Tuesday, June 17, 2014

Moldova Gyorgy-A beszélő disznó- Chú lợn biết nói (1)

A fordító előszava: Nguyen Cao Binh barátom javaslatára elkezdtem folytatni  ezt a régen tervezett vállalkozást. Remélem, hogy tudtok segíteni a fordítás megszépítésére hogy végul ez a Moldova remek muve meg fog jelenni a vietnami nyelven.
Lời người dịch:  Theo đề nghị của anh bạn Nguyễn Cao Bình của tôi, tôi đã bắt đầu tiếp tục công việc đã đặt kế hoạch từ rất lâu này. Hy vọng các bạn sẽ giúp làm cho bản dịch hay hơn  để cuối cùng tác phẩm này của Moldova có thể ra mắt bằng tiếng Việt.     
A beszélő disznó
 Iró: Moldova Gyorgy
Este fél tizenegykor, az utolsó etetés után Kerekes, a Feketetelki Állami Gazdaság sertésgondozója leoltotta a villanyt a IX-es számú ólban, hogy a malacok nyugodtan alhassanak. Még egyszer végigment a csarnoknak is beillő tágas ólon, ellenőrizte a hőmérsékletet, megnézte, van-e elegendő víz az önitató tartályában, mindent rendben talált. Már az ól túlsó végén járt, mikor valaki váratlanul megszólalt mögötte:
    – Józsi, a kurva anyádat!
Kerekest ugyan Lajosnak hívták, mégis visszafordult erre a hangra, azt hitte, hogy valamelyik gondozókollégája berúgott, és ő motyog az ól sarkába húzódva, de akárhogy is figyelt, nem látott senkit. Félig-meddig bizonytalankodva ugyan, de napirendre tért az esemény fölött, úgy magyarázta, hogy talán az ólon kívül káromkodott valaki, vagy az is lehetséges, hogy a füle csengett.
     – Valamelyik nap el kell mennem a doktorhoz, és ki kell mosatnom a fülemet – dünnyögte maga elé.
Kerekes fölemelte az ajtót lezáró keresztvasat, hogy a helyére illessze, mikor újra megszólalt az előbbi magas, reszelős hang:
    – Józsi, a kurva anyádat!
Most már minden kétséget kizáróan meg lehetett állapítani, hogy az ólon belül beszélt valaki, sőt még a hang irányát is meg lehetett határozni: a IV-es ketrec felől érkezett. Ebben a ketrecben azokat a malacokat tartották, akiket az Állami Gazdaság egyéni gazdáktól vásárolt fel, hogy pótolni tudja az elhullást, melyet a legutóbbi brucellózis okozott az állományban.
Kerekes közelebb lépett a IV-es ketrechez. Ezen az éjszakán kilenc malac feküdt a rács mögött különös elrendezésben: nyolc összebújva és olyan felismerhetetlen összevisszaságban, hogy egy gyakorlott hentesnek is gondot okozott volna kiválogatni, melyik fej vagy láb kihez tartozik, a ketrec nagyobbik felét viszont egy elterpeszkedve alvó malac foglalta el. A hatalmaskodó, úgy látszik, kemény harcot vívhatott kivételezett helyzetéért, mert ahogy Kerekes rávilágított a kézilámpájával, vöröslő sebek tűntek fel a fülén, a nyakán csatakos csimbókokba állt össze a véres szőr.
A gondozó a rácsra könyökölve figyelt néhány percig, várta, hogy a hang újra jelentkezzen. Egy ideig csak a tömegben fekvők felhorkanó röfögése hallatszott, mikor valamelyikük fészkelődött, és megzavarta a többiek álmát, majd váratlanul megszólalt a különhúzódó malac is.
    – Józsi, a kurva anyádat!
Kerekes összerázkódott, csak sokára tudta összeszedni magát annyira, hogy még mindig remegő térdekkel eltávolodjon a ketrectől, de közben is vissza-visszanézett. Kint, az ól előtt megállt, és marokra gyűrt zsebkendőjével szárítgatta a homlokát, tudta, hogy felfedezését azonnal jelentenie kell.
Doktor Barta Edit, az Állami Gazdaság igazgatónője még fent volt ezen a kései órán, tanulmányt írt egy mezőgazdasági folyóiratba, épp az „aratás” szó jelentését kereste az Értelmező Szótárban, mikor Kerekes bekopogott hozzá, és elfulladó hangon közölte, hogy az egyik malac tud beszélni. Az igazgatónő megigazította a szemüvegét:
     – Ide figyeljen, Kerekes: azt még elnéztem magának, hogy a múltkor részegségében belezabált a hallisztbe, és utána az önitatót nyomkodta az orrával, de ha ebből azt a következtetést vonja le, hogy magának mindent szabad, és éjnek idején is ilyen marhaságokkal zaklat, ki fogom rúgni.
A sertésgondozó égre-földre esküdözött, hogy igazat mond, és addig könyörgött, amíg rábeszélte az igazgatónőt, hogy menjen ki vele a telepre.
Éjfél már elmúlt, mire kiértek, és megálltak a sertésnevelő IV-es ketrece előtt. A kilenc malacból nyolc most is aludt, csak a félrehúzódó malac emelkedett fel négy lábra a kézilámpa fénykévéjében, száján vastag tajték hólyagzott, vöröses szemeivel gyanakodva figyelte a látogatókat.
    – Mindjárt – mondta Kerekes biztatóan, és áthajolt a rácson –, Józsi, a kurva anyádat!
    – Hogy beszél, Kerekes, az én jelenlétemben?!
    – Ne tessék haragudni, igazgatónő kérem, de én ezt a szöveget hallottam a malactól, és lehet, hogy mást sem tud. Mondd szépen, hogy Józsi, a kurva anyádat! – és biztatóan megvakarta a hátát.
A malac nem szólt, jobbra-balra forgatta a fejét, aztán egy alattomos mozdulattal belekapott a gondozó kezébe úgy, hogy a foga alatt megroppantak a csontok. Doktor Barta Edit lesújtóan nézett a fájdalmában fél lábon ugráló sertésgondozóra:
    – Gratulálok! Holnap jöjjön be a munkakönyvéért, Kerekes, maga nem fog szórakozni velem!

CHÚ LỢN BIẾT NÓI
Người dịch: Lệnh Lỗi Dương
(Tác giả giữ bản quyền. Mọi hình thức sử dụng đều phải được phép bằng văn bản hoặc e-mail)
Vào lúc mười rưỡi tối, sau đợt cho ăn cuối cùng Kerekes, nhân viên chăn lợn của nông trường quốc doanh Feketetelek tắt điện ở chuồng số IX, để các chú lợn con có thể ngủ yên. Một lần nữa gã đi  dọc theo khu chuồng rộng rãi đến mức có thể họp chợ, gã kiểm tra nhiệt độ, xem có còn đủ nước trong bình dự trữ, thấy mọi việc đều ổn thỏa. Gã đi đến cuối dãy chuồng, đột nhiên có ai lên tiếng phía sau lưng:  
         –  Con mẹ mày, Józsi Józsi!
Tên thường gọi của Kerekes thực ra là Lajos, nhưng gã cũng quay người lại hướng về phía tiếng nói, gã tưởng rằng có anh bạn chăn lợn nào đó say, đang thu mình lảm nhảm trong góc chuồng lợn, nhưng cho dù gã chú ý thế nào cũng không thấy ai. Có phần hơi mất tự tin, nhưng gã cũng bình tĩnh lại sau sự kiện này, và cố tự giải thích là có thể có ai đó chửi thề bên ngoài khu chuồng trại, hoặc cũng có thể là tai gã đã bị ù. 
         - Hôm nào đó, mình phải đi khám bệnh, và phải rửa tai một cái mới được - gã lẩm bẩm.
Kerekes nâng then cửa sắt lên, để cài vào cửa, một lần nữa cái giọng cao, khàn khàn trước đó lại cất lên
        – Con mẹ mày, Józsi!
Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa mà đã có thể khẳng định rằng bên trong khu chuồng có ai đã nói, thậm chí có thể xác định được cả hướng của tiếng nói đã phát ra từ ngăn thứ IV. Trong ngăn này, có chứa các chú lợn bột mà nông trường quốc doanh đã mua lại từ các chủ cá thể, để bù vào số lợn chết, mà trận dịch khuẩn Bruce đã gây ra cho đàn lợn.
Kerekes bước đến gần ngăn số IV. Đêm nay có chín chú lợn bột nằm đằng sau lưới trong tư thế rất kỳ quặc: tám chú chúi mõm quấn vào nhau theo một cách chưa từng thấy, đến nỗi một ông hàng thịt giàu kinh nghiệm cũng thấy khó mà chọn lọc ra được, đầu nào hay chân nào là của chú lợn nào, nửa phần lớn còn lại của ngăn chuồng, lại bị một chú lợn đang dang người ra ngủ say chiếm lĩnh. Có lẽ chú ta đã phải đánh nhau một trận ác liệt để đạt được tình thế đặc biệt này, bởi vì khi Kerekes bật đèn pin, đã thấy những vết thương đỏ trên tai, trên cổ chú lợn có từng đám lông đẫm máu kết lại từng chùm.
      Gã nhân viên chăn lợn tỳ khuỷu tay lên lưới chăm chú nhìn mấy phút, cố đợi giọng nói cất lên lần nữa. Một hồi lâu, chỉ nghe có tiếng thở phì phò càu nhàu của đám lợn đang nằm kết bầy, khi một chú lợn bột nào đó vặn vẹo, phá đám giấc ngủ của cả bầy, bỗng nhiên chú lợn nằm riêng lên tiếng:
    –  Con mẹ mày, Józsi!
      Kerekes thất kinh, một hồi lâu mới có thể bừng tỉnh đến mức có thể rời xa ngăn chuồng với hai đầu gối run bần bậy, vừa cố ngoái nhìn lại. Ra đến bên ngoài, gã đứng trước dãy chuồng, lấy khăn tay đã vò nát lau mồ hôi trán, gã biết rằng, phải đi báo cáo ngay với cấp trên về khám phá mới của mình.
       Thạc sĩ Barta Edit, nữ giám đốc nông trường quốc doanh bấy giờ vẫn còn thức, cô đang viết bài nghiên cứu cho một tạp chí nông nghiệp, đúng lúc cô đang tra nghĩa của từ "thu hoạch" trong Từ điển Giải nghĩa, thì Kerekes gõ cửa, báo với cô bằng một giọng như sắp chết ngạt, rằng có một con lợn bột biết nói. Nữ giám đốc sửa lại kính:
  –  Nghe đây, Kerekes:  tôi đã từng tha tội cho anh, lần trước anh đã vục mặt vào máng ăn bột cá, sau đó lại dí mũi vào máng uống nước của lợn, nhưng nếu từ việc đó anh lại dám suy diễn rằng, anh có thể tự do làm mọi thứ, và vào giờ đêm thế này còn đến quấy rối với những trò nhảm nhí thế này, tôi sẽ đá đít anh ngay.
     Gã nhân viên chăn lợn thề non thề biển, rằng gã nói thật, và van vỉ cho đến khi thuyết phục được vị nữ giám đốc đi cùng mình ra khu chuồng lợn.
     Đã qua nửa đêm, khi họ ra đến nơi, và đứng trước ngăn chuồng nuôi lợn số IV. Trong số chín chú lợn bột có tám chú vẫn ngủ say, chỉ có chú lợn tách riêng đứng trên bốn chân trong ánh đèn pin le lói, miệng sùi ra những đám bọt lớn, mắt đỏ ngầu nhìn các vị khách một cách nghi ngại.
    – Đợi chút –  Kerekes nói một cách vỗ về, và cúi người qua lưới – Con mẹ mày, Józsi!
    – Anh dám ăn nói thế à, Kerekes, ngay trước mặt tôi?!
    – Xin giám đốc đừng giận, tôi đã nghe đúng câu này từ con lợn này, và rất có thể, nó không biết câu nào khác. Nào hãy nói đi, con mẹ mày, Józsi! – và gã xoa lưng chú lợn động viên.
Chú lợn không lên tiếng, xoay đầu sang phải, sang trái, rồi bằng một động tác xảo quyệt ti tiện ngoạm luôn vào tay của gã chăn lợn, đến mức tiếng xương kêu nghe răng rắc dưới hàm răng của nó. Thạc sĩ Barta Edit cay cú nhìn gã chăn lợn đang nhảy dựng lên vì đau:
    –  Chúc mừng! Ngày mai mời anh đến chỗ tôi lấy lại sổ lao động nhé, Kerekes, anh sẽ không thể đùa với tôi được nữa đâu! (còn nữa)

Magyar szavak képekben
Các từ tiếng Hung bằng hình ảnh
Malac és sertésgondozó - Lợn bột và người chăn lợn
Szemuveges igazgatóno - Nữ giám đốc đeo kính
 Állami Gazdaság - Nông trường quốc doanh
 Sertéstelep - Trại lợn

5 comments:

  1. Đoạn này mình xin đóng góp một số ý kiến sau:
    1. "Ól" ở đây có nghĩa là "chuồng" thay cho "khu chuồng" hay "dãy chuồng".
    2, "mert ahogy Kerekes rávilágított a kézilámpájával" nên dịch là " bởi vì khi Kerekes bật đèn pin"
    3, " összerázkódott" có nghĩa là "giật minh/hoảng sợ".
    4. vissza-visszanézett" có nghĩa là "thỉnh thoảng lại ngoái lại nhìn".
    5. "Doktor" có nghĩa là "bác sĩ (thú y)"?
    6. "ki fogom rúgni" có nghĩ là "tôi sẽ sa thải"
    7. " alattomos mozdulattal" nên dịch là "động tác quái đản"?.

    ReplyDelete
  2. Köszi Ái Việt đã đăng/dịch truyện này bằng cả hai thứ tiếng Hung - Việt trong khi cũng vẫn thực hiện bản dịch của Hoàng tử Bé và nhiều việc khác.
    Rất cảm phục sự nỗ lực của bạn!

    ReplyDelete
  3. Vì đang chuẩn bị hội nghị, mình dịch rất nhanh, hầu như không đọc lại, đúng là còn sạn. Đã tiếp thu sửa lại theo một số góp ý của Ngô Việt. Có một số điểm còn lại trao đổi thêm như sau:
    - Ól từ điển nghĩa là "ổ, chuồng" nhưng thực ra trong context là "dãy chuồng". Vì ól có nhiều ketrec, ketrec số 4 đã có tới 9 con lợn, vì vậy tương đương với một cái chuồng ở Việt Nam, ở đây đã dịch là "chuồng" hoặc "ngăn chuồng". Như vậy ól gồm nhiều chuồng, phải là "dãy chuồng" mới logic. Và trong nội dung cũng nói ól số 9 to như một cái chợ csarnok (xã hội chủ nghĩa thời đó, cần gì kinh tế). Theo mình từ điển cũng có thể thiếu sót, đi vào thực tế mới thấy được, vì người soạn từ điển cũng theo nghĩa mà họ biết, còn ngôn ngữ thì biết động theo cuộc sống
    - Doktor mình dịch từ Kis doktor là thạc sĩ một bằng cấp khá phổ biến ở Hung. Theo nội dung, cô giám đốc này không phải là bác sĩ thú y mà là thạc sĩ kinh tế nông nghiệp.
    - Kirúgni trong văn phong nghiêm chỉnh có thể dịch là "sa thải", nhưng ở đây trong văn ngôn đối thoại dùng "đá đít" hay hơn và ý như nhau.
    - Alattomos ở đây là "xảo quyệt ti tiện", đọc tiếp sẽ thấy tại sao.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Ở đoạn trên mình đã dịch "a IX-es számú ólban" là "ở chuồng số IX," nên ở dưới chắc chắn "ól" phải dịch là chuồng mới nhất quán. Mình cũng hình dung là Kerekes đang ở trng một chuồng rất lớn có nhiều ngăn (ketrec)

      Delete
    2. Nếu không thích dùng "sa thải" thì có thể dùng "tống cổ..." vì nếu dùng "đá đít" thì người đọc không cảm nhận là anh ta sẽ bị sa thải.

      Delete