Sunday, August 30, 2020

Ấn Độ: Từ hôm qua đến ngày mai (13)

DI SẢN KHOA HỌC

Vishwanath S. Naravane

Từ lâu, người ta lầm tưởng rằng: những khuynh hướng duy tâm - thậm chí thần bí - của tư tưởng Ấn Độ hẳn phải cản trở việc quan sát và nghiên cứu tự nhiên 1 cách khách quan. Thế nhưng, chính môn siêu hình học quả quyết rằng: chỉ có Thượng Đế vô biên là thực tại tuyệt đối lại có thể chấp nhận cả thực tại tương đối của thế giới vật chất theo quan điểm thực tiễn và thực nghiệm.

Người Ấn Độ xưa nay cho rằng: mọi vật trong vũ trụ đều có 1 ý nghĩa nhất định nào đó, và vì thế phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Trong những năm gần đây, sự cống hiến của Ấn Độ vào các ngành khoa học thực chứng như cơ khí, luyện kim, hóa chất, và nhất là toán học, thiên văn học và y học, đã được thừa nhận rộng rãi. Một số người còn một mực ca ngợi cái "trí thức cổ xưa" mà họ coi là đã chứa đựng dưới dạng phôi thai hầu hết các phát kiến của khoa học hiện đại. Nhưng rồi người ta đã dần dần có 1 sự đánh giá đúng mực hơn.

Môn toán học ở Ấn Độ đã có từ thời kinh Veda, khi mà việc xây dựng các đài tế lễ đòi hỏi những sự tính toán chính xác. Người tên tuổi nhất trong môn toán họcẤn Độ là Aryabhatta (cuối thế kỷ thứ 5 sau CN). Ông đã hoàn thiện hệ thập phân mà những người đi trước ông đã đề xuất. Những nhà toán học lỗi lạc khác là Brahmagupta (thế kỷ thứ 7), Mahavira (thế kỷ thứ 9) và Bhaskara (thế kỷ 12). Những người này đã thấu hiểu ý nghĩa của các lượng dương và lượng âm, giải được nhiều phương trình phức và xác lập được các phương pháp khai căn bậc 2 và bậc 3. Họ đã nghiên cứu rất sâu các thuộc tính của số không (shunya) và vô cực. Bhaskara đã chứng minh về mặt toán học rằng vô cực, dẫu có bị chia nhỏ đến đâu, vẫn là vô cực - điều đã được thừa nhận trên bình diện siêu hình ngay ở thế kỷ thứ 6 trước CN trong các tập kinh Upanishad.

Tượng Aryabhatta trong khuôn viên ĐH Thiên văn & Vật lý Thiên văn (IUCAA), Pune

Người Arập thường được coi là đã học của người Ấn Độ hệ thập phân dùng số không (0) và truyền lại cho các nhà khoa học châu Âu. Như vậy là Ấn Độ đã gián tiếp cung cấp nền tảng của toán học, 1 công cụ mà thiếu nó sẽ ko thể ra đời nhiều phát minh khoa học và kỹ thuật quan trọng ở phương Tây.
Cả trong lĩnh vực thiên văn học, Arybhatta cũng lại là 1 thiên tài có nhiều công lao khai phá. Ông đã xác định được độ dài thời gian của năm dương lịch là 365,3596805 ngày, 1 trị số khá sát với những tính toán ngày nay. Ông quả quyết rằng Trái Đất quay quanh trục của nó và chuyển động xung quanh Mặt Trời, 1 quan điểm mà vì nó 1.000 năm sau Galileo đã bị nhà thờ Thiên Chúa giáo kết tội. Một nhà thiên văn vĩ đại khác là Varahamihira, người đồng thời với Aryabhatta. Varahamihira rất am hiểu và sử dụng nhiều khái niệm của thiên văn học La Mã và Hy Lạp, trong đó có các cung của hoàng đạo. Các nhà thiên văn Ấn Độ đã miêu tả các phân điểm, dự báo các hiện tượng thiên thực và tính toán chính xác tới mức đáng kinh ngạc sự chuyển động của các hành tinh mà ko dùng đến kính thiên văn. 

Nếu như thiên văn học và toán học phát triển kết hợp với nhau thì những tiến bộ trong y học sẽ ko thể diễn ra nếu ko có những thành tựu trong hóa học và sinh vật. Ayurveda (Khoa Trường sinh) có từ thời kinh Veda. Các trước tác của Charaka (thế kỷ thứ 1 trước CN) và Suchruta (thế kỷ thứ 4 sau CN) đã đề cập tới hầu hết các khía cạnh của các khoa chẩn đoán và điều trị; Nghiên cứu tỉ mỉ các thuộc tính của các loài dược thảo, khoáng vật và muối, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ko khí và nước trong lành; xây dựng những nguyên tắc đạo đức trong nghề y; phát triển các dụng cụ và kỹ thuật mổ xẻ. Yoga với tác dụng trị liệu quan trọng đã cung cấp những kiến thức quý báu về hô hấp, tuần hoàn máu, hệ thần kinh và các hiệu ứng sinh lý của các trạng thái xúc cảm và thần bí.

Y học Ấn Độ được xây dựng trên các khái niệm dosha (các thể dịch) và guna (các thành tố của tự nhiên). Sự cân bằng giữa 3 dosha (hơi thở, máu và nước bọt) là điều kiện cần thiết để con người khỏe mạnh. Các guna cũng có 3 loại cơ bản: sattva (thanh khiết), rajas (dục vọng) và tamas (vô cảm). Ở người khỏe mạnh thì sattva phải áp đảo 2 yếu tố kia. Vai trò của thầy thuốc là dùng chế độ ăn uống, việc luyện tập thân thể và thuốc men để đạt tới trạng thái đó.

Thầy thuốc luôn luôn là người có uy tín trong xh Ấn Độ. Các guru, tức các lãnh tụ tinh thần, cũng đóng vai trò chữa bệnh. Quan niệm coi mọi sự sống đều là thiêng liêng đã khuyến khích sự phát triển của môn thú y. Đã có nhiều chuyên luận về cách chữa bệnh cho ngựa, voi và các loài chim muông khác

Đài thiên văn Jantar Mantar ở Jaipur, Rajasthan. Đài này do vua Sawai Jai Singh II đồng thời là 1 nhà thiên văn xây dựng vào đầu thế kỷ 18

No comments:

Post a Comment