Tuesday, June 17, 2014

Hoàng Tử Bé - Kis Herceg (2)

(trở lại Phần mở đầu ở đây)
1.
Hatéves koromban egy könyvben, mely az őserdőről szólt, és Igaz Történetek volt a címe, láttam egy nagyszerű képet. Óriáskígyót ábrázolt, amint egy vadállatot nyel el. Tessék, itt a rajz másolata.

Thuở tôi lên sáu tuổi, trong một cuốn sách viết về rừng cổ đại nhan đề là " Những chuyện có thật", tôi thấy một bức tranh thật tuyệt. Bức tranh đó vẽ một con trăn đang nuốt một con thú rừng. Và đây là bản sao chép lại của hình vẽ đó.


A könyvben ez állt: „Az óriáskígyó egészben, rágás nélkül nyeli le zsákmányát. Utána moccanni sem bír, és az emésztés hat hónapját végigalussza.” Akkoriban sokat tűnődtem a dzsungelek kalandjain, és egy színes ceruzával nekem is sikerült megrajzolnom első rajzomat. Az 1. számút. Ilyesformán:

Trong cuốn sách đó viết: "Con trăn nuốt chửng con mồi, không cần nhai gì cả. Sau đó, nó không thể cựa quậy gì được nữa, nên ngủ suốt sáu tháng trời để tiêu hóa cho hết". Từ đó, tôi đã suy ngẫm rất nhiều về những chuyến phiêu lưu tới những khu rừng thẳm, và với một cây bút chì màu tôi đã vẽ được bức tranh đầu tiên của tôi. Bức tranh số 1. Nó như thế này:


Remekművemet megmutattam a fölnőtteknek, és megkérdeztem őket, nem félnek-e tőle.
      - Miért kellene félni egy kalaptól? - válaszolták.
Az én rajzom azonban nem kalapot ábrázolt. Óriáskígyót ábrázolt, amint épp egy elefántot emészt. Erre lerajzoltam az óriáskígyót belülről is, hogy a fölnőttek megérthessék, miről van szó. Mert nekik mindig mindent meg kell magyarázni. Ez a 2. számú rajz ilyesforma volt:

Tôi đã đưa cho những người lớn xem kiệt tác của mình, và hỏi họ có khiếp sợ bức họa này không.
       - Tại sao lại phải sợ hãi một cái mũ? - họ đáp.
Bức tranh của tôi không hề vẽ một cái mũ. Nó vẽ một con trăn đang nằm tiêu hóa một con voi. Tôi bèn vẽ cả bên trong cái bụng con trăn, cốt để cho những người lớn có thể hiểu được. Vì họ bao giờ cũng cần được giảng giải mọi sự. Bức tranh số 2. nó như thế này:
     Most aztán a fölnőttek azt ajánlották, ne rajzoljak többé óriáskígyót se nyitva, se csukva, hanem inkább foglalkozzam földrajzzal, történelemmel, számtannal és nyelvtannal. Így mondtam le hatéves koromban nagyszerű festői pályafutásomról. Kedvemet szegte 1. és 2. számú rajzom kudarca. A nagyok semmit sem értenek meg maguktól, a gyerekek pedig belefáradnak, hogy örökös-örökké magyarázgassanak nekik.
     Más mesterséget kellett választanom tehát: megtanultam repülőgépet vezetni. Nagyjából az egész világot berepültem. És való igaz, hogy közben nagy hasznát vettem a földrajznak. Első pillantásra meg tudtam különböztetni Kínát Arizonától. Ez pedig fölöttébb hasznos dolog, ha éjszaka eltéved az ember.
     Így aztán életem folyamán nagyon sokszor kerültem kapcsolatba komoly emberekkel. Jócskán akadt dolgom a fölnőttekkel. Közvetlen közelből láthattam őket. És nem mondhatnám, hogy ettől jobb lett róluk a véleményem.
     Ha olyannal találkoztam, aki kicsit értelmesebbnek látszott, kipróbáltam rajta 1. számú rajzomat, mert azt mindig magamnál tartottam. Meg akartam tudni, valóban megérti-e a dolgokat. De a válasz mindig így hangzott: „Ez egy kalap.” Erre aztán nem beszéltem neki se óriáskígyókról, se őserdőkről, se csillagokról. Alkalmazkodtam hozzá. Bridzsről beszéltem neki, meg golfról meg politikáról és nyakkendőkről. Az illető fölnőtt pedig nagyon örült neki, hogy ilyen okos emberrel került ismeretségbe.

      Rồi những người lớn đã khuyên tôi gác lại một bên chuyện vẽ trăn với những cái bụng mở hay đóng, tốt hơn là tôi nên chuyên tâm vào địa lý, lịch sử, số học và ngữ pháp. Thế là ngay từ thuở lên sáu, tôi đành bỏ dở một tiền đồ sự nghiệp họa sĩ huy hoàng. Tôi đã chán nản vì sự thất bại của bức tranh số 1. và bức tranh số 2. Những người lớn chẳng bao giờ tự mình hiểu được cái gì cả, và trẻ con thật là mệt nhọc khi cứ phải giải thích đi giải thích lại mãi họ mới hiểu.
     Thế là tôi đành phải chọn một nghề khác: tôi đã học lái máy bay. Tôi đã bay gần như khắp nơi trên Trái Đất. Và quả thật, môn địa lý đã giúp ích tôi nhiều. Tôi chỉ cần thoáng nhìn là phân biệt được Trung Hoa với Arizona. Điều này quá có ích, nếu ta lạc đường giữa ban đêm.
     Và như thế, trong đời tôi, tôi đã từng nhiều lần tiếp xúc với những người nghiêm trang. Tôi đã từng khá nhiều lần có việc với những người lớn. Được thấy họ từ rất gần. Và tôi vẫn không thể nói rằng, những việc đó làm tôi có được nhìn nhận tốt hơn về họ.
     Nếu tôi gặp được một người nào đó, trông có vẻ sáng láng một chút, tôi lại thử người ấy với bức tranh số 1. mà tôi luôn giữ bên mình. Tôi muốn biết anh ta có thật sự hiểu được hay không. Nhưng câu trả lời vẫn luôn là: "Đây là một cái mũ." Sau đó tôi sẽ chẳng nói gì với anh ta về những con trăn, về những khu rừng cổ đại, và về những ngôi sao trời. Tôi phải hạ mình xuống ngang tầm với anh ta. Tôi nói về đánh bài, chơi golf, về chính trị và về các loại cà vạt. Và người lớn nọ lấy làm vui sướng vì được quen biết một người thông minh đến thế.
(xem tiếp ở đây)

2 comments:

  1. Còn tôi xin sửa lại lời đề tặng (bản dịch của chúng tôi), như thế này:

    Thân tặng các bạn của tôi, những bé con 'lâu năm'.

    ReplyDelete
  2. Dựa hoàn toàn vào bản tiếng Hung, mình xin đề xuất một số thay đổi sau:

    1. “Utána moccanni sem bír, és az emésztés hat hónapját végigalussza”. Dịch là “Sau đó, ngay cả cựa quậy cũng không thể, nó ngủ suốt sáu tháng trời để tiêu hóa cho hết".

    Ở đây không phải vì "nó không thể cựa quậy gì được nữa, nên ngủ...".

    2. “Akkoriban sokat tűnődtem…” dịch là “Lúc đó, tôi đã suy ngẫm rất nhiều về… "

    "Akkoriban" là lúc đó, chứ không phải từ đó.

    3. “Óriáskígyót ábrázolt, amint épp egy elefántot emészt” dịch là ““Nó vẽ một con trăn đang tiêu hóa một con voi”.

    Khong cần thiết thêm từ "nằm" vào.

    4. “Most aztán a fölnőttek azt ajánlották, ne rajzoljak többé óriáskígyót” dịch là " “Rồi những người lớn đã khuyên tôi đừng bao giờ vẽ trăn nữa”

    Người lớn khuyên tôi bỏ hẳn vẽ tranh chứ không chỉ gác sang một bên.

    ReplyDelete