3. Hồ Chí Minh tái hòa nhập với Moscow và phe xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nào?
Do đánh giá sai tình hình, Pháp muốn đánh nhanh, thắng nhanh vào lúc lực lượng vũ trang của Việt Nam vừa thành lập, số lượng nhỏ, trang bị kém, khó có thể chống lại một quân đội nhà nghề được trang bị tối tân như quân đội Pháp, giỏi lắm cũng chỉ tồn tại được trong vài ba tuần lễ! Họ ra sức khiêu khích, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu đối với đồng bào ta ở nhiều nơi, buộc ta phải chống lại. Chiến tranh đã nổ ra. Để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ thành phố, rút về nông thôn, lên miền núi, xây dựng căn cứ địa, thực hiện phương châm “kháng chiến trường kỳ”.
Thu-Đông 1947, ta bẻ gãy được cuộc tiến công 2 gọng kìm của Pháp lên chiến khu Việt Bắc, địch tổn thất nặng nề, nhưng suýt nữa, quân nhảy dù của họ bắt được cơ quan đầu não của ta! Nếu họ đủ sức mở tiếp cuộc tiến công thứ 2, liên minh được với Tưởng, thực hiện dưới đánh lên, trên đánh xuống, thì cuộc kháng chiến của quân dân ta có nguy cơ bị dập tắt hoàn toàn! Bởi lấy gì mà chống lại, khi số vũ khí, đạn dược ít ỏi ta lấy được của Nhật, mua lại của Tầu, đã được dùng hết! Ta lại đang trong thế bị bao vây tứ bề, thoát ra bằng cách nào? Tình hình đó buộc Cụ Hồ phải tìm cách cầu hòa với Chính phủ Tưởng Giới Thạch, nếu không được giúp đỡ thì cũng phải trung lập hóa vai trò của họ. Một phái đoàn được cử sang Nam Kinh, với lễ vật hậu hĩnh, để thuyết phục Tưởng tuân theo tôn chỉ “phù nhược, ức cường” của Tôn Trung Sơn, ủng hộ các dân tộc nhược tiểu đang đấu tranh chống các cường quốc thực dân, giành lại độc lập dân tộc.
Chuyến đi chưa được giải mã, chỉ biết rằng sau đó tình hình quốc tế có những chuyển biến rất nhanh chóng: Giải phóng quân Trung Quốc “thần tốc Nam hạ”, buộc quân Tưởng phải bỏ chạy ra Đài Loan; tháng 10-1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, rồi nước CHDC Đức cũng ra đời, hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ Tây sang Đông.
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc khiến cho Mỹ lo ngại: nếu Pháp thất bại ở Đông Dương, dưới ảnh hưởng của Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á có khả năng ngả theo con đường cộng sản hóa, Mỹ thấy đã đến lúc phải can thiệp vào Đông Dương. Một mình ta đánh nhau với Pháp đã khó, nay lại có thêm sự can thiệp của Mỹ, ta sẽ đối phó thế nào, phải hành xử ra sao?
Nhẫn nại, kiên trì hòa hoãn mãi với phương Tây mà không thành, để thoát khỏi nguy cơ xấu nhất, Hồ Chí Minh chỉ còn một con đường duy nhất: bắt mối quan hệ với Đảng CS Trung Quốc, thông qua họ để nối lại quan hệ với Kremli, tái hòa nhập phong trào cộng sản quốc tế.
Mao hưởng ứng ngay, vì phù hợp với ý đồ của họ: cần có một “phên dậu” ở phía Nam, giúp Trung Quốc tránh phải đụng độ trực tiếp với đế quốc – điều kiện cần để họ tập trung vào xây dựng và phát triển trong hòa bình.
Song việc thuyết phục Staline đồng tình lại không đơn giản. Thứ nhất, Việt Nam là một nước nhỏ, lại ở quá xa Liên Xô, chưa có vai trò gì trong chiến lược đối ngoại của Liên Xô lúc bấy giờ. Hai là, Việt Nam vốn là thuộc địa cũ của Pháp, mà Pháp hiện đang là đối tác chiến lược Liên Xô cần tranh thủ ở Tây Âu, hai nước đã ký với nhau Hiệp định hợp tác, bất tương xâm Pháp-Xô (1944-1964) hiện vẫn đang còn giá trị; đối với Staline, Việt Nam không quan trọng bằng Pháp. Ba là, bản thân Staline vốn từ trước đã không mấy tin tưởng vào Hồ Chí Minh; nay theo báo cáo của KGB thì Hồ Chí Minh có vẻ như đang muốn ve vãn phương Tây, nhất là qua hai bức thư của Trần Ngọc Danh (em trai Trần Phú) gửi Staline, phê phán Hồ Chí Minh đang đi theo con đường của chủ nghĩa dân tộc tư sản, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản và học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác,…Vì vậy, ban đầu Staline đã từ chối không nhận tiếp Hồ Chí Minh. Sau nhờ sự kiên trì thuyết phục của Mao và Chu, Staline đồng ý tiếp, nhưng không công khai, mà tiếp trong phòng làm việc riêng của mình, với sự có mặt hạn chế của vài nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Chính phủ Liên Xô.
Trong cuộc tiếp, Staline đã thẳng thắn phê bình Hồ Chí Minh ba điều: vấn đề tự ý giải tán Đảng, vấn đề thành phần Chính phủ (lắm nhân sĩ, trí thức, quan lại cũ, …ý nói không phải chính quyền công nông), việc không chịu tiến hành cải cách ruộng đất. Sau đó, yêu cầu Hồ Chí Minh phải viết một bài tự phê bình về các vấn đề trên, để đăng trên tờ báo của Cục thông tin Quốc tế Cộng sản (Kominform) “Vì một nền hòa bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân”. Còn vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, Staline phân công cho Trung Quốc đảm nhiệm, vì ở ngay sát Việt Nam, đồng thời nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Rõ ràng là Liên Xô không muốn công khai dính líu đến vấn đề Việt Nam ở thời điểm nhạy cảm này.
Dù chỉ được đón tiếp lạnh nhạt, chuyến đi của Hồ Chí Minh đến Liên Xô đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi thế cô lập, tái hòa nhập với phong trào CSQT, mở ra hậu phương lớn, nhờ đó đưa cuộc kháng chiến của ta đi đến thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Nhưng cũng từ đây sẽ phát sinh những hệ lụy phức tạp mà Hồ Chí Minh phải gánh chịu về sau này. Sự viện trợ về quân sự và kinh tế đi liền với những áp đặt về quan điểm chính trị, về cơ chế, tổ chức,…theo mô hình của Trung Quốc. Từ đây, Hồ Chí Minh rất khó có thể giữ được hoàn toàn độc lập, tự chủ như ở giai đoạn trước.
Mặc dù có sự thúc ép rất mạnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh vẫn nấn ná, trì hoãn trong thực hiện các chỉ thị của Staline. Phải sang đầu năm 1951, ông mới tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ II, đưa Đảng CS ra công khai, nhưng đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam; năm 1953 mới phát động quần chúng thực hiện giảm tô, năm 1954 mới thí điểm cải cách ruộng đất ở một vài vùng trung du; sau hòa bình 1955-56 mới triển khai rộng rãi trên toàn miền Bắc. Đặc biệt, họ đòi ta phải cải tổ quân đội, đặt ra hệ thống chính ủy, ép ta phải thay thế những tướng tá, cán bộ chỉ huy các cấp có nguồn gốc xuất thân trí thức, tiểu tư sản bằng những cán bộ gốc gác công nông! (thực ra là muốn tạo ra một đội ngũ tướng tá mới để dễ bề thao túng hơn). Vị tướng phụ trách Tổng cục cán bộ đã trình lên Hồ Chí Minh một danh sách hàng trăm người phải thay thế, trong đó có cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp! Song Cụ Hồ đã kiên quyết phản đối: “Gạt ra một lúc từng này người, lấy ai mà chỉ huy? Phải đốt ngay danh sách đó đi!”. Nhưng rồi có điều Cụ cũng phải nhượng bộ, chấp nhận đề bạt thêm một đại tướng xuất thân công nông, phụ trách chính trị để cân bằng với Võ Nguyên Giáp! (mà theo lý thuyết của Mao thì chính trị vẫn cao hơn quân sự).
Dưới sức ép của các cố vấn Trung Quốc, hàng loạt sai lầm tả khuynh đã diễn ra sau đó, đau đớn nhất là sai lầm trong cải cách ruộng đất; là không khí đấu tố căng thẳng trong chỉnh huấn, chỉnh quân, có người đã phát điên, có người phải tự vẫn! Nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, xuất thân gia đình lớp trên, lo sợ, đã từ bỏ kháng chiến về thành. Sau Hiệp định Giơ-ne 1954, hàng chục vạn đồng bào đã bỏ quê hương di cư vào Nam. Cụ Hồ rất đau đớn trước những tổn thất đó, Người đã phải khóc, nhận lỗi trước Quốc hội và thực tâm Cụ muốn điều chỉnh lại chính sách. Nhưng phía Trung Quốc đã có phản ứng tiêu cực. Chu Ân Lai từng phát biểu thẳng với ta (đại ý): Thắng lợi trong cải cách là cơ bản, còn oan sai-dù có lên tới ngàn vụ- nếu so với cải cách ruộng đất ở Trung Quốc liệu có thấm thá gì mà phải làm ầm ỹ đến như thế! Lưu Thiếu Kỳ thì đã phát biểu trong Hội nghị TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 25-03-1963 rằng: “Hồ Chí Minh xưa nay vẫn là tay hữu khuynh…Sau chiến cuộc 1954, ông ta vẫn còn chần chừ, không dứt khoát chọn chế độ tư bản hay xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta (tức ĐCS Trung Quốc) đã phải quyết định cho ông ta”!.
Một dân tộc nhược tiểu muốn đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, không thể không tranh thủ liên minh, liên kết quốc tế, lợi dụng sức mạnh thời đại để chiến thắng kẻ thù, theo sách lược phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. Mặc dù đã rất khôn khéo điều chỉnh và chấp nhận thỏa hiệp nhất định với thực tế cay nghiệt của hoàn cảnh nhằm đạt được mục tiêu cao cả nhất là độc lập, thống nhất cho dân tộc, song Hồ Chí Minh đã không thể dự kiến hết được mọi diễn biến phức tạp về sau, nên đã phải gánh chịu những điều tiếng nặng nề, nhất là về sau này, khi “người đồng chí quốc tế vô sản” đã hiện nguyên hình là “kẻ thù xâm lược bành trướng Đại Hán”!
Nhưng không thể vì những éo le đó của lịch sử, mà đi đến quy kết những nhân nhượng của Cụ Hồ khi phải ký Hiệp định sơ bộ 6-3 là hữu khuynh; không thể coi việc từng bước phải chấp nhận những áp đặt đường lối của Mao sau 1950, là đã rơi vào “tả” khuynh; cũng như không thể cho là đã mắc sai lầm khi phải chấp nhận ký vào bản Hiệp định Genève 1954 mà kết quả của nó không phản ánh đúng tương quan lực lượng trên chiến trường, …Đơn giản vì xưa nay một nước nhỏ, trong thế phụ thuộc vào những nước lớn, khó có thể tự quyết định được số phận của mình. Đó là những ràng buộc khắc nghiệt của hoàn cảnh mà Hồ Chí Minh và Đảng CS Việt Nam đã không thể vượt qua. Chân lý “không gì quý hơn độc lập, tự do” được Cụ đúc kết từ những trải nghiệm qua nhiều mối quan hệ, trong đó có cả quan hệ với ông bạn “vàng” từng được coi “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Cảm quan về nỗi “cay đắng” này từ sớm đã được Cụ viết ra thành thơ:
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ,
Để người ta dắt tựa trâu bò.
(“Nhật ký trong tù”)
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi việc, mỗi lời không tự chủ,
Để người ta dắt tựa trâu bò.
(“Nhật ký trong tù”)
Về "Nhật ký trong tù", hiện nay cũng là 1 nghi vấn trong sự nghiệp của Hồ Chủ tịch, nhưng nên gác lại ko lan man thêm nữa. Bài thơ kết cho phần này nếu CỤ viết sau này (những năm 60) thì cái ý của tác giả sẽ rõ hơn về tên hàng xóm tráo trở.
ReplyDelete