Friday, October 9, 2015

Vài ghi nhận (2)

NGHÈO ĐÓI BIẾNG LƯỜI BẾ TẮC HƯ HỎNG

Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật thích viết rằng những người làm tranh Đông Hồ chỉ là những người nông dân lúc rỗi rãi thì vẽ thêm tranh. Trong thực tế thì không hẳn vậy. Nghề làm ruộng ở Đông Hồ đã mất từ lâu, làng có ruộng nhưng toàn nhờ người các làng khác cấy gặt .
Thế tại sao giới nghiên cứu nghệ thuật cứ viết khơi khơi như vậy? Mục đích của họ cốt cho người ta thấy nghệ thuật ở VN “gắn liền với đời sống“.
Có biết đâu làm thế chỉ là một cách tốt nhất để phô ra một sự thật: trong xã hội VN, người ta sống và làm việc thiếu chuyên nghiệp.
Kỹ thuật cổ lỗ. Sự phân công lao động được chăng hay chớ. Tình trạng của nghề làm tranh cũng là tình trạng của nghề dệt, nghề đúc đồng, nghề làm muối, nghề làm đồ gốm, cả nghề làm ruộng…
Chỗ nào người ta cũng thấy sự ngưng trệ. Năng suất thấp. Con người uể oải. Con người nhởn nhơ dông dài ngay trong sự chăm chỉ của mình.
“Cối xay tre, nặng nề quay, từ ngàn đời nay, xay nắm thóc“.
Trong lời thuyết minh viết cho phim "Cây tre Việt Nam" (1955), Thép Mới từng viết một câu văn xuôi mang đầy chất thơ để hằn sâu vào tâm trí của nhiều thế hệ học sinh tiểu học chúng tôi như vậy.
Vào những năm năm mươi của thế kỷ trước, nó gợi một cảm giác về sự nhẫn nại bất khuất kiên cường.
Nhưng sang đến thế kỷ XXI này, đọc lại, thấy dấu hiệu của một cuộc sống ù lì tăm tối.


ẢO TƯỞNG MỘT ĐẰNG SỰ THẬT MỘT NẺO

Không phải dân Việt xưa nay không hiểu đói nghèo dễ dẫn đến hư hỏng. Người ta tự nhủ "Đói cho sạch rách cho thơm".
Ảo tưởng thật. Mà nhắc lại mãi nghe như có lý.
Song khi người ta quá nghèo thì khó lòng giữ được sự tử tế.
Mạnh tử từng nói, có hằng sản mới hằng tâm.
Người châu Âu cũng hiểu thế.
Trong cuốn "Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài" 1688, (bản của NXB Thế giới, 2006), một nhà thám hiểm người Anh là W.Dampier ghi lại một số nhận xét có liên quan đến các hạng người ở đô thị VN thế kỷ XVII.
Đây là tầng lớp trên và bộ sậu của họ: “Những kẻ quyền quý thì tỏ ra kiêu căng, hách dịch và tham lam trong khi đám lính tráng thì hỗn xược.”
Đây là những kẻ dưới đáy: “Cư dân lớp dưới lại hay trộm cắp làm cho nhà buôn và những người đến giao dịch ở đây bắt buộc phải canh gác cẩn thận về đêm“.
Theo W. Dampier, sự hư hỏng của con người bắt đầu bằng sự kém cỏi trong điều kiện sống mà người ta không cách gì thay đổi.
Nhà cửa người Việt ngay ở Kẻ Chợ, tức thủ đô, được tác giả mô tả là quá đơn sơ tầm thường. Nhà nhỏ và thấp. Mấy tấm phên che dột nát tạm bợ. Bên trong chia làm nhiều gian, mỗi gian có những cửa sổ để lấy ánh sáng thực chất là những lỗ đục xấu xí.
Theo lái buôn người Anh, nhà cửa như vậy thường làm mồi cho bọn người trộm cắp. Chúng có thể dễ dàng thực hiện mưu đồ đào tường khoét ngách.

SỰ CHĂM CHỈ BẤT ĐẮC DĨ

Trải qua trường kỳ lịch sử sự thấp kém về trình độ sản xuất đã để lại một dấu ấn kỳ lạ trong tính cách người Việt.
Đã xảy ra một tình trạng nước đôi. Người ta vừa yếu đuối vừa cứng cỏi, vừa chăm vừa lười, tốt đấy mà cũng xấu ngay đấy.
Rất phổ biến là cái công thức một chiều: người Việt khá chăm chỉ năng động.
Do có cái nhìn của con người biết rộng ra cả thế giới, Nguyễn Văn Vĩnh tỏ ra tinh nhạy hơn người khi nêu cùng lúc cái tình trạng nước đôi ấy: người Việt vừa cần cù, vừa cho người ta cảm thấy họ coi lao động là bất đắc dĩ, chẳng qua không có cách nào khác nên phải chân lấm tay bùn vậy.
“Nói tổng lại, trong nước Nam ta, cần mẫn nhất chỉ có người làm ruộng, nhưng mà sự cần mẫn ấy, nhà làm ruộng không biết lấy làm vinh hạnh. Tay cầm cây mạ, mà mắt vẫn trong bọn dài lưng tốn vải, lúc nào quăng được cái cày có ích mà cầm lấy cái bút lông thỏ vẽ hươu vẽ vượn tả cảnh trên trờ dưới biển, thì cũng quăng đi ngay.”
Trong mục Xét tật mình, người chủ trì Đông dương tạp chí đã làm cái việc mà sau ông chưa ai dám làm là bóc mẽ cái gọi là tính siêng năng của bộ phận chủ yếu trong cộng đồng như vậy.

DÙ THÓI LƯỜI ĐƯỢC SOI XÉT KỸ LƯỠNG ...

Cái nghèo kéo theo nhiều cái xấu khác.
Nhiều nhân vật trong những truyện cười dân gian là những chàng lười. Ca dao hóm hỉnh dựng lại một chân dung, rất sẵn trong nông thôn VN thời trung đại:
Con cò đậu cọc cầu ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng
Chú tôi tốt tóc đen răng
Hay ăn làm biếng hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ngóng những ngày mưa
Đêm thì ngóng những đêm thừa trống canh.
Xưa các tài liệu tuyên truyền và cả sách giáo khoa trong các nhà trường Hà Nội sau 1954 thường bảo những câu ca dao trên là để nói về bọn người giầu có. Có biết đâu đó cũng là để nói về lớp cùng đinh trong xã hội. "Giàu tham việc thất nghiệp tham ăn."
Mở rộng ra là để nói về người Việt nói chung.
Nhìn vào sách vở, người ta cũng bắt gặp các ý tương tự
Trong cuốn "Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài" in ở Paris 1778 ( Trích từ Tư liệu văn hiến Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây NXB Hà Nội 2010, nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ chủ trì) giáo sĩ Jerome Richard cho biết.
(…) Nghèo khổ quá khiến người ta chỉ nghĩ đến sinh tồn tức là phó mặc mình cho sự biếng nhác bẩm sinh. Bộ máy hành chính sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ máy này ngu dốt và kiêu căng, nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo tay hơn họ và giàu hơn như nô lệ."

...SONG SỰ HƯ HỎNG VẪN LÀ HẬU QUẢ TẤT YẾU

Nghèo đói quá lâu, lại do thiếu sự mở đường của trí tuệ, nên nhiều Việt cảm thấy đó là cả một định mệnh.
Thấy của thiên hạ cái gì cũng hơn mình. Bất lực. Cay đắng. Chán chường. Một niềm tự ti nằm rất sâu trong tâm lý, mang lại nhiều biến thái kỳ quặc.
Lo học nhưng chỉ học mót học lỏm.
Sợ người ta coi thường nên phải tìm cách nhấn mạnh cái riêng, và nhắc đi nhắc lại rằng mình chẳng kém gì mọi người.
Sống gồng lên ra vẻ thế nọ thế kia, sẵn sàng giả dối cốt sao khỏi bị mất mặt.
Xã hội thiếu đi sự năng động tìm tòi. Của chìm chủa nổi đầy rẫy chung quanh mà không biết khai thác.
Nhà nho xưa nhiều người kiêm cả thầy lang. Trong một lần so sánh văn hóa Trung quốc và VN, nhà nghiên cứu Phan Ngọc nhắc lại cái ý mà nhiều thế hệ nho sĩ truyền miệng với nhau. Đó là một nhận xét của người Tầu: người Việt sống trên cả đống nguyên liệu dùng làm cây thuốc nhưng vẫn chết vì thiếu thuốc.
W.Dampier, trong cuốn sách nói trên, còn ghi nhận một điều mà sau này các nhà nghiên cứu văn hóa VN từ Phan Kế Bính Đào Duy Anh tới Nguyễn Văn Huyên, Lương Đức Thiệp … đều chia sẻ, là thói máu mê cờ bạc quá nặng của người Việt. Khi rỗi rãi người ta lao đầu vào cuộc đỏ đen một phần là vì bế tắc trong cuộc sống.
Toan tính duy nhất ở đây là ngẫu nhiên tìm được một cơ may giữa cảnh đời tuyệt vọng.

Vương Trí Nhàn

No comments:

Post a Comment