Tuesday, August 2, 2016

Lịch sử của biểu tượng "chữ thập ngoặc" (1)


Rất nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng lặp với “chữ thập ngoặc” của Đức Quốc Xã.


Gọi là “chữ”, nhưng thực ra cả hai đều là những biểu tượng. Người Việt gọi hai biểu tượng này bằng hai tên gọi khác nhau, nhưng người Tây phương đều gọi là Swastika, vì cả hai có hình thức bề ngoài hoàn toàn giống nhau. Một số tài liệu Phật giáo, thậm chí cả một số Bách khoa toàn thư, đã cố gắng chứng minh rằng hai biểu tượng này có hình dạng khác nhau – khác nhau về chiều quay và khác nhau về tư thế thẳng đứng hoặc nghiêng: Chữ Vạn quay thuận chiều, “chữ thập ngoặc” quay ngược chiều; Chữ Vạn thẳng đứng, “chữ thập ngoặc” đổ nghiêng. Nhưng thực tế không đúng như thế: Chữ “Vạn” của Phật giáo sử dụng cả hai chiều quay trái ngược nhau, “chữ thập ngoặc” của Đức Quốc Xã sử dụng cả hình đứng lẫn hình nghiêng. Tóm lại về hình thức bề ngoài, hai biểu tượng này hoàn toàn giống nhau. Vì thế, cần tìm hiểu vì sao có sự “trùng lặp” khó hiểu như vậy. Tuy nhiên, tìm hiểu lịch sử của Swastika chúng ta sẽ thấy rằng:

● Swastika đã xuất hiện từ thời cổ đại, ngay từ đầu nó không chỉ là biểu tượng của riêng Phật giáo, mà là biểu tượng của rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau.

● Swastika của Đức Quốc Xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan đến Swastika của người Aryan.

Vậy để tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu tượng này là Swastika. Chữ Vạn sẽ chỉ được dùng khi đề cập đến Swastika của Phật giáo.

Vậy Swastika có xuất xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Người Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi cần được trả lời.

PHẦN I: TỪ SWASTIKA ĐẾN ARYAN

I.1-Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika:

Swastika là một trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó đã được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng Indus. Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành T’roa (Troy), chứng tỏ nó đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N.

Mặc dù chưa ai vẽ ra được một “lộ trình di cư” chính xác của Swastika qua các thời đại, nhưng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika đã có mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng HyLạp – tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (đọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Độ.

Trong tiếng Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being).

Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và sáng tạo (creativity).

Swastika trong nghệ thuật của người Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tư, nhưng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả.

Phật giáo đã thừa hưởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thường xuất hiện ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternity).

Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết:

Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp nên cũng có 32 tướng tốt. Điều này được ghi trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật. Theo kinh Trưòng A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật.

Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dương trong vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) – trong đó manji quay trái được gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh và trí thông minh.

Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng đã được tìm thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá thuộc khu vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước CN đến tận thời trung cổ.

Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn hoá Celtic (đọc là Seltic hoặc Keltic) – nền văn hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước CN kéo dài mãi đến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền văn hoá này là người Celt – người nói tiếng Celtic – những người nổi tiếng thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến đấu.

Cần đặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hơn được gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?

I.2-Ngôn ngữ Aryan và người Aryan:

Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ).

Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay. Những cư dân này tự gọi mình là người Aryan.

Vào khoảng 1500 năm trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên tại Ấn, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức tìm ra cách để viết. Đó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ. Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lưu giữ được trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu mà ngày nay ta biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là người phú quý (nobleman) hoặc chúa tể đất đai (lords of land)!

Một nhánh khác của người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất giống nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, PhầnLan, LátVia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga).

Vì thế ngôn ngữ Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan được gọi là người Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ còn được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối mầu hơn.

Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người Aryan cổ đại.

Dân tộc Iran ngày nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người Aryan đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà không để lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nơi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?.

Đây là câu trả lời. Vào khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, người Aryan đã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana được gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran.

Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of history) rằng: “Lịch sử của loài người bắt đầu từ lịch sử của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn minh Iran có trước nền văn minh Ai Cập quãng 3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước đây.

Tóm lại, người Aryan một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần đã di cư sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người Âu Mỹ như ngày nay.

Tuy nhiên, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại.

I.3-Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”:

Như độc giả đã thấy, các văn bản đã cổ gắng mô tả người Aryan là những người có những “ưu điểm vượt trội”: những người “phú quý” hoặc “chúa tể đất đai”! Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành tích vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú hơn” (superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói đến chữ Aryan, tôi không hề có ý định đề cập đến những khái niệm liên quan đến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học.

Đến những năm 1920, chủ nghĩa Quốc Xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên đến mức cực kỳ phản động: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Darwin-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng nguyên lý đấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài người.

Nhưng tại sao Đức Quốc Xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của chúng?

Trước khi biết rõ bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn chọn Swastika làm biểu tượng cho đảng Quốc Xã, đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây:

Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, người đã khám phá ra Swastika trên đống đổ nát của thành T’roa, trong một công trình nghiên cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói cách khác:

Swastika là biểu tượng đặc trưng của người Aryan!

(Còn nữa)
Nguồn: trích đăng từ bài Lịch sử biểu tượng "chữ thập ngoặc" của Đức quốc xã (Nghiên cứu quốc tế)

2 comments:

  1. Hua Hoai Nam: Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na giáo, đều sử dụng chữ nầy. Đầu tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Phạm thiên, Tỳ thấp nô (Phạn ngữ: Visnu), Cát Lật Sát Noa (Phạn: Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy.
    Theo công trình nghiên cứu của tiến sĩ Quang Đảo Đốc ở trường đại học Quốc Sĩ Quán, Nhật Bản thì chữ Vạn vốn không phải là chữ viết. Bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên đã thấy ghi trong đạo Bà-la-môn ở lồng ngực của thần chú Tỳ Thấp Noa với ký hiệu là vátsa, cho tới thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên mới được dùng trong kinh Phật. Đến thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên lại đổi tên thành svastiko, vốn là tướng hình trôn ốc túm lông đầu con trâu, lại biến thành lông ngực của thần chủ Tỳ Thấp Noa, sau đó trở thành một trong 16 tướng tốt, rồi lại thành một trong 32 tướng tốt.

    Biểu tượng Chữ Vạn được sử dụng trên Quốc kỳ và Đảng kỳ của Đức Quốc xã.
    Theo kinh Trường A Hàm, chữ Vạn là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật. Theo Đại Tất Già ni càn tử sở thuyết kinh quyển 6, chữ Vạn là tướng tốt thứ 80 của Thích Ca Mâu Ni, nằm trước ngực. Trong Thập địa kinh luận quyển 12 có nói, khi Bồ Tát Thích Ca chưa thành Phật, giữa ngực có tướng chữ Vạn kim cương, biểu thị công đức trang nghiêm. Nhưng Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm quyển 3 có nói đầu tóc của Phật cũng có 5 tướng chữ Vạn.Trong Hữu bộ Tỳ nại Da tạp sự quyển 29 nói: Ở lưng của Phật cũng có tướng chữ Vạn.Trong kinh Đại Bát Nhã quyển 381 nói rằng: chân tay và trước ngực của Phật đều có "Cát tướng hỷ toàn" để biểu thị công đức của Phật, tức là chữ Vạn.
    Cưu Ma La Thập và Huyền Trang dịch chữ Vạn là chữ Đức, ngài Bồ Đề Lưu Chi thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban đầu không được đưa vào kinh truyện, đến năm 639, thời Võ Tắc Thiên, mới đặt ra chữ này, đọc là Vạn và cho rằng chữ này có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành.
    Những năm 1940 của thế kỷ 20, Adolf Hitler cũng dùng hình chữ Vạn để làm phù hiệu cho chủ nghĩa Quốc xã.

    ReplyDelete
  2. Hua Hoai Nam: Biểu tượng này còn mang nghĩa "Vấn thân vô tội" , theo truyền thuyết thì các vị sư tu hành đắc đạo, đạt quả vị A-la-hán sẽ phải trải qua quá trình đoạn các duyên để đạt đến đại ngã, vượt qua các rào cản của thất tình lục dục: Lục dục gồm:
    1. Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp. 2. Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai. 3. Hương dục: ham muốn ngữi mùi thơm dễ chịu. 4. Vị dục: ham muốn món ăn ngon miệng. 5. Xúc dục: ham muốn xác thân sung sướng. 6. Pháp dục: ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn. và Thất tình bao gồm: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục (mừng, giận, thương, ghét, buồn, vui, muốn).... các vị A-la-hán trong giai đoạn này mới chỉ đoạn ác tâm còn các ý niệm về tình và dục vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt, nếu vượt qua giai đoạn này sẽ tiến thêm một bước chứng quả vị Bồ tát, hai tay sẽ hiện dấu "vấn thân vô tội" , có nghĩa là đoạn được Thất tình -Lục dục mà không gây thêm nghiệp , Ở hàng quả vị Bồ tát thì chỉ còn có tình ở lại mà thôi, tiếp tục tu hành để đăng quả vị cao hơn ( biến từ tiểu ái thành đại ái ).....

    ReplyDelete