mẹ từ một miền quê nào đó bỗng vang lên, thể hiện nội dung của bức thư trong khi ánh mắt cô gái lướt qua từng dòng chữ. Hoặc giả, người phụ nữ lật giở từng trang nhật kí ố vàng và mục nát vừa tìm thấy cùng với bộ hài cốt của một người người lính Quân giải phóng. Ngay lập tức chúng ta nghe thấy lời của người đã hi sinh: “Ráng chờ anh, em nhé!” (trong phim Chị Năm “khùng” của Lại Văn Sinh).

Âm nhạc, gồm ca khúc và nhạc không lời cũng là một nhân tố không thể thiếu được trong phim tài liệu. Nó góp phần làm rõ tư tưởng chủ đề tác phẩm, tâm lí, tính cách nhân vật, những cung bậc cảm xúc của họ, tăng thêm tính kịch, v.v. Nhưng khác với phim truyện, người ta thường chọn các ca khúc và bản nhạc có sẵn để đưa vào, bởi lẽ chẳng ai dám xài sang, mời nhạc sĩ sáng tác bài hát riêng cho một bộ phim tài liệu trong khi tiền làm phim thời nay cho nhóm thể loại này là rất hẻo. Tất nhiên, tùy từng nội dung mà người ta lựa chọn âm nhạc sao cho phù hợp. Và nếu như đạo diễn không tự mình làm được việc này thì đã có biên tập viên âm nhạc giúp anh ta. Thực tế cho thấy, nhiều bộ phim trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn, một phần cũng nhờ âm nhạc. Hoa xương rồng trên cát của đạo diễn, Nghệ sĩ ưu tú Bùi Ngọc Hà chính làm một bộ phim như thế.

Tiếng động cũng là một phương tiện biểu hiện quan trọng mà phim tài liệu không thể bỏ qua. Được tạo nên bởi hai nguồn, tự nhiên và nhân tạo, tiếng động luôn luôn vây bọc, chi phối, tác động đến mỗi chúng ta mọi lúc mọi nơi, từng phút từng giờ. Vậy thì hà cớ gì nó lại không xuất hiện trong phim tài liệu?! Xin hãy đừng quên, dù chỉ một tiếng động thôi, nếu được dùng đúng chỗ, có khi còn hơn cả những hình ảnh vô nghĩa, dài dòng. Chẳng hạn như bộ phim Nụ cười thành cổ của đạo diễn Trần Minh Đại. Hình ảnh lúc tĩnh, lúc động, lúc là tư liệu, lúc là những gì mới được ghi hình. Nhưng trên nền của những hình ảnh đó, chúng ta nghe thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, pháo gầm… xé toang không khí. Vậy mà không ai thấy vô lí một chút nào! Người ta gọi đây là phương pháp chủ quan – sử dụng tiếng động theo ý đồ sáng tạo của nhà nghệ sĩ. Còn khách quan ư? Đi trên đường phố, phải có tiếng ồn. Ô tô chạy qua, nghe máy nổ. Sóng biển đập vào bờ đá, thấy ầm ào… Đâu phải lúc nào sự “khách quan, trung thực” này cũng đều đem lại hiệu quả nghệ thuật như mong muốn! Thảng hoặc, có cả những phim từ chối luôn mọi thứ tiếng động mà vẫn cứ hay, như Hoa xương rồng trên cát.

Phần phụ đề được hiểu là toàn bộ những câu chữ được bắn vào phim (trừ bảng tên phim và những người làm phim – générique). Có tác dụng giới thiệu nhân vật, không gian, thời gian, tạo ra bước chuyển trong hành động của các nhân vật… những câu chữ này còn có thể được sử dụng thay cho lời bình hoặc thuyết minh. Mặt khác, nó cũng có thể giúp người khiếm thính đọc được và hiểu nội dung phim. Yêu cầu chung của phần phụ đề là phải ngắn gọn, súc tích và đầy đủ những thông tin cần thiết. Nếu không, nó sẽ choán hết cả chỗ trên màn ảnh, và người xem chưa kịp đọc hết thì đã sang cảnh khác mất rồi. Phụ đề cũng cho biết nguồn gốc, xuất xứ của tư liệu trong các trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo tính khách quan, chân thực, tránh sự hiểu lầm hoặc suy diễn, v.v. Phần này thường luôn luôn đi cùng hình ảnh và chỉ được đưa vào sau khi phim đã hoàn thành.

Lời bạt (hoặc vĩ thanh) được dùng trong khá nhiều phim tài liệu với mục đích kết thúc trọn vẹn một vấn đề; thể hiện thái độ, mong muốn của tác giả hoặc nhân vật; tạo ra sự liên tưởng cần thiết nào đó; làm rõ thêm những ý mà các biện pháp khác không thể hiện hết được. Trong một số trường hợp, có thể chỉ đơn giản là vì tác giả không muốn trình bày một nội dung nào đó bằng hình ảnh. Lời bạt thường được trình bày dưới dạng màn chữ, lời của nhân vật hoặc tác giả và đôi khi, là cả lời bình. Hơi khó sử dụng, nhưng nếu thành công, sẽ đem lại hiệu quả rất mạnh và sâu cho khán giả. Phần màn chữ thể hiện nội dung trích dẫn lời của Mác trong bộ phim Chuyện tử tế của Trần Văn Thủy chính là một ví dụ cho “lời bạt” kiểu này.

(còn nữa)

No comments:

Post a Comment