Tham thực cực thân…Tham bát bỏ mâm.... tham vàng bỏ ngãi....v v Cái
việc có nhiều câu ca dao tục ngữ chế giễu lòng tham ở ta không phải là
chứng minh dân ta sáng suốt khuyên bảo nhau ăn ở đúng mức. Mà chỉ chứng
tỏ số người tham quá nhiều, và những lời khuyên bảo nhau đừng tham, nhất
là trong ngày hôm nay, chỉ là những cố gắng tuyệt vọng.
Gốc rễ lâu bền
Tham thực cực thân…Tham bát bỏ mâm.... tham vàng
bỏ ngãi… một vài bạn đã dẫn ra nhiều câu tục ngữ chế giễu tính tham của
người mình. Rồi lại dẫn các truyện cổ tích Cây khế , truyện ngụ ngôn
ngoại nhập Gà đẻ trứng vàng .
Tôi xin mách thêm là có cả một kho truyện nữa nơi đó những kẻ tham lam được miêu tả với bộ mặt thảm hại. Đó là các truyện cười.
Dân ta biết lắm chứ. Biết rằng tham là xấu, và đứng về quyền lợi cá
nhân, tham là dại. Cha mẹ muốn con khôn ngoan thì dạy con khi ra đời
đừng tham quá.
Chỉ xin lưu ý không phải cứ cái gì người ta coi là
tốt đẹp là có thể làm theo, cứ cái gì người ta chế giễu là lập tức từ bỏ
được ngay. Trình độ làm chủ bản thân của con người không phụ thuộc ý
muốn chủ quan. Phần lớn chúng ta “miệng khôn trôn dại”. Không phải một
lần ngã là một lần bớt dại. Mà ngàn lần ngã rồi, khốn khổ thay, vẫn cứ
dại tiếp.
Cái việc có nhiều câu ca dao tục ngữ chế giễu lòng tham ở
ta không phải là chứng minh dân ta sáng suốt khuyên bảo nhau ăn ở đúng
mức. Mà chỉ chứng tỏ số người tham quá nhiều, và những lời khuyên bảo
nhau đừng tham, nhất là trong ngày hôm nay, chỉ là những cố gắng tuyệt
vọng.
Việc tìm hiểu sự gian tham nói chung, sự gian tham của người
Việt hôm nay nói riêng, do đó không bao giờ mất hết ý nghĩa. Ít ra, nó
sẽ giải thích, chẳng hạn, tại sao chúng ta không làm việc được với nhau,
sự làm ăn nội địa không bao giờ phát đạt được, mà khi giao thương với
nước ngoài chúng ta luôn luôn trở thành kẻ ngốc nghếch.
Những ham muốn quá mức
Chữ tham thoạt đầu chỉ có ý nghĩa trung tính – một thứ ham muốn hơi
nhiều so với khả năng. Trong nhiều trường hợp, tính tham được chỉ ra với
nghĩa ưu ái, mà đó là chính đáng. Trong những câu như tham công tiếc
việc, tham đồng nghĩa với nỗ lực đáng ghi nhận.
Trong một khái niệm
như tham vọng cũng vậy. Khi nói một người nhiều tham vọng, phần lớn tỏ ý
khen ngợi, dù mới là khen ngợi một nửa.
Có thể thấy sự liên hệ rõ
ràng giữa lòng tham trong những trường hợp thông thường với phần bản
năng tự phát của con người. Khi thứ bản năng này được sự hướng dẫn của
lý trí, nó có thể trở thành yếu tố phụ trợ cho những nỗ lực rất cần
thiết của cuộc sống. Nhưng khi lý trí không đủ, chỉ có bản năng xui
khiến, người ta dễ làm hỏng cả đời mình. Người xưa nói bị lòng tham làm
cho mờ mắt, tức khiến con người mất hết sáng suốt.
Những hạn chế về trí tuệ
Bình luận về một người tham, người ta thường bảo người đó còn trẻ con.
Nghĩa là tỏ ý chê rằng khờ khạo và ngầm có ý thông cảm tha thứ. Ai mà
chả tham ! Câu này giống như một thứ phẩy tay cho qua.
Để khỏi tham,
tức để trở thảnh người lớn, đương sự phải ý thức được mình. Xem mình có
thể có cái gì và không thể có cái gì, có thể làm được cái gì. Để khỏi
thất vọng thì chỉ nên ước muốn điều mình có thể đạt tới.
Muốn khuyên
con người đừng tham, đạo nho kêu gọi một sự tri kỷ tri bỉ, tức biết
mình biết người. Và trong đường đời, người xưa khuyên nhau phải biết
dừng lại đúng lúc (tri chỉ ).
Sách vở đạo nho thường chê những kẻ tham là con người không biết tự cho là đủ --“không biết tri túc”.
Câu chuyện tham hay không tham rút lại là sự trưởng thành của con người, là tầm vóc trí tuệ mà người ta đạt tới.
Hai truyện Cây khế và Gà đẻ trứng vàng giống nhau ở chỗ cả hai cùng nói
về sự thiếu hiểu biết của người tham khi xử lý các mối quan hệ với
thiên nhiên. Người nông dân trong Gà đẻ trứng vàng tưởng rằng trong bụng
gà có vàng nên mới mổ thịt. Còn người anh trong truyện Cây khế thì
tưởng rằng con chim thần có thể chở bao nhiêu cũng được, nên bị chết mất
xác.
Trong câu ca dao Mẹ em tham thúng sôi rền tham con lợn béo
tham tiền Cảnh Hưng, bà mẹ tham bởi không đánh giá đúng các yếu tố liên
quan tới tương lai của người con.
Trong câu tục ngữ tham vàng bỏ ngãi, lòng tham đồng nghĩa với sự thiển cận, đặt các ưu thế vật chất lên trên ưu thế tinh thần.
Nghèo đói lâu ngày nên khi giầu lên
vẫn không bỏ được tính tham
Muốn tránh mang tiếng tham, người ta phải từng trải và có lý trí.
Khốn thay trong một xã hội tiểu nông điều đó quá khó. Cộng đồng Việt
xưa nay luôn luôn trong tình thế làm ăn sản xuất kém cỏi, của làm ra
không đủ nuôi mình. Mà do tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thấy đáng lẽ
mình có thể sống khá hơn. Nên sinh tham lam càm quắp.
Đa số trường
hợp tham của dân ta thời xưa chỉ là tham vặt. Lâu dần tính tham lặn sâu
trong tâm trí người ta như một bản tính cố hữu. Cùng với tính bủn xỉn
hạt tiện (thời chiến tranh dân Hà Nội gọi là ky bo), nó là anh em sinh
đôi. Trong sự gian tham, người ta đã tự chứng tỏ mình vốn hèn kém như
thế nào.
Từ chỗ là bệnh riêng của con người tiểu nông, lòng tham ấy kéo dài chi phối cả người Việt khi đã sống trong thời hiện đại.
Nhiều người làm ăn ở nước ngoài về từng có chung một nhận xét là người
mình dù đi ra ngoài song vẫn không thể đi xa trong chuyên môn được. Có
phải lười không, không hẳn. Mà là do không biết nhìn xa trông rộng. Sau
đây là câu chuyện tôi từng nghe kể để hiểu ra cơ sự này. Có những anh
bạn là bác sĩ sau khi ra trường thuộc loại xuất sắc, mở phòng mạch khá
đông khách. Nhưng anh ta ham quá không tính tới chuyện làm kỹ học hỏi
thêm. Trong khi đó đồng nghiệp nước ngoài làm ăn từ tốn, vừa làm vừa
nghiên cứu. Sau vài năm người bác sĩ Việt giầu lên, nhưng trình độ đuối
dần đi. Còn các bác sĩ ngoại quốc đồng nghiệp bước sang hẳn một trình độ
nghề nghiệp mới. Cuối đời, họ hơn hẳn người mình cả về tiền tài lẫn
danh vị. Hơn vì không tham mà biết tính lâu dài.
Trường hợp của giới quan chức
Một nghĩa phổ biến hơn của tham là muốn có cái mà mình không làm ra,
không có. Một người thường bị coi là tham khi trong quan hệ với chung
quanh, anh ta không biết tự kiềm chế, mà ăn lạm vào phần của người khác.
Nguyên tham là một từ Hán, từ lâu ta đã vay để dùng. Mà trong các từ
điển Hán - Hán, như Tân Hoa, Tứ giác, thì người ta ghi tham là lợi dụng
chức quyền chiếm đoạt tài sản một cách phi pháp. Cụm từ tham quan ô lại
xuất hiện thường xuyên trong các sách kể chuyện lịch sử bộ máy cai trị.
Tham như vậy là một đặc tính phổ biến cho nghề làm quan . Giới này là
dân chi phụ mẫu, không ai bảo là trẻ con nữa. Chỉ họ mới hiểu thế nào là
đủ, mới có liêm sỉ, mới kiểm soát được mình. Nhưng cũng chỉ họ mới có
quyền lực và có cả lòng tự tin để bộc lộ lòng tham một cách thô bỉ. Nên
càng đáng ghét.
Trong một số tài liệu người Pháp, tôi thấy người ta
thường chê là quan lại VN vừa tham vừa dốt. Hai cái đức tính quý báu này
phát triển ngang nhau, không cái nào thua cái nào.
Tham như vậy là
một đặc tính vốn thấy trong nhóm người đặc tuyển (elite). Nhưng ở ta thì
sự tham liên quan tới số đông. Bệnh đã thành đại trà, thành quá phổ
biến. Thói tham lam bị chế giễu trong các truyện cười chủ yếu thuộc loại
tham này.
Chỗ bắt đầu của nhiều thói xấu khác
Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của nêu rõ tính cách tiêu cực của tham là ham hố, không biết liêm sỉ.
Việt Nam tự điển của Hội Khai trí tiến đức cũng ghi ham muốn một cách không chính đáng.
Đến đây thì tham không còn “có thể thương được” nữa mà trở thành đáng
sợ, do nó là đầu mối mọi bệnh hoạn trong đời sống tinh thần. Và đây là
hướng phát triển của lòng tham thấy rõ nhất trong xã hội hiện đại.
Tham gắn liền với gian dối. Người ta hay đặt chữ gian bên cạnh chữ tham,
bởi lẽ máu tham bốc lên người ta không từ một thủ đoạn nào, khi đó sự
giả dối là công cụ thông thường nhất và dễ kiếm nhất.
Trong hoàn cảnh cuộc sống quá khắc nghiệt, sự tham lam ở VN đồng nghĩa với sự nhẫn tâm, những thủ đoạn.
Tham với nghĩa sát phạt cạnh tranh mở đường cho ăn cắp ăn cướp. Ăn cắp
khác với ăn cướp ở chỗ một bên làm một cách dấm dúi, còn một bên là công
khai, có pha thêm bạo lực .
Nguyễn Công Hoan có truyện Đồng hào có
ma. Truyện kể về một viên quan nhận hối lộ, nhưng tệ hại đến nỗi khi
người vừa vào cửa quan đánh rơi đồng xu thì y liền lấy chân giậm lên,
khiến cho người dân kia mất toi món vi thiềng đã chuẩn bị, đành phải cáo
lui. Ví dụ này thường được kể lại với nghĩa kẻ đã tham thì thường tham
từ những cái ly leo nhỏ nhất trở đi. Lòng tham không đáy.
Tính tham ở người Việt
Có lẽ không ở nước nào, bệnh tham lại được nhắc nhở nhiều như ở ta. Tại
sao? Như trên đã nói, chúng ta là một xã hội không làm ra đủ của cải để
nuôi sống mình. Từ bao đời nay, con người luôn luôn tự nhủ rằng lẽ ra
mình phải sung sướng hơn, giàu có hơn. Rồi thất vọng. Rồi sinh ra làm
liều làm bậy.
Con người nhiều khi cư xử không còn chút tự trọng.
Giữa những người cùng nghèo với nhau, miệng thì nói lá lành đùm lá rách,
song trong bụng thừa biết rằng nỗi bất hạnh của mình, bắt nguồn từ sự
có mặt của người khác. Nói như Nam Cao Hạnh phúc như một chiếc chăn quá
hẹp. Người ta tìm cách cạnh tranh với nhau dìm dập nhau bắt nạt nhau để
thủ lợi .
Dân gian có câu tham như mõ. Theo quan niệm xưa, mõ là kẻ
loại mạt hạng, “đứng ngoài vòng pháp luật”, không còn bị bất cứ lễ nghĩa
nào ràng buộc. Lòng tham ở mõ mang tính cách trơ tráo. Lại có câu tham
như chó, với nghĩa kẻ tham là một giống vật hạ đẳng.
Tại sao thời nay lòng tham lại nẩy nở không gì ngăn cản nổi
Nếu trở lại với những trang lịch sử xã hội sau 1945, người ta sẽ phải
giật mình. Một thời gian dài, cùng với nhiều thói xấu khác, lòng tham ở
con người hầu như biến sạch.
Trong chiến tranh và cách mạng, người
ta cảm thấy chẳng có gì phải giữ riêng cho mình. Vả chăng lý tưởng con
người lúc ấy trong sáng, ai cũng nghĩ hãy vì cái chung mà phấn đấu đi,
rồi ra sẽ được đền đáp. Ngày mai đây tất cả sẽ là chung – tất cả sẽ là
vui và ánh sáng ( thơ Tố Hữu ). Lúc ấy người ta không tham.
Nay thì
cái ước ao hạnh phúc hóa ra câu chuyện ngày một xa vời, người ta bắt đầu
cảm thấy nếu không tự lo thì sẽ chẳng ai lo cho mình cả. Cái điều mà
chúng tôi gọi là tự do hoang dại nay tha hồ phát triển. Nó là mầm mống
của cái ác.
Nay cũng là lúc tốt xấu nháo nhào, hay dở nhiều khi là
chuyện vô nghĩa. Ca dao ngày xưa Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn—chính chuyên
cũng chẳng sơn son mà thờ. Còn ngày nay dân chúng bảo nhau Thẳng thắn
thật thà thường thua thiệt -- Lỗi lầm luồn lọt lại lên lương …
Khi
tự hiểu là không sao tổ chức được một đời sống như đã hứa, nhà nước thả
cho mọi người tha hồ cạnh tranh và sát phạt nhau. Được sự khuyến khích
ngấm ngầm, thói gian tham như con thú sổ chuồng, ngày một hoành hành
không biết đâu là giới hạn. Đây cũng là một khía cạnh trong cái gọi là
tội làm hư dân của giới quan chức mà có lần chúng tôi đã đề cập tới.
Trong số các vấn đề nhức nhối của cái thời chúng ta đang sống, có vấn
đề sự tan vỡ của niềm tin, sự trống rỗng của lý tưởng. Nó là nguồn gốc
sâu xa làm phát sinh mọi thói xấu đặc trưng cho xã hội ta sau chiến
tranh. Không chỉ ham hưởng thụ và chạy theo các tiện nghi vật chất,-- mà
nhiều người ngày nay lấy việc trở nên giầu có với bất cứ giá nào làm lý
tưởng sống của mình. Đạo đức cổ truyền hoàn toàn đảo lộn.
Sau cách
mạng, xã hội vốn sống bằng noi gương, bằng cách làm theo những mẫu mực
đạo đức được huyền thoại hóa. Lẽ tự nhiên sự lỗi thời trong hình ảnh
những nhân vật mẫu mực hôm qua tạo nên một khoảng trống. Còn những mẫu
giả hôm nay, xã hội không sao tiêu hóa nổi, nhắc tới chỉ gây phản cảm.
Chính những kẻ hay lên lớp người ta về “sống cho trong sạch” “sống phải
cống hiến” lại đang đi đầu trong tham lam vơ vét . Khi vỡ ra điều đó,
mọi người bình thường sớm muộn sẽ cảm thấy sống tử tế chỉ thiệt.
Ngày xưa còn có người tự hào rằng mình sống bằng sự tự trọng và có một
thứ cao quý về mặt tinh thần phân biệt mình với những kẻ tầm thường
khác. Nay thì mọi sự thiêng liêng không còn, chúa coi như đã chết. Con
người buông thả đã thế chỗ con người khổ hạnh. Người ta tự nhủ tha hồ
làm bậy, miễn giỏi che giấu và biết khoác lác tự tô vẽ tự tuyên truyền.
Một người nước ngoài từng làm phóng viên theo dõi cuộc chiến tranh ở VN
nói rằng nay là lúc người Việt người nào cũng gian giảo theo cách của
mình, nên nay là lúc chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì to lớn nữa. Họ
có cái lý của họ.
Vương Trí Nhàn (from FB/Ngo Tien Uy)
Lê Minh (Debrecen,VIDI69): Chinh xac !
ReplyDeleteQuan tham, dân gian. Người ngay thẳng, chính trực khó tìm nên bây giờ ra đường người ngay phải sợ kẻ gian là thế.
ReplyDelete