(tiếp theo)
Thật là vui mỗi khi được gặp những người bạn ảo, dù kết bạn FB cả chục năm mới biết mặt nhau. Trong một lần cà phê ở Hà Nội với những người bạn mới, gã Thắng hói Thang Hoi Bui Minh nói. "Châu Âu sạch sẽ, ngăn nắp, văn minh, nhưng em chỉ thích sống ở Việt Nam, dù nó bát nháo, ồn ào". Cả Lao Ta, Vuong Tien Le Le đều khẳng định điều đó. Đã yêu thì yêu cả mùi mồ hôi của vợ, mùi dầu mỡ của chồng là vậy.
Vào Sài Gòn tôi được làm quen với các nhà báo Phạm Công Luận và Nhượng Nguyễn Khắc nên biết được khối điều mới lạ. Phạm Công Luận đã giúp tôi tìm ra tòa nhà 87D Phạm Kế Xương là nơi mà phái đoàn Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam và phái đoàn quân sự Ba-Lan đã đóng ở Sài Gòn từ 1955-1958. Tôi đang tìm hiểu những góc khuất của cuộc chiến tranh VN mà sẽ được công bố ở một bài viết khác, trong đó tòa nhà 87D Trần Kế Xương là một phát hiện quan trọng. Gặp anh Nhượng tôi thấy được tâm huyết, lương tâm của một nhà báo sống trong nền kiểm duyệt ngặt nghèo hàng đầu thế giới này.
Những người bạn mới này vừa sống trong nước, vừa có cái nhìn tỉnh táo nên khác tôi về cách đánh giá thực trạng đất nước. Đó là cái được khi làm quen với họ.
Cái được khác khi gặp lại đồng nghiệp cũ, bạn học cũ, chính là đưa tôi sống trở lại với ký ức.
Tháng 5 vừa rồi tôi rủ các bạn học ở Bình Đà đến thăm thầy Nguyễn Văn Hậu. Có năm bạn hưởng ứng và chúng tôi thuê xe đi. Thầy Nguyễn Hậu dạy Vật lý kiêm chủ nhiệm lớp 8C của chúng tôi năm học 1966-1967. Tôi không phải là học sinh giỏi, nhưng nay thiết kế và chế tạo được mạch điện tử chắc cũng nhờ có chút kiến thức vật lý. Tháng 4.1967 tôi xin thôi học để sang CHDC Đức học nghề kỹ thuật truyền hình. Muốn được đi Đức, bắt buộc phải là Đoàn viên và tối thiểu học hết lớp 8. Còn hơn 6 tuần nữa mới kết thúc năm học, xong các bài kiểm tra cuối năm thì mới có điểm học bạ. Ba tôi nhờ thầy Hồng, hiệu trưởng, giới thiệu với thầy Hậu. Thầy Hậu bàn với các thầy cô khác dựa theo học lực và kết quả các bài làm trong năm cho tôi điểm các môn, đủ để có quyển học bạ hết lớp 8. Thế là cậu đoàn viên trẻ có đủ hai cái thẻ "Hồng và Chuyên" để đi tây. Tôi không quên việc đó nhưng mấy lần về nước trước đây cập rập quá chưa thăm thầy được.
Thầy Hậu năm nay đã 88 tuổi, nhưng vẫn sử dụng điện thoại thông minh để vào mạng đọc bài và nói chuyện với đám trò của thầy. Người già khó ngủ, đêm đêm thầy mở máy hễ thấy trò nào online trên FB-Messenger thì ghé hỏi thăm. Có hôm 8 giờ tối ở Đức (2 giờ sáng ở VN) thầy hỏi.
-Sao em dậy sớm thế?
-Dạ bây giờ mới 8 giờ tối ở Đức ạ.
-Ồ, vậy à? Thầy già đâm ra lẩm cẩm. Hôm rồi em có đi bầu cử ở Đức không?
Đại loại như vậy. Tôi hiểu đó là nỗi buồn của ông cụ cô đơn (vợ thầy đã mất từ lâu), chẳng có gì ảnh hưởng đến miền riêng tư. Tôi luôn vui vẻ trả lời những thắc mắc của thầy, từ chính phủ mới ở Đức đến chiến tranh Ukraina. Lần này biết chúng tôi về thăm, thầy hồi hộp cả mấy ngày. Hôm nào cũng nhắc: "Các em đến nhé. Thầy gần 90 rồi". Trên đường xe chạy từ Hà Nội lên Ba Vì, mấy lần thầy gọi điện hỏi: "Em đi đến đâu rồi?".
Thôn Nhuận Trạch cách Hà Nội gần 70km, giờ đây không còn mang chút dấu tích gì của miền quê Bắc Bộ mà tôi từng nhớ đến. Không còn bóng tre phủ mái nhà tranh, chỉ thấy nhà 3-4 tầng che các vườn cây. Đường làng trải nhựa, có đèn điện, chạy thẳng đến nhà thầy. Sau cánh cổng sắt rộng 5m là một cái sân có thể chứa 4-5 xe ô tô. Một chiếc xe bus 30 chỗ và 1 xe Toyota 7 chỗ đang đỗ ở đấy. Hai con trai thầy sắm xe để chở khách du lịch. Hôm nay biết các anh chị về thăm bố, các em nghỉ ở nhà đón khách. Nhà thầy vẫn xây theo truyền thống nhà ngang 3 gian, nhưng là hai tầng bê tông, có lắp điều hòa nhiệt độ. Đó là cơ ngơi các con thầy đã tạo dựng bằng sức lao động sau khi trải qua thời bộ đội.
Thầy Hậu mừng lắm, nắm tay chào từng đứa học trò cũ. Thầy ôm chặt vai tôi, cười rưng rưng. Rồi thầy rút quyển "Hai Quê Hương" từ dưới gầm bàn ra, nói: "Thầy đọc em và thấm lắm". Tôi không hề viết về thầy trong sách, nhưng thầy thấm cái tình con người trong những năm chiến tranh đói khổ. Thời đó chúng tôi đói lắm. Tuổi dậy thì ăn uống thiếu chất, cái gì cũng thèm. Trong lớp chỉ có hai bạn Mai và Khánh ở trại trẻ của quân đội gần làng nên được cung cấp thực phẩm tốt hơn. Tôi tưởng các thầy cô có lương bổng chăc ăn uống no đủ hơn.
Nhưng thầy Hậu kể là lương thầy cũng chẳng có bao nhiêu, thầy ăn uống rất tằn tiện để gửi tiền về quê cho cô. Từ Bình Đà (Thanh Oai) đến nhà thầy chỉ khoảng 70km, nhưng không có đường xe. Đến cái xe đạp thầy cũng không có nên phải đi bộ 10km về Hà Đông, bắt tầu điện về Hà Nội. Từ đó đi xe bus lên Trung Hà. Ngày chỉ có 4 chuyển bus, nhỡ là chờ ê ẩm. Mỗi lần về quê thầy đều đi từ sáng sớm đến tối mịt mới về đến nhà, cả đi và về mất hai ngày đường. Với chế độ làm việc sáu ngày/tuần thầy chỉ biết dành dụm tiền, quà bánh để hàng năm đến kỳ nghỉ hè hoặc nghỉ tết mang về cho vợ con.
Ngày đó không thể nhắn tin, điện tín thì đắt vô cùng, chỉ dành cho việc khẩn cấp. Vợ thầy hàng năm chỉ chờ mùa hoa phượng hay hoa đào mà bấm ngày đợi chồng về. Người phụ nữ nông thôn, không chỉ vợ lính, mà cả vợ cán bộ đi làm xa, lâu lâu mới được hưởng những ngày hạnh phúc ngắn ngủi. Hết năm học 1980 thầy xin bà Nghiêm Trưởng Châu, giám đốc sở giáo dục Hà Nội cho chuyển về trường cấp 3 Ngô Quyền (Ba Vì) ở gần nhà. Bà Châu hỏi:
No comments:
Post a Comment